Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 77 (06/2021) No. 77 (06/2021)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LƯỚT QUA LỖI ĐIỆN ÁP THẤP
CỦA MÁY PHÁT ĐIỆN GIÓ DFIG BẰNG THỰC NGHIỆM
Research on low voltage ride-through capability of Double-Fed Induction
Generator (DFIG) using experimental method
Văn Công Lâm(1), TS. Ngô Minh Khoa(2)
(1)Công ty Điện lực Bình Định
(2)Trường
Đại học Quy Nhơn
TÓM TẮT
Trong quá trình vận hành các máy phát điện gió cảm ứng nguồn kép (DFIG) nối lưới, các sự cố trên
lưới điện có khả năng gây ra các hiện tượng sụt áp ngắn hạn tại vị trí đấu nối của máy phát điện gió
DFIG với lưới. Dựa vào đặc điểm của các bộ chuyển đổi của máy phát điện gió DFIG; giá trị biên độ
điện áp và thời gian tồn tại của lỗi điện áp thấp đó mà máy phát điện gió DFIG có thể còn duy trì trạng
thái nối lưới để tiếp tục làm việc bình thường hay bị ngắt ra khỏi lưới nhằm đảm bảo an toàn cho máy
phát điện gió DFIG. Môđun thí nghiệm máy phát điện gió DFIG tại Phòng thí nghiệm (PTN) Lưới điện
thông minh (LĐTM) của Khoa Kỹ thuật và Công nghệ, Trường Đại học Quy Nhơn được vận dụng để
nghiên cứu tiến hành các thí nghiệm nhằm khảo sát và đánh giá khả năng lướt qua lỗi điện áp thấp của
máy phát điện gió DFIG.
Từ khóa: DFIG, LVRT, kết quả thí nghiệm, lưới điện thông minh
ABSTRACT
In the operation process of the double-fed induction generator (DFIG) connected to the network, the
faults in power systems are able to cause voltage sag events at the point common coupling of the DFIG
with the grid. Based on the characteristic of the converters, the voltage magnitude and duration time of
the voltage sag event, the DFIG is still connected to the grid for operating normally or disconnected to
the grid in order to save the DFIG. The DFIG experiment module in the Smart Grid laboratory, Faculty
of Engineering and Technology, Quy Nhon University is applied to investigate and evaluate the low
voltage ride-through capability of the DFIG.
Keywords: DFIG, LVRT, experimental result, smart grid
1. Giới thiệu đo thời gian này, các nguồn gió thay đổi
Các yêu cầu đối với các hệ thống khác nhau nên có thể ảnh hưởng đến quá
điện gió phụ thuộc chủ yếu vào cấu hình trình vận hành HTĐ. Thông thường mức
của hệ thống điện (HTĐ), công suất điện độ thâm nhập đáng kể của năng lượng gió
gió được lắp đặt và cách sản xuất năng không chỉ có thể mà còn thường không yêu
lượng gió khác nhau [1]. Gió thay đổi theo cầu thiết kế lại chính HTĐ hiện có. Từ góc
từng thời điểm trong ngày: giây, phút, giờ, độ kỹ thuật, HTĐ phải ghi nhớ rằng mục
ngày, tháng và năm. Trên tất cả các thang đích chính của HTĐ là cung cấp cho người
Email: ngominhkhoa@qnu.edu.vn
80
- VĂN CÔNG LÂM - NGÔ MINH KHOA TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
tiêu dùng mạng lưới điện bất cứ khi nào lượng gió đến HTĐ nên được nghiên cứu
khách hàng có nhu cầu về nó. Bây giờ, nếu kỹ lưỡng để xác định các vấn đề tiềm ẩn và
năng lượng gió được đưa vào kết nối với phát triển các biện pháp giảm thiểu những
lưới thì HTĐ vẫn phải được đảm bảo duy vấn đề đó. Khả năng phục hồi điện áp của
trì quá trình làm việc ổn định dưới các tác máy phát điện gió sau khi xảy ra sự cố trên
