An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER Ở AN GIANG HIỆN NAY
Lê Thiện Minh1, Nguyễn Văn Cọp2
Trường Đại học An Giang,
Văn Phòng Tinh ủy, tỉnh An Giang
1
2
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 05/01/2018
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
15/02/2018
Ngày chấp nhận đăng: 04/2018
Title:
Some solutions to improve the
effectiveness of poverty
reduction policies in Khmer
ethnic minority region in An
Giang province
Keywords:
An Giang, poverty, povertyalleviation, poverty-alleviation
policy, Khmer ethnic group
Từ khóa:
An Giang, nghèo, giảm
nghèo, chính sách giảm
nghèo, dân tộc Khmer
ABSTRACT
To clarify the concept of hunger and poverty according to the perception in
Vietnam and the world nowadays, the author focuses on researching and
analyzing achievements and limitations as well as finding out its causes during
conducting poverty-alleviation policies in Khmer ethnic group in An Giang
province; Accordingly, the author proposes solutions in order to implement the
policies more effectively in the future.
TÓM TẮT
Trên cơ sở làm rõ khái niệm đói, nghèo theo quan niệm của Việt Nam và thế
giới hiện nay, tác giả bài viết tập trung nghiên cứu, phân tích những thành tựu
và hạn chế, đồng thời tìm ra nguyên nhân của nó trong việc thực hiện chính
sách giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay; qua đó,
tác giả đề xuất một số giải pháp để nhằm thực hiện chính sách này đạt hiệu quