Xem mẫu
- Nhiễm độc lân hữu cơ
I. MỞ ĐẦU
Thuốc trừ sâu phospho hữu cơ (còn gọi là lân hữu cơ) được sử dụng rất rộng rãi trong sản
xuất nông nghiệp ở nước ta. Thuốc có tác dụng tốt trong phòng trừ sâu bệnh góp phần
nâng cao năng suất cây trồng. Song hàng năm một số lượng lớn các bệnh nhân đã phải
nhập viện vì ngộ độc lân hữu cơ.
4 loại phospho hữu cơ đã và đang được sử dụng phổ biến ở nước ta là:
- Thiophốt (Parathion) màu vàng, mùi tỏi, dạng nhũ tương.
- Vôfatốc (methyl parathion) màu nâu thẫm (dạng nhũ tương) hoặc màu đỏ tươi (dạng
bột) mùi cỏ thối.
- Dipterec dạng tinh thể, màu trắng.
- DDVP (dichloro diphenyl vinyl phosphat) màu vàng nhạt.
Phospho hữu cơ xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, da, niêm mạc (nhất là mắt) và
chủ yếu là đường tiêu hóa (do bàn tay dính thuốc, ăn uống nhầm, tự tử, đầu độc...).
Nguyên nhân ngộ độc thường là cố tình tự tử. Bệnh nhân đã uống một lượng lớn lân hữu
cơ song hầu hết các ngộ độc này thường nhẹ. Chính vì vậy khi đến viện thường muộn.
Các triệu chứng thường rầm rộ, có nhiều biểu hiện đe dọa tính mạng của bệnh nhân.
Cũng có trường hợp ngộ độc do tiếp xúc trong lao động như phun thuốc, bán thuốc ...
Trong xử trí cần khẩn trương thành thục trong đó chú ý việc hiểu và dùng atropin sớm và
đúng liều.
II. ĐỘC TÍNH VÀ CHUYỂN HÓA LÂN HỮU CƠ
- - Lân hữu cơ có cấu tạo một phân tử phospho hóa trị 5 với 2 gốc carbuthydro (R1, R2),
một nhóm chức X chứa S hoặc N và một nguyên tử oxy nối đôi. Khi thay thế các gốc R1,
R2 hoặc nhóm chức ta được một chất mới có độc tính khác với chất ban đầu, vì vậy ngày
nay đã tổng hợp được hơn 400 các lân hữu cơ khác nhau.
- Cơ chế ngộ độc lân hữu cơ: Acetylcholin là chất trung gian hóa học ở hậu hạch phó giao
cảm và hậu hạch giao cảm, chi phối tuyến ngoại tiết, chi phối hệ phó giao cảm một số
nhánh giao cảm và tận cùng thần kinh vận động chi phối cơ vân. Sau khi tác động lên
màng sau synap acetylcholin bị huỷ bởi men cholinesterase (ChE). Lân hữu cơ khi vào cơ
thể được chuyển thành paraoxon gắn với ChE làm mất hoạt tính của ChE, từ đó
acetylcholin không bị thuỷ phân nữa mà tích tụ lại các synap gây nên cường choáng cấp.
Đó chính là bệnh cảnh ngộ độc lân hữu cơ. Lân hữu cơ được đào thải qua nước tiểu dưới
dạng chuyển hóa para-nitrophenol không độc và có thể định lượng được. Định lượng
para-nitroophenol cho phép chẩn đoán chắc chắn có ngộ độc lân hữu cơ hay không.
III. TRIỆU CHỨNG NGỘ ĐỘC
Ngộ độc lân hữu cơ được biểu hiện dưới 3 hội chứng:
- Hội chứng Muscarin: đây là hội chứng cường giao cảm bao gồm:
. Tăng tiết dịch tiêu hóa, nước bọt, mồ hôi.
. Đau bụng, nôn mửa, ỉa chảy.
. Mạch chậm, huyết áp hạ, có rối loạn dẫn truyền trong tim.
. Đồng tử co, màng tiếp hợp đỏ, chảy nước mắt, giảm thị lực, có lúc nhìn đôi.
. Co thanh quản đột ngột, tăng tiết đờm dãi rất mạnh.