động ngẫu nhiên; đặc biệt là các máy phát lưới được nghiên cứu trong các công trình
điện gió vẫn phải có thể vận hành được [6, 7] hoặc giải pháp ngăn chặn các lỗi điện
trong một số trường hợp xuất hiện các lỗi áp thấp bằng cách sử dụng bộ bù nối tiếp
liên quan đến điện áp trên lưới [2, 3]. Năng có thể được ứng dụng đối với các máy phát
lượng gió thách thức đưa vào thiết kế và điện gió DFIG [8]. Lỗi điện áp thấp có thể
vận hành HTĐ có liên quan đến tính chất xuất hiện tại điểm đấu nối của máy phát
biến động của gió [4] cũng như các loại điện gió với lưới do một số nguyên nhân
máy phát tương đối mới, ví dụ: máy phát khác nhau, chẳng hạn như ngắn mạch trên
điện cảm ứng nguồn kép (DFIG) được sử lưới. Do đó bài báo này nghiên cứu vận
dụng trong tuabin gió nhưng không phổ dụng các thiết bị hiện có trong phòng thí
biến trong các HTĐ truyền thống. Do đó, nghiệm của đơn vị mình đang công tác để
thách thức cơ bản liên quan đến việc tích tiến hành một số thí nghiệm về khả năng
hợp mạng lưới điện gió bao gồm hai khía lướt qua điện áp thấp của máy phát điện
cạnh sau [5]: (i) Làm thế nào để giữ mức gió DFIG. Các đóng góp cơ bản được thực
điện áp chấp nhận được cho tất cả người hiện trong bài báo này đó là một phương
tiêu dùng của HTĐ: khách hàng sẽ có thể pháp thực nghiệm trên các thiết bị phần
tiếp tục sử dụng cùng loại thiết bị mà họ cứng nhằm để khảo sát, thu thập và đánh
đang dùng; (ii) Làm thế nào để giữ cân giá khả năng lướt qua lỗi điện áp thấp của
bằng năng lượng của hệ thống: nghĩa là, máy phát điện gió DFIG với qui mô trong
làm thế nào để sản xuất điện gió và các đơn phòng thí nghiệm.
vị phát điện khác liên tục đáp ứng nhu cầu 2. Mô tả hệ thống thí nghiệm về máy
của người tiêu dùng. phát điện gió DFIG
Tác động của năng lượng gió đến HTĐ Hệ thống thí nghiệm máy phát điện gió
phụ thuộc vào kích thước và tính linh hoạt DFIG tại phòng thí nghiệm (PTN) Lưới
vốn có của HTĐ. Nó cũng liên quan đến điện thông minh (LĐTM) thuộc Khoa Kỹ
mức độ thâm nhập của năng lượng gió thuật và Công nghệ, Trường Đại học Quy
trong HTĐ. Ở hầu hết các quốc gia, lượng Nhơn là một mô hình nhà máy điện gió
phát điện gió được tích hợp vào các HTĐ dựa cơ sở của máy phát điện không đồng
quy mô lớn chỉ chiếm một phần nhỏ trong bộ nguồn kép DFIG. Nó là một máy điện
tổng tải của HTĐ. Tuy nhiên, lượng điện không đồng bộ rotor dây quấn được cấp
được tạo ra bởi các tuabin gió đang tăng nguồn điện xoay chiều thông qua cả stator
liên tục. Do đó, thâm nhập điện gió trong và rotor. Nó có khả năng điều chỉnh độc
các HTĐ sẽ tăng trong tương lai và sẽ bắt lập công suất phản kháng và công suất tác
đầu thay thế đầu ra của các máy phát đồng dụng, điều chỉnh được giá trị điện áp và tần
bộ thông thường. Kết quả là, nó cũng có số phát. Trong ngành công nghiệp điện,
thể bắt đầu ảnh hưởng đến hoạt động của DFIG chủ yếu được sử dụng làm máy phát
HTĐ tổng thể. Do đó, tác động của năng cho các hệ thống tuabin gió. DFIG có cấu
81
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 77 (06/2021)
tạo giống máy điện không đồng bộ rotor các cuộn dây rotor được nối với bộ biến
dây quấn với các cuộn dây stator được nối đổi điện tử công suất AC/DC/AC thông
với lưới thông qua máy biến áp ba pha và qua vành trượt và chổi than như hình 1.
