Xem mẫu
- Thông tin khoa học công nghệ
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG HỖ TRỢ
CHỈ HUY TÁC CHIẾN
Phạm Trung Kiên*
Tóm tắt: Khả năng thông tin là một phần thiết yếu của chiến tranh hiện đại và
ngày càng trở nên cực kỳ quan trọng cùng với sự phát triển của chiến tranh. Để đạt
tới ưu thế thông tin, những hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến ra đời đã trở thành
một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc tự động hóa chỉ huy tác chiến. Bài báo này tập
trung nghiên cứu để xây dựng một hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến, dựa trên
phương pháp phân tích và mô phỏng.
Từ khóa: Công nghệ thông tin; Hệ thống truyền thông và máy tính; Hệ thống chỉ huy tác chiến.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc áp dụng một cách mạnh mẽ công nghệ thông tin vào lĩnh vực quân sự đã dẫn
đến sự hình thành và phát triển của những khái niệm quân sự hoàn toàn mới. Hơn lúc
nào hết, thông tin trở thành mặt hàng có giá trị nhất. Ai chiếm được ưu thế thông tin,
người đó nắm được thế chủ động trên chiến trường. Tốc độ chỉ huy tác chiến là việc
rút ngắn thời gian cần thiết để đưa ra quyết định, lập kế hoạch và phối hợp tác chiến.
Để đạt tới ưu thế thông tin, những hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến ra đời đã trở
thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc tự động hóa chỉ huy tác chiến. Hệ thống
hỗ trợ chỉ huy tác chiến là một hệ thống tích hợp đa chức năng bao gồm chỉ huy,
quản lý, truyền thông, máy tính, trinh sát, quan sát, nhận thức cho các đơn vị tác
chiến, giúp họ có thể hành động một cách nhanh chóng chính xác và đồng bộ, tạo ra
ưu thế thông tin trước kẻ thù. Nó cung cấp cho các đơn vị quân đội từ những người
lính đến người chỉ huy những thông tin đầy đủ, kịp thời cũng như những công cụ hữu
ích cho việc lập kế hoạch và thực thi các nhiệm vụ mà họ được giao. Trong những
năm gần đây, việc nghiên cứu xây dựng các hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến được
quân đội rất nhiều nước đặc biệt quan tâm. Những năm cuối thập niên 90, ở Mỹ xuất
hiện thuật ngữ “Chiến tranh mạng trung tâm” – “Network –centric warface” [1]. Đến
năm 2003 chương trình phát triển “Hệ thống tác chiến tương lai” – “Future Combat
Systems” được khởi động [2]. Tiếp nối những thành quả đạt được từ chương trình
này, hiện nay Quân đội Mỹ đang phát triển chương trình “Army Brigade Combat
Team Modernization Program”, đây là chương trình đầu tiên của quân đội Mỹ được
xây dựng phù hợp với học thuyết Tác chiến Mạng trung tâm [3]. Khái niệm Chiến
tranh Mạng trung tâm được chấp nhận ở các nước thành viên NATO dưới cái tên
“NATO Network Enable Capabilities” [4]. Ở Nga, ngay từ những năm 1980, Quân
đội Liên Xô mà sau này là Quân đội Nga đã xác định ưu thế của quân đội Nga trong
cuộc cách mạng các vấn đề quân sự sẽ dựa trên việc xây dựng các hệ thống hỗ trợ
chỉ huy tác chiến. Còn ở Trung Quốc, ngay từ những năm 2000, quân Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc đã xác định các hệ thống “tự động hóa chỉ huy tác chiến” là
thước đo quan trọng để đánh giá năng lực tác chiến của các lực lượng vũ trang. Một
trong những thành quả quan trọng nhất mà quân đội Trung Quốc đạt được là đã phát
triển thành công một hệ thống kết nối dữ liệu, được gọi là Mạng phân phối dữ liệu
chiến thuật - TIS. Hệ thống này cũng tương tự như hệ thống JTIDS của Mỹ. TIS có
thể làm việc trong tầm nhìn thẳng lên tới 500 dặm ở dải tần 960-1.215 MHz. Giống
như JTIDS, TIS sử dụng các biện pháp nhảy tần và trải phổ trực tiếp để tránh nhiễu
[5]. Trong bài viết này chúng ta sẽ xem xét kỹ cấu trúc của một hệ thống hỗ trợ chỉ
huy tác chiến và khả năng xây dựng hệ thống phục vụ cho việc hỗ trợ chỉ huy tác
chiến cho quân đội ta .