- Hội chứng Nicotin:
. Thường xuất hiện trong ngộ độc nặng.
- . Yếu cơ, rung cơ, sau cùng liệt cơ dẫn đến liệt hô hấp.
. Rối loạn nhịp tim, rung thất, ngừng tim.
- Hội chứng thần kinh trung ương:
. Hôn mê, ức chế hô hấp.
. Co giật.
. Ức chế trung tâm vận mạch gây suy tuần ho àn dẫn đến tử vong.
IV. CHẨN ĐOÁN
- Hỏi bệnh sử: có tiếp xúc với thuốc trừ sâu, nhiễm độc qua da qua đường hô hấp hay
uống.
- Định hướng thời gian, loại thuốc số lượng.
- Lâm sàng thấy bệnh cảnh cường choáng cấp: nhẹ chỉ thấy hội chứng muscarin nặng hơn
có thể thấy hai hội chứng hoặc đầy đủ cả ba hội chứng.
- Làm test Atropin: tiêm t ĩnh mạch 2mg Atropin không thấy mạch nhanh, da đỏ, đồng tử
giãn chứng tỏ có ngộ độc lân hữu cơ.
- Đối với tuyến cơ sở chỉ cần khám lâm sàng tỷ mỉ như vậy cũng đủ chẩn đoán.
Trường hợp các cơ sở hiện đại có thể làm thêm các xét nghiệm tìm độc chất trong dịch dạ
dày, tìm chất chuyển hóa trong nước tiểu...
V. BIẾN CHỨNG
Trong cấp cứu ngộ độc lân hữu cơ nếu không kịp thời, không theo dõi sát có thể xảy ra
nhiều biến chứng:
- Co giật toàn thân.
- - Phù phổi cấp tổn thương.
- Khó thở chậm kiểu Cheyne-Stockes.
VI. ĐIỀU TRỊ
1. Loại trừ chất độc ra khỏi cơ thể:
- Gây nôn hoặc rửa dạ dày đối với các trường hợp uống lân hữu cơ. Rửa dạ dày bằng
nước chín có pha muối nồng độ 0,9%, có thể pha thêm than hoạt cho 20g mỗi 10 lít,
nhưng cũng có thể không cho than hoạt vào nước rửa mà để bơm sau khi rửa xong.
Rửa khoảng 20-30 lít nước tuỳ t ình trạng uống nhiều hay ít. Rửa đến khi nước rửa trong,
không còn mùi. 3 ngày sau nên rửa lại với ít nước hơn nhằm loại bỏ lượng lân hữu cơ
ngoài ruột ngấm trở lại ruột. Sau khi rửa xong bơm 200ml dầu Parafin vào dạ dày hoặc
12g than hoạt. Nếu bệnh nhân hôn mê phải đặt nội khí quản có bóng chèn.
Cho bệnh nhân uống sorbitol 5-10 g/ngày để tăng đào thải lân hữu cơ qua đường ruột.
Dầu parafin có tác dụng trung ho à thuốc độc và thải trừ nhanh hơn
- Tắm rửa sạch bằng xà phòng, thay quần áo với các trường hợp ngộ độc do tiếp xúc.
- Dùng thuốc lợi tiểu để tăng cường đào thải thuốc theo đường thận. Chạy thận nhân tạo
nếu có vô niệu, thiểu niệu.
2. Duy trì các chức năng sống của cơ thể:
- Thở oxy qua ống thông mũi hoặc hô hấp hỗ trợ nếu không tự thở được.
- Các cơ sở có điều kiện cho thở máy, đặt nội khí quản hoặc mở khí quản khi cần.
- Truyền dịch đẳng trương duy trì huyết áp, mức lọc cầu thận.
- Nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch.
- 3. Dùng các thuốc đối kháng đặc hiệu:
- PAM: bản chất là một oxim (2-pyridin aldoxim methylcloride) còn có nhiều loại khác
trên thị trường như praliđoxim, contrathion, obiđoxim... Dùng tiêm t ĩnh mạch 200-500
mg trong vòng 10 phút. Không tiêm trong vòng 5 phút vì cơ thể không chịu nổi, dễ gây
truỵ mạch. Thể nặng phải tiêm nhiều lần, sau liều đầu 1 giờ mới tiêm nhắc lại liều thứ hai
và sau đó có thể tiêm 30 phút một lần. Thể nhẹ và trung bình 2 giờ 1 lần. Với bệnh nhân
nặng phải thông khí trước, tiêm Atropin trước rồi mới tiêm PAM.