IDFIG Máy biến áp IGRID
DC-chopper
UGRID
Q
Turbine RB RB
ILSC
Gió LSC
IMSC MSC
Bộ khởi
tạo sụt áp
DFIG UDC ngắn hạn
Control
Bộ chuyển đổi AC/DC/AC
Điều khiển
góc pitch Q
Nguồn
Bộ tải điện trở lưới
(Crowbar)
Hình 1: Sơ đồ nguyên lý của hệ thống thí nghiệm DFIG
2.1. Bộ băm DC (DC-Chopper) dụng bộ tải trở, các điện trở bên ngoài được
Nếu dòng công suất của tuabin gió bị kết nối vào mạch rotor để ngăn không cho
gián đoạn do lỗi, điện áp mạch trung gian các dòng điện quá cao chạy qua bộ MSC.
giữa bộ chuyển đổi phía máy phát và bộ Điều này giới hạn điện áp của mạch trung
chuyển đổi phía đường dây có thể đạt tới gian, tuy nhiên một bất lợi của phương pháp
các giá trị cao không thể chấp nhận được. này là bộ MSC bị khóa khi bộ tải trở hoạt
Lúc này năng lượng dư thừa chảy từ mạch động, do đó vô hiệu hóa việc điều chỉnh của
rotor vào bộ chuyển đổi phía máy phát máy phát điện trong thời gian này.
(MSC - Machine Side Converter) có thể 2.3. Bộ biến đổi AC/DC/AC
được tiêu tán thông qua một bộ băm DC. Bộ biến đổi AC/DC/AC thường được
Một bộ băm DC thường bao gồm một cấu tạo bởi bộ biến tần nguồn áp sử dụng
IGBT để xả mạch trung gian thông qua các IGBT với các điốt mắc song song, có
một số điện trở hãm. Năng lượng được lưu thể biến đổi công suất hai chiều. Bộ biến
trữ trong mạch này được chuyển thành đổi gồm có bộ biến đổi phía máy phát
nhiệt, do đó điện áp giảm xuống. (MSC - Machine Side Converter) và bộ
2.2. Bộ tải điện trở (Crowbar) biến đổi phía lưới (LSC - Line Side
Trong trường hợp xảy ra lỗi nghiêm Converter) được nối phản hồi với nhau
trọng, bộ băm DC có thể không đủ để hạn thông qua tụ C. Ở đầu ra của bộ LSC có bộ
chế điện áp mạch trung gian. Với những lọc L để tối thiểu hóa sóng hài cấp vào
tình huống như vậy, nên sử dụng một bộ tải lưới. Đồng thời bộ biến đổi AC/DC/AC là
trở ba pha để thay thế. Trong quá trình sử bộ biến đổi PWM cơ bản sử dụng công
82
- VĂN CÔNG LÂM - NGÔ MINH KHOA TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
nghệ PWM sóng sin nên giảm được sóng vụ chỉnh lưu lấy năng lượng từ lưới về mà
hài cho hệ thống. Bộ biến đổi phía rotor có còn thực hiện nhiệm vụ hoàn trả năng
thể được xem như bộ biến đổi nguồn áp lượng từ mạch một chiều trung gian trở lại
điều khiển dòng điện. Mục đích chính của lưới. Vì vậy, về cấu trúc mạch điện tử công
bộ MSC là điều chỉnh công suất tác dụng suất, bộ chuyển đổi phía lưới hoàn toàn
phía stator (hoặc tốc độ quay của rotor) và giống như bộ chuyển đổi phía máy phát.
công suất phản kháng phía stator một cách Bộ biến đổi cũng có thể được sử dụng để
độc lập thông qua điều khiển các thành đảm bảo công suất phản kháng khi có sự cố
phần dòng điện rotor. Đồng thời đảm nhận và nâng cao chất lượng điện năng của lưới.