190 Phạm Trung Kiên, “Nghiên cứu xây dựng hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến.”
- Thông tin khoa học công nghệ
2. NỘI DUNG CẦN GIẢI QUYẾT
2.1. Xây dựng hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến của quân đội
Hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến là một hệ thống phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó cơ cấu tổ chức của quân đội là yếu tố liên quan trực tiếp. Tổ chức Bộ Quốc
phòng bao gồm Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, các Tổng cục, Quân khu, Quân
đoàn, Binh chủng, Quân chủng và các cơ quan tổ, chức trực thuộc Bộ. Dưới các cơ quan,
tổ chức quân sự chiến lược là các đơn vị quân sự chiến dịch, bao gồm các sư đoàn, trung
đoàn, lữ đoàn và các cấp độ tương đương. Dưới các tổ chức quân sự chiến dịch là cấp
chiến thuật từ tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội và từng người.
Hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến sẽ phân chia thành 3 cấp độ: Chiến lược, chiến dịch
và chiến thuật. Tùy thuộc vào đơn vị đó thuộc cấp độ nào mà hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác
chiến sẽ cung cấp cho họ những dịch vụ tương ứng:
- Ở cấp độ từng người, tiểu đội: Có khả năng truyền giọng nói, dữ liệu và thông tin về
vị trí địa lý.
- Ở cấp độ trung đội, đại đội: Có khả năng truyền giọng nói, dữ liệu, thông tin về vị
trí địa lý và bức tranh về địa điểm tác chiến.
- Ở cấp độ tiểu đoàn và trên tiểu đoàn: Có khả năng truyền các giọng nói rõ ràng, đã
được mã hóa, các dữ liệu, tin nhắn, video, trong thời gian thực (hoặc cận thực),
không phụ thuộc vào không gian thời gian, thời tiết, khí hậu, địa hình.
Tính hiệu quả của hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến sẽ được đánh giá qua công thức
sau:
E(t) = K1.A + K2.B + K3.C (1)
Trong đó:
- E (t) – Hệ số hiệu quả trung bình của hệ thống
- K1, K2, K3 - lần lượt là giá trị trọng số của các chỉ số A, B và C
- A chỉ số “phạm vi”
- B chỉ số “độ trễ”
- C là “hệ số tự động hóa trong hoạt động quản lý”.
Chỉ số “phạm vi” là chỉ số đóng vai trò chính yếu ảnh hưởng đến hiệu suất của hệ
thống. Nó đặc trưng cho khả năng chia sẻ thông tin giữa tất cả các thành phần của mạng.
Chỉ số “phạm vi” có trọng số lớn nhất trong cả 3 chỉ số trên.
Chỉ số “độ trễ” được đặc trưng bởi ba thành phần: Tính kịp thời, độ tin cậy và khả
năng bảo mật. Các chỉ số này phụ thuộc lẫn nhau, trong đó chỉ số tính kịp thời là quan
trọng nhất. Các hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến phải đảm bảo được yếu tố truyền thông
tin “thời gian thực” trong khi tiến hành các hoạt động quân sự.
Chỉ số “hệ số tự động hóa trong các hoạt động quản lý” đặc trưng cho sự tự động hóa
trong các hoạt động quản lý, được thực hiện trong quá trình chỉ huy, tham mưu của các
đơn vị quân sự trong khi lập kế hoạch và tiến hành các hoạt động quân sự. Sự tự động hóa
càng cao thì thời gian cần thiết để lập kế hoạch và tiến hành các hoạt động quân sự càng
được rút ngắn.
Giá trị của các trọng số Ki được xác định theo công thức:
2(n i 1)
Ki (2)
n(n 1)
Trong đó:
- n - là số lượng các chỉ số về chất lượng
- i - giá trị hiện thời của chỉ số
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 59, 02 - 2019 191
- Thông tin khoa học công nghệ
Qua tính toán thu được:
- K1 = 0.5 là trọng số của chỉ số “phạm vi”;
- K2 = 0.33 là trọng số của chỉ số “độ trễ”;
- K3 = 0.17 là trọng số của chỉ số “hệ số tự động hóa các hoạt động quản lý” .