- Atropin tiêm t ĩnh mạch từ 1-5 mg trong vòng 5-10 phút. Tiêm liên t ục cho đến khi nào
có dấu hiệu ngấm Atropin: da khô nóng đỏ, mạch nhanh 120 lần/1 phút, thần kinh h ơi vật
vã giãy giụa. Nếu tiêm 5-10 mg trong 10 phút vài lần mà không thấy dấu hiệu ngấm thì
phải tăng liều Atropin hoặc rút ngắn thời gian dùng thuốc xuống còn 5 phút. Phải duy trì
tình trạng thấm Atropin suốt trong quá trình thông khí, sau khi ngừng thông khí nhân tạo,
có khi đến ngày thứ 10. Muốn duy tr ì tình trạng này phải thăm dò lượng Atropin cần
thiết. Khi có PAM lượng Atropin giảm đi rất nhiều có khi chỉ còn vài chục mg hoặc vài
trăm mg.
- Khi đã có dấu hiệu ngấm Atropin thì giảm liều PAM. Ngừng PAM sau 2-4 ngày điều
trị.
4. Các sơ cứu ban đầu ở cơ sở:
- Gây nôn, ngoáy họng. Chỉ làm sau 1-2 phút mới bị ngộ độc hoặc tắm rửa nếu nhiễm độc
qua da.
- Tiêm Atropin 0,5 mg t ĩnh mạch 2-4 ống/lần nhắc lại cho đến khi da hồng, ấm, hết khó
thở, hết tăng tiết.
- Bằng mọi cách đưa bệnh nhân đến viện càng nhanh càng t ốt, trên đường đi vẫn phải
tiêm duy trì Atropin và hỗ trợ hô hấp nếu cần.
- Sau khi tới tuyến trên các bước tiếp theo mới được áp dụng.
- VII. DỰ PHÒNG
1. Dự phòng chung:
- Dự phòng ngay từ cơ sở, dự phòng ngay từ khi chưa ngộ độc.
- Dự phòng ngộ độc thuốc trừ sâu lân hữu cơ biện pháp tốt nhất đó là quản lý tốt nguồn
thuốc không để thuốc trong tay trẻ em hoặc những người kém hiểu biết.
- Tuyên truyền cho nhân dân nắm được tác hại của thuốc khi bị ngộ độc hậu quả sử dụng
không đúng mục đích
- Có biện pháp phòng hộ khi tiếp xúc với thuốc trừ sâu như đi găng, đi ủng...
2. Dự phòng các biến chứng trong điều trị:
- Thầy thuốc phải thành thục trong việc sơ cứu, rửa dạ dày... dùng thuốc đúng, đủ liều
lượng, đủ thời gian.
- Đánh giá đúng dấu hiệu ngấm Atropin để cho thuốc kịp thời.
- Theo dõi sát bệnh nhân nhất là trong ngày thứ 3 thứ 4 khi các triệu chứng đã tạm ổn đề
phòng ngộ độc lại.
- Atropin và PAM là các thuốc có giá trị cao trong điều trị ngộ độc lân hữu cơ nhưng
cũng là thuốc độc cần theo dõi sát để dùng đúng liều. Trong điều trị ngộ độc lân hữu cơ
phải dùng Atropin đóng ống 1-5 mg hoặc dung dịch Atropin 1% để tiêm t ĩnh mạch.
Không dùng Atropin thông thư ờng 0,25mg vì như vậy khi dùng liều cao phải đưa vào cơ
thể quá nhiều dung dịch nhược trương sẽ dẫn đến phù tế bào. Chú ý khi dùng dung d ịch
đậm đặc cần xác định rõ mỗi mi có bao nhiêu mà tránh nhầm lẫn về nồng độ.
nguon tai.lieu . vn