việc hòa đồng bộ với lưới cũng như điều Các mô đun chính liên quan đến mục đích
chỉnh tách máy phát ra khỏi lưới khi cần thí nghiệm máy phát điện gió DFIG được
thiết. Bộ LSC thường chỉ điều khiển trị số trang bị tại Khoa Kỹ thuật và Công nghệ,
điện áp một chiều trung gian không đổi Trường Đại học Quy Nhơn bao gồm các
theo giá tri đặt của nó, phù hợp với bộ phần tử chính được thể hiện như trong hình
chuyển đổi phái rotor và điều khiển hướng, 2. Các thông số kỹ thuật và các chức năng
trị số công suất phản kháng lên lưới. Bộ cơ bản của các phần tử chính này được mô
chuyển đổi phía lưới không chỉ có nhiệm tả như sau:
Nguồn lưới 3 pha Bộ khởi tạo sự cố
400V, 50Hz sụt áp ngắn hạn
Máy biến áp
Bộ điều khiển
động cơ servo Bộ điều
khiển DFIG
Máy phát
Điện DFIG
Động cơ
servo Bộ mã hóa
tương đối
Hình 2: Hệ thống thí nghiệm máy phát điện gió DFIG
- Máy phát điện DFIG trong hệ thống là 130 VAC/24 VDC và dòng điện kích từ
thí nghiệm này có công suất định mức là là 4 A AC/ 11 A DC.
0,8 kW; tốc độ định mức là 1500 vg/ph; - Bộ điều khiển DFIG được sử dụng
điện áp định mức là 400/230 V, 50 Hz; trong hệ thống này cho phép điều khiển và
dòng điện định mức là 2,0 A/3,5 A; hệ số vận hành máy phát cảm ứng nguồn kép, tốc
công suất định mức là 0,75; điện áp kích từ độ biến đổi trong điều kiện phòng thí
83
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 77 (06/2021)
nghiệm. Thiết bị điều khiển tạo ra khả năng
có thể mô phỏng và nghiên cứu tất cả các
tình huống liên quan thực tế. Phần mềm đi
kèm cho phép dễ dàng thao tác và hiển thị
trực quan các giá trị đo được. Ngoài ra, bộ
điều khiển còn các chức năng: hoạt động
dưới đồng bộ và trên đồng bộ của máy phát
cảm ứng; chuyển mạch nguồn tích hợp để
kết nối máy phát với lưới điện; điều khiển
độc lập công suất phản kháng/tác dụng, tần
số và điện áp; đồng bộ hóa bằng tay và tự Hình 3: Giao diện điều khiển trung tâm
động. 3. Khả năng lướt qua lỗi điện áp
- Bộ điều khiển động cơ servo là 1 hệ thấp của máy phát DFIG
thống kiểm tra hoàn chỉnh để thí nghiệm về Hệ thống thí nghiệm máy phát điện gió
đặc tính máy điện cũng như phần điều DFIG của PTN LĐTM là thuộc hãng Lucas
khiển. Hệ thống này bao gồm phần điều Nuller, Đức có đặc tính thể hiện khả năng
khiển số, bộ thắng điện và phần mềm servo. lướt qua lỗi điện áp thấp (LVRT) như hình
Hệ thống này có các tính năng kỹ thuật tiên 4. Đặc tính này cho thấy rằng, nếu những lỗi
tiến, dễ dàng thao tác, có thể thực hành điều điện áp thấp mà có biên độ và thời gian tồn
khiển bằng tay hay tự động đồng bộ. tại nằm ở phía trên đường đặc tính màu đỏ
- Bộ mã hóa tương đối để đo được tốc thì máy phát điện gió DFIG vẫn được phép
độ quay của rotor của máy phát phản hồi tiếp tục làm việc mà không bị ngắt ra khỏi
về bộ điều khiển DFIG, nó được gắn ở đầu lưới. Ngược lại, đối với những lỗi điện áp
trục rotor của máy phát điện gió DFIG. thấp mà có biên độ và thời gian tồn tại nằm
Để có thể giám sát và điều khiển được ở phía dưới đường đặc tính màu đỏ thì máy
các thông số vận hành của máy phát điện phát điện gió DFIG sẽ bị ngắt ra khỏi lưới.