Do đó hệ số hiệu quả trung bình của hệ thống sẽ được tính theo công thức:
E(t) = 0,5.A + 0,33.B + 0,17.C (3)
Để xây dựng hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến hiệu quả, yêu cầu phải xây dựng một hệ
thống cáp quang trải rộng trên cả nước. Tuy nhiên địa hình nước ta ¾ là đồi núi do đó ở
một số nơi việc triển khai cáp quang sẽ gặp khó khăn. Những nơi đó việc xây dựng các
trạm vô tuyến chuyển tiếp sẽ là lựa chọn thay thế.
Bảng 1. Dòng thông tin giữa các thành phần mạng trong hệ thống.
Mô tả dòng thông tin
Stt Hệ thống
Giao thức Môi trường truyền dẫn
1 Giọng nói UDP/IP, CNR, SIP Cáp quang, vô tuyến, VHF, HF,
vệ tinh
2 Video UDP/IP Cáp quang, vô tuyến
3 Fax TCP/IP Cáp quang, vô tuyến, vệ tinh
4 Email SMTP, POP-3, IMAP-4 Cáp quang, vô tuyến, vệ tinh
5 Quản lý mạng TCP/IP, SNMP Cáp quang, vô tuyến, vệ tinh
6 Truyền tin nhắn TCP/IP, ADatP-3 Cáp quang, vô tuyến, vệ tinh
7 Truyền dữ liệu FTP Cáp quang, vô tuyến, vệ tinh
8 Thông tin từ các hệ TCP/IP Cáp quang, vô tuyến, vệ tinh
thống trực ban
9 Trực ban phòng TCP/IP, UDP/IP, NFFI Cáp quang, vô tuyến, vệ tinh
không
10 Hệ thống cảm biến TCP/IP Cáp quang, vô tuyến, VHF, HF,
vệ tinh
Một hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến hiện đại phải đảm bảo:
- Sử dụng tối đa các sản phẩm thương mại sẵn có, qua đó dễ dàng thay thế, sửa
chữa, bảo hành.
- Sử dụng các công nghệ hiện đại, đặc biệt là điện toán đám mây.
- Khả năng tương thích cao với các hệ thống quân sự sẵn có cũng như các hệ
thống thông tin ngoài quân đội nhờ vào sử dụng công nghệ IP với cấu hình
linh hoạt.
- Thông tin được bảo mật và giới hạn truy cập.
2.2. Cấu trúc thông tin truyền thông của hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến
Hệ thống mạng được xây dựng theo cấu trúc phân cấp 3 lớp, trong đó tất cả các thiết bị
mạng và các đường truyền dẫn sẽ được nhóm thành ba lớp: Lớp Core, lớp Distribution, và
lớp Access. Mỗi lớp có thể chứa các thiết bị định tuyến, chuyển mạch, các đường truyền
thông, hoặc kết hợp những thiết bị trên. Trong đó thiết bị định tuyến là: “dual stack”. Quá
trình trao đổi thông tin trong mạng sẽ được thực hiện ở tầng thứ hai và thứ ba của mô hình
OSI. Môi trường truyền dẫn của mạng là cáp quang, cáp đồng và vô tuyến (vô tuyến
chuyển tiếp, vệ tinh, VHF, HF và các chuẩn không dây như WiFi, WiMax). Toàn bộ hệ
thống sẽ làm việc dựa trên giao thức IP (EoIP).
192 Phạm Trung Kiên, “Nghiên cứu xây dựng hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến.”
- Thông tin khoa học công nghệ
Hình 1. Cấu trúc mạng hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến.
Lớp thứ nhất Core: Lớp Core là xương sống của mạng. Ở lớp này, tốc độ vận chuyển
dữ liệu rất nhanh. Lớp này còn được coi là đại lộ liên kết các đường nhỏ với nhau. Nếu có
một sự hư hỏng xảy ra ở lớp lõi, hầu hết các người dùng trong mạng đều bị ảnh hưởng. Vì
vậy, việc xây dựng các phương án dự phòng ở lớp này là rất cần thiết. Tại lớp này sẽ xây
dựng các trung tâm dữ liệu (sở chỉ huy) của các tổ chức quân sự chiến lược, bao gồm Bộ
Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ
thuật, Tổng cục Tình báo, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Quân khu 1,2,3,4,5,7,9, Bộ
tư lệnh thủ đô Hà Nội, Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Binh chủng Pháo binh, Đặc Công, Tăng Thiết
Giáp, Công Binh, Hóa học, Thông tin, Quân chủng Phòng Không Không Quân, Quân
chủng Hải Quân, Bộ đội Biên phòng, các cơ quan tổ chức trực thuộc Bộ. Để tăng mức độ
bảo vệ có thể xây dựng 2-3 trung tâm dữ liệu, 1 chính và 1 dự phòng thống nhất nhau về
cấu trúc, cấu tạo và rải đều khắp đất nước, mỗi trung tâm dự liệu có các server sau:
- FTP server: Để truyền nhận tập tin
- VPN server: Để tạo liên kết ảo với người dung
- Web server: Để làm việc với các ứng dụng trên nền web
- E-mail server: Hộp thư điện tử
- Data base server: Cơ sở dữ liệu
- File server: Lưu trữ tập tin
- GIS server: Hệ thống thông tin địa lý
- SiA server: Nhận thức tình huống
- Domain control server: Xác định thứ tự phân cấp quyền người dùng.
