Xem mẫu
- Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một thành phần trong hệ thống tài
chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế,
xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất,
người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và
các lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng
liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Luật
Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định
nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm
bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương.
Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Chức năng, vai trò của Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát
triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích
phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào
quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở
kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó
tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn
thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó,
việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn
bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh
không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách
cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo
tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn.
Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân
sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế
sản xuất kinh doanh
Giải quyết các vấn đề xã hội
- Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt
như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng
thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm,
chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.
Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường
hàng hoá
Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất
chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập
khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và
chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm phát: cùng với ngân hàng trung ương với chính
sách tiền tệ thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu
của chính phủ.
Thu và chi ngân sách nhà nước
Đứng về phương diện pháp lý, thu NSNN bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy
động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về mặt bản chất, thu
NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá
trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của mình. Thu NSNN chỉ bao gồm
những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách
nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Theo Luật NSNN hiện hành, nội dung
các khoản thu NSNN bao gồm: - Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo
quy định của pháp luật; - Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; - Các
khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; - Các khoản viện trợ; - Các khoản thu
khác theo quy định của pháp luật. Cần lưu ý là không tính vào thu NSNN các khoản thu
mang tính chất hoàn trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng
dẫn Luật NSNN (Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông
tư 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính)chỉ tính vào thu NSNN các
khoản viện trợ không hoàn lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là các
khoản vay ưu đãi không được tính vào thu NSNN.
Chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước cho
việc thực hiện các nhiệm vụ của chính phủ. Thực chất của nó là việc cung cấp các
phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của chính phủ. Theo chức năng nhiệm vụ, chi
ngân sách nhà nước gồm:
- • Chi đầu tư phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng, trong đó phần lớn là xây dựng
cơ bản, khấu hao tài sản xã hội
• Chi bảo đảm xã hội, bao gồm:
o giáo dục
o y tế
o công tác dân số
o khoa học và công nghệ
o văn hóa
o thông tin đại chúng
o thể thao
o lương hưu và trợ cấp xã hội
o các khoản liên quan đến can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh
tế
o quản lý hành chính
o an ninh, quốc phòng
o các khoản chi khác
o dự trữ tài chính
o trả nợ vay nước ngoài, lãi vay nước ngoài
Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước đựoc chia ra:
• Tiêu dùng cuối cùng (của Nhà nước): các khoản chi thường xuyên cho mua
sắm của các cơ quan Nhà nước
• Đầu tư kết cấu hạ tầng: xây dựng cơ bản và khấu hao tài sản
• Phân phối và tái phân phối xã hội: lương công nhân viên chức và các khoản trợ
cấp xã hội, hưu trí
Thâm hụt ngân sách nhà nước
Xem bài chính: Thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng
khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính
hoàn trả" của ngân sách nhà nước.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm
hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh
tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng
thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng
tiêu cực.
nguon tai.lieu . vn