gió, đồng thời để có thể tiến hành khảo sát 1,2
các thí nghiệm về khả năng lướt qua điện 1,0
áp thấp của máy phát điện gió DFIG, các Không bị ngắt
0,8
chương trình phần mềm điều khiển trung ra khỏi lưới
U (pu)
tâm được tích hợp trong hệ thống thí 0,6
Bị ngắt
ra khỏi lưới
nghiệm này. Giao diện của một chương 0,4
trình điều khiển trung tâm để thí nghiệm 0,2
máy phát điện gió được thể hiện như hình
0
3. Trên giao diện này, ta có thể nhập tốc độ 0 500 1000 1500 2000 2500 3000
gió đầu vào, kích hoạt chế độ tự độ lựa t (ms)
chọn góc xoay cánh, giám sát các thông số Hình 4: Đặc tính LVRT của máy phát
vận hành khác như: tốc độ quay của rotor, DFIG
mômen quay, công suất phát ra của máy Trong bài báo này, các tham số của
phát,… các bộ điều khiển DFIG sẽ được ghi lại
trong quá trình thí nghiệm về khả năng
LVRT của hệ thống. Các kết quả thực
84
- VĂN CÔNG LÂM - NGÔ MINH KHOA TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
nghiệm này giúp ta khảo sát và đánh giá sự kết quả thu được trên các giao diện của
thay đổi của chúng khi xảy ra các sự cố lỗi chương trình được thể hiện như các hình 5.
điện áp thấp trên lưới và cũng thể hiện Hình 5a cho thấy rõ ràng điện áp lưới
được khả năng duy trì kết nối với lưới khi UGRID của ba pha bị sụt giảm trong khoảng
xảy ra các sự cố đó. Quá trình phân tích thời gian 250 ms (từ 0,1 s đến 0,35 s), đồng
các thông số thí nghiệm từ hệ thống được thời khi đó bộ điều khiển của máy phát làm
tiến hành dựa trên hai trường hợp như sau: việc nên dòng điện IGRID như hình 5b có
Trường hợp 1: Lỗi điện áp thấp 3 pha phần tăng lên trong khoảng thời gian xảy ra
60%, 250 ms lỗi điện áp thấp. Còn các hình 5c và hình
Sử dụng bộ mô phỏng lưới điện động 5d lần lượt là đồ thị thành phần dq của điện
để khởi tạo lỗi điện áp thấp trên 3 pha có áp và dòng điện lưới. Tại thời điểm 3,5 s sự
biên độ điện áp sụt giảm đi 60% với thời cố lỗi điện áp thấp 3 pha được loại trừ thì
gian tồn tại là 250 ms xảy ra tại điểm đấu giá trị điện áp và dòng điện lưới trở lại giá
nối giữa máy phát DFIG với lưới. Khi lỗi trị giống như trước khi xảy ra sự cố. Điều
được kích hoạt, ta sử dụng bộ ghi lại các này cho thấy được rằng máy phát điện
dạng sóng của sự kiện trong chương trình DFIG vẫn duy trì được trạng thái kết nối
điều khiển trung tâm của máy phát DFIG với lưới và tiếp tục phát công suất như lúc
trên máy tính tại hệ thống thí nghiệm. Các bình thường vào lưới điện.