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 59, 02 - 2019 193
- Thông tin khoa học công nghệ
Tất cả các máy chủ làm việc với công nghệ dự phòng RAID.
Hình 2. Cấu trúc trung tâm dữ liệu Core.
Ở lớp này không thực hiện kiểm soát quyền truy cập và không có bất kỳ sự chậm trễ
nào. Tuy nhiên người dùng Access không có quyền truy cập trực tiếp vào Core, các gói tin
từ người dùng chỉ có thể đạt tới Core khi đã đi qua các quá trình kiểm tra quyền truy cập.
Bộ định tuyến của Core có tốc độ định tuyến rất lớn và giao diện tương thích với các môi
trường truyền dẫn khác nhau. Độ tin cậy của Core đạt được nhờ vào các thiết bị và kết nối
dự phòng. Đường truyền dẫn chủ yếu sử dụng cáp quang nhưng các trạm radio chuyển tiếp
cũng có thể được sử dụng.
Lớp thứ hai Distribution: Distribution nằm giữa Core và Access. Phân chia Core với
phần còn lại của mạng, mục đích là đảm bảo kết nối trơn tru trong mạng và giới hạn quyền
truy cập thông qua việc định nghĩa các cấp độ phân cấp quyền truy cập. Bao gồm việc xây
dựng các trung tâm dữ liệu các tổ chức đơn vị cấp chiến dịch, các sư đoàn, lữ đoàn, trung
đoàn và tương đương. Nó xác định các chính sách của mạng mà thông qua các chính sách
này an ninh mạng được duy trì ở cấp độ cao và các nguồn tài nguyên thông lượng cần thiết
được bảo vệ.
Distribution bao gồm các server sau:
- SCE server: Quản lý quyền dùng dịch vụ.
- Domain server: Quản lý domain về an ninh và quyền của người dùng.
- TACACS+ server: Xác thực ủy quyền các quyền quản trị hệ thống.
Giao thức được sử dụng tại Distribution là HSRP, GLBD, OSPF, VPN, TCP/IP,
UDP/IP, HTTPS, SLIP, 802.1x
Hình 3. Trung tâm dữ liệu lớp Distribution.
194 Phạm Trung Kiên, “Nghiên cứu xây dựng hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến.”
- Thông tin khoa học công nghệ
Mỗi Trung tâm dữ liệu ở lớp Distribution (cấp sư đoàn xuống trung đoàn và tương
đương) có các server SCE, domain và TACACS+. Các giao diện người dùng gồm giao
diện nhận thức tình huống 10/100Base-T, thiết bị đầu cuối tại bàn làm việc các cơ quan
quản lý hành chính, hậu cần, kỹ thuật, tham mưu, tài chính, trực ban tác chiến, trực ban
phòng không, trực ban hệ thống tổng đài điện thoại, trực ban quản lý mạng, trực ban quản
lý huấn luyện chiến đấu,... giao diện 10/100Base-T qua jack RJ45, điện thoại IP, máy Fax,
máy in, máy chiếu, IP Videocamera giao diện 10/100Base-T được kết nối với các server
qua các thiết bị chuyển mạch giao diện 1000Mbps tạo thành một hệ thống mạng LAN,
trung tâm dữ liệu liên kết với lớp Core qua trạm radio hoặc đường truyền dẫn cáp quang,
một trạm vô tuyến vệ tinh VINASAT, và các trạm vô tuyến chuyển tiếp tạo các đường
truyền dẫn xuống Access và đến các đơn vị cần thiết. Các điểm chỉ huy di động, chuyển
tiếp di động chứa các máy thông tin sóng ngắn và sóng cực ngắn, có nhiệm vụ thu nhận tín
hiệu giọng nói, dữ liệu, tin nhắn.