(a) (b)
(c) (d)
Hình 5: Trường hợp 1: (a) Điện áp lưới, (b) Dòng điện lưới, (c) Thành phần dq của điện áp
lưới, (d) Thành phần dq của dòng điện lưới
85
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 77 (06/2021)
Để thấy sự thay đổi của các thông số thường để có thể duy trì mức năng lượng ở
trong bộ điều khiển DFIG khi xảy ra lỗi phần liên kết DC nhằm tiếp tục cấp điện
điện áp thấp 3 pha như trong trường hợp 1 cho rotor thông qua bộ chuyển đổi phía
thì các giá trị dòng điện của bộ chuyển đổi máy phát MSC. Điều này được thể hiện rõ
phía lưới LSC (ILSC) và bộ chuyển đổi phía trên đồ thị dòng điện của bộ chuyển đổi
máy phát MSC (IMSC) được ghi lại để phân phía máy phát MSC (IMSC) trên hình 6b và
tích như trong hình 6. Dòng điện của bộ mức điện áp ở liên kết DC (UDC) trên hình
chuyển đổi phía lưới LSC như hình 6a, thể 6c. Quá trình điều khiển trong các bộ
hiện rõ rằng trong quá trình xảy ra sự cố chuyển đổi của máy phát DFIG đã duy trì
thấp áp ba pha thì dòng điện đưa vào LSC được dòng điện đầu ra của nó như trong
tăng lên đáng kể so với lúc làm việc bình hình 6d.
(a) (b)
(c) (d)
Hình 6: Trường hợp 1: (a) Dòng điện LSC, (b) Dòng điện MSC, (c) Điện áp liên kết DC,
(d) Dòng điện DFIG
86
- VĂN CÔNG LÂM - NGÔ MINH KHOA TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Trường hợp 2: Lỗi điện áp thấp 3 pha ràng điện áp lưới UGRID của ba pha bị sụt
60%, 450 ms giảm trong khoảng thời gian 450 ms (từ 0,2
Quá trình thí nghiệm đối với lỗi điện s đến 0,65 s), và dòng điện phía lưới IGRID
áp thấp 3 pha 60% với thời gian tồn tại lâu như hình 7b có phần tăng lên trong khoảng
hơn được thực hiện trong trường hợp 2. Bộ thời gian xảy ra lỗi điện áp thấp ba pha.
mô phỏng lưới điện động cũng được sử Các hình 7c và hình 7d lần lượt là đồ thị
dụng để khởi tạo lỗi điện áp thấp trên 3 pha thành phần dq của điện áp và dòng điện
có biên độ điện áp sụt giảm đi 60% với lưới. Tại thời điểm 0,65 s sự cố lỗi điện áp
thời gian tồn tại là 450 ms để thu được kết thấp 3 pha được loại trừ sau 450 ms thì giá
quả như trong hình 7. Bởi vì thời gian tồn trị điện áp và dòng điện lưới trở lại giá trị
tại lỗi điện áp thấp trong trường hợp này giống như trước khi xảy ra sự cố. Điều này
lên đến 450 ms do đó khoảng thời gian cho thấy được rằng máy phát điện DFIG
thiết lập để ghi lại dạng sóng của các thông vẫn duy trì được trạng thái kết nối với lưới
số là 1 s để có thể nhìn thấy được giai đoạn và tiếp tục phát công suất như lúc bình
xảy ra lỗi điện áp thấp. Hình 7a cho thấy rõ thường vào lưới.
(a) (b)
(c) (d)
Hình 7: Trường hợp 2: (a) Điện áp lưới, (b) Dòng điện lưới, (c) Thành phần dq của điện áp
lưới, (d) Thành phần dq của dòng điện lưới
87
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 77 (06/2021)
Trong trường hợp 2, kết quả các thông làm việc bình thường để có thể duy trì mức
số dòng điện của bộ chuyển đổi phía lưới năng lượng ở phần liên kết DC nhằm tiếp
(ILSC) và dòng điện của bộ chuyển đổi phía tục cấp điện cho rotor thông qua bộ chuyển
máy phát MSC (IMSC) trong bộ điều khiển đổi phía máy phát MSC. Điều này được thể
DFIG được ghi lại khi xảy ra lỗi điện áp hiện rõ trên đồ thị dòng điện của bộ chuyển
thấp 3 pha được ghi lại như hình 8. Dòng đổi phía máy phát MSC trên hình 8b và
điện của bộ chuyển đổi phía lưới LSC (ILSC) mức điện áp ở liên kết DC trên hình 8c. Quá
như hình 8a, thể hiện rõ rằng trong quá trình trình điều khiển trong các bộ chuyển đổi của
xảy ra sự cố thấp áp ba pha thì dòng điện máy phát DFIG đã duy trì được dòng điện
đưa vào LSC tăng lên đáng kể so với lúc đầu ra của nó như trong hình 8d.