Distribution kết nối các liên kết thông tin của các cấp độ chiến dịch, chiến thuật với
Core. Ở cấp độ chiến dịch môi trường truyền dẫn chủ yếu sử dụng cáp quang, còn đường
truyền dẫn tới các đơn vị chiến thuật chủ yếu sử dụng các trạm vô tuyến chuyển tiếp.
Lớp thứ ba Access: Duy trì kết nối mạng tránh truy cập người dùng bất hợp pháp tới
Distribution. Đây là thành phần chìa khóa ngăn chặn người dùng không được phép truy
cập dịch vụ mạng. Access cho các đơn vị thấp nhất như tiểu đội, trung đội, đại đội được
thực hiện thông qua chuẩn 802.16 (WiMax) và các trạm vô tuyến UHF, trong đó lựa
chọn chính là WiMax, dự phòng là UHF. Ở cấp độ tiểu đoàn triển khải các trạm gốc
WiMax, các thiết bị đầu cuối được triển khai cho các các đơn vị cấp nhỏ hơn. Kỹ thuật
điện toán đám mây có thể sử dụng để tối ưu hóa việc xử lý, lưu trữ và tính toán. Các
thiết bị thông tin có nhiệm vụ thu thập dữ liệu và chuyển nó lên đám mây, các hoạt động
đòi hỏi công suất tính toán cao và lưu trữ thông tin lớn như lọc, tập hợp, phân tích, chiết
xuất các sản phẩm thông tin được thực hiện ngay trên đám mây, do đó các thiết bị đầu
cuối người dùng sẽ tiêu tốn ít năng lượng hơn. Người dùng ở cấp độ chiến dịch, chiến
thuật có thể sử dụng các thiết bị dạng: “thin client” có dây hoặc không dây chuẩn
802.16, 802.3, 802.11b, g, n, ac, ad và USB. Các lực lượng làm việc với các công việc
khẩn cấp có thể sử dụng PDA, các điểm quản lý máy móc dùng laptop, trên các terminal
cài các phần mềm quản lý thông tin.
Hình 4. Trung tâm dữ liệu Access.
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 59, 02 - 2019 195
- Thông tin khoa học công nghệ
Trung tâm dữ liệu Access (cấp tiểu đoàn và tương đương) được trang bị một sở chỉ huy
với các giao diện nhận thức tình hình 10/100Base-T, bàn làm việc của các cơ quan quản lý
hành chính, hậu cần, tham mưu, lập kế hoạch, tài chính, trực ban hệ thống phòng không,
hệ thống quản lý đơn vị hậu cần…, IP telephone, máy Fax, máy in, máy chiếu, IP
Videocamera giao diện 10/100Base-T, kết nối với switch 1000Mbps, tạo thành mạng
LAN, các trạm vô tuyến chuyển tiếp, máy thông tin sóng UHF, trạm vô tuyến vệ tinh
VINASAT, và một trạm vô tuyến WiMax cung cấp truy cập WiMax cho các thiết bị đầu
cuối của các đơn vị cấp thấp hơn, hệ thống có các xe chỉ huy và các thiết bị truy cập vô
tuyến di động với các máy thông tin sóng ngắn và sóng cực ngắn truyền nhận dữ liệu
giọng nói, tin nhắn.
2.3. Cấu trúc di động trong hệ thống chỉ huy tác chiến
Trong hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến có các điểm chỉ huy di động (MCP), các điểm
truy cập vô tuyến di động (RAV), thiết bị chuyển tiếp truy cập (TAV), thiết bị truy cập
(AV). Đặc điểm chung của các thiết bị này là khả năng cơ động và nhanh chóng triển khai
trên thực địa. Sử dụng công nghệ vô tuyến trunking tạo ra các kết nối vô tuyến cơ động.
Hình 5. Kết nối vô tuyến trunking trong hệ thống thông tin truyền thông dã chiến cơ động.
Thiết bị chuyển tiếp truy cập (TAV) có nhiệm vụ chuyển tiếp các kết nối thông tin đến
các điểm chỉ huy di động. Các điểm truy cập vô tuyến di động (RAP) có nhiệm vụ thực
hiện các kết nối vô tuyến từ các điểm cung cấp di động tới các thuê bao trong hệ thống hỗ
trợ chỉ huy tác chiến di động. Nó còn có nhiệm vụ tăng khoảng cách truyền nhận dữ liệu
giọng nói của các kết nối sóng cực ngắn giữa cấp độ sư đoàn và tiểu đoàn. Thiết bị truy
cập (AV) thực hiện các kết nối từ các điểm truy cập vô tuyến đến các xe chỉ huy di động.