(a) (b)
(c) (d)
Hình 8: Trường hợp 2: (a) Dòng điện LSC, (b) Dòng điện MSC, (c) Điện áp liên kết DC,
(d) Dòng điện DFIG
4. Kết luận được các tác giả nghiên cứu, phân tích để
Một phương pháp thực nghiệm dựa khảo sát và đánh giá về khả năng lướt qua
trên cơ sở những thiết bị hiện có của điện áp thấp của máy phát điện gió DFIG.
Phòng thí nghiệm Lưới điện thông minh Các kết quả thí nghiệm đã kiểm chứng
88
- VĂN CÔNG LÂM - NGÔ MINH KHOA TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
được khả năng làm việc của máy phát điện phát điện gió có mặt trong nhà máy.
gió DFIG trong các trường hợp xuất hiện Lời cảm ơn
lỗi điện áp thấp ngay tại vị trí nối lưới. Các Các tác giả bài báo xin chân thành
lỗi điện áp thấp xảy ra phía lưới với các cảm ơn Khoa Kỹ thuật và Công nghệ,
khoảng thời gian tồn tại được thay đổi Trường Đại học Quy Nhơn; các giảng
khác nhau để tiến hành thí nghiệm nghiên viên trong Bộ môn Kỹ thuật điện và cán
cứu và đánh giá khả năng lướt qua lỗi điện bộ kỹ thuật quản lý Phòng thí nghiệm
áp thấp của DFIG. Những kết quả thí Lưới điện thông minh đã tạo mọi điều
nghiệm này giúp người vận hành hiểu rõ kiện thuận lợi để các tác giả hoàn thành
hơn về khả năng vận hành của từng máy bài báo này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Văn Tấn Lượng, Nguyễn Thị Thanh Trúc, Trần Hoàn, “Đánh giá so sánh các giải pháp
duy trì kết nối của hệ thống năng lượng gió DFIG khi lưới bị sự cố”, Tạp chí Khoa học
công nghệ và Thực phẩm, 15(1), 114-126, 2018.
[2] Zhou Y, Bauer P, Ferreira J. A, Pierik J, “Operation of grid-connected DFIG under
unbalanced grid voltage condition”, IEEE Transactions on Energy Conversion, 24(1),
240-246, 2009.
[3] Seman S, Niiranen J, Arkkio A, “Ride-through analysis of doubly fed induction wind-
power generator under unsymmetrical network disturbance”, IEEE Transactions on
Power Systems, 21(4), 1782-1789, 2006.
[4] Nunes M. V. A, Lopes J. A. P, Zurn H. H, Bezerra U. H, lmeida R. G, “Influence of
the variable-speed wind generators in transient stability margin of the conventional
generators integrated in electrical grids”, IEEE Transactions on Energy Conversion,
19(4), 692-701, 2004.
[5] Tsili M, Papathanassiou S, “A review of grid code technical requirements for wind
farms”, IET Renewable Power Generation, 3(3), 308-332, 2009.
[6] Sun T, Chen Z, Blaabjerg F, “Voltage recovery of grid-connected wind turbines after a
short-circuit fault”, 29th Annual Conference of the IEEE Industrial Electronics
Society, 2723-2728, 2003.
[7] Lima F. K. A, Luna A, Rodriguez P, Watanabe E. H, Blaabjerg F, “Rotor voltage
dynamics in the doubly-fed induction generator during grid faults”, IEEE Transactions
on Power Electronics, 25(1), 118-113, 2010.
[8] Awad H, Svensson J, Bollen M, “Mitigation of unbalanced voltage dips using static
series compensator,” IEEE Transactions on Power Electronics, 19(3), 837-846, 2004.
Ngày nhận bài: 29/9/2020 Biên tập xong: 15/6/2021 Duyệt đăng: 20/6/2021
89
nguon tai.lieu . vn