Điểm chỉ huy di động là các điểm chỉ huy được đặt trên các phương tiện di động.
Điểm truy cập vô tuyến di động:
Các thiết bị này thực hiện chức năng tạo các kết nối từ các tổ chức cung cấp di động
đến các thuê bao ở các nút mạng của hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến di động. Nó bao
gồm hai thành phần. Thành phần thứ nhất là thành phần kết nối với mạng WAN, thành
phần thứ hai kết nối với mạng tác chiến di động. Thiết bị này còn được sử dụng để tăng
khoảng cách truyền nhận dữ liệu giọng nói của các kết nối sóng cực ngắn giữa các điểm
chỉ huy tiểu đoàn đến các điểm chỉ huy cấp cao hơn như trung đoàn, sư đoàn, lữ đoàn.
Trong trường hợp này các điểm chỉ huy di động đóng vai trò như người dùng di động
của RAP. Các điểm truy cập vô tuyến di động bao gồm các thiết bị chính sau: Thiết bị
chuyển mạch số, máy thông tin UHF để kết nối với các xe thông tin và các máy móc
khác trong mạng, một thiết bị đầu cuối, một thiết bị mã hóa, các máy thông tin sóng
ngắn và sóng cực ngắn.
196 Phạm Trung Kiên, “Nghiên cứu xây dựng hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến.”
- Thông tin khoa học công nghệ
3. KẾT LUẬN
Việc xây dựng các hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến nhằm số hóa các hệ thống thông
tin truyền thông quân sự và tự động hóa trong chỉ huy tác chiến là xu hướng mà quân đội
rất nhiều nước hiện đang tập trung nghiên cứu và phát triển. Chiến tranh trong kỷ nguyên
thông tin đòi hỏi thông tin phải được thu thập, xử lý và sử dụng một cách nhanh nhất và
chính xác nhất nhằm mục đích chiếm thế chủ động trên chiến trường. Hệ thống hỗ trợ chỉ
huy tác chiến là một hệ thống đồ sộ, nó được coi là một metasystem “hệ thống của hệ
thống”, do đó việc nghiên cứu xây dựng các hệ thống hỗ trợ chỉ huy tác chiến hiện đại là
một công việc rất phức tạp và khó khăn, tuy nhiên vì tính cấp thiết của nó trong môi
trường chiến tranh thông tin, do đó bản thân tôi nhận thấy việc xây dựng các hệ thống hỗ
trợ chỉ huy tác chiến cho quân đội ta là xu hướng tất yếu để đáp ứng những đòi hỏi của
chiến tranh hiện đại và bảo vệ vững chắc nền độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. D. S. Alberts, “Information Age Transformation: Getting to a 21st Century Military,”
DoD Command and Control Research Program, 2002.
[2]. D. B. Marron, “The Army’s Future Combat SystemsProgram and Alternatives,” The
Congress of the United StatesOCongressional Budget Office, 2009.
[3]. G. J. Kanis, “Best Practices for Command and Control in a Network Enabled
Environment,” Director Command and Control, 2010.
[4]. Ж. Х. Проданов, “Изследване възможностите за усъвършенстване на
организацията на полевите комуникационни и информационни системи в
оперативните и тактическите формирования при преминаване към цифрови
комуникации, ” 2014.
[5]. Ф. Т. Киен, “Процес на изграждане на C4ISR системи на народна
освободителна армия,” сп. "Българска Наука", брой 91, 2014, ISSN 1314-1031,
pp. 96-99.
ABSTRACT
BUILDING THE SYSTEM FOR SUPPORTING COMMAND COMBAT
The ability of information is an essential part of modern warfare and becoming
more and more extremely important along with the development of the war. In order
to reach the information superiority, the introduction of C4ISR systems has become
efficient supporting tools for the automation in command and combat.
Keywords: Information technology; Communication Information System; Command and Combat System.
Nhận bài ngày 10 tháng 10 năm 2018
Hoàn thiện ngày 20 tháng 3 năm 2019
Chấp nhận đăng ngày 16 tháng 4 năm 2019
Địa chỉ: Viện Công nghệ thông tin/ Viện Khoa học & Công nghệ quân sự.
*
Email : phamtrungkien999@gmail.com.
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 59, 02 - 2019 197
nguon tai.lieu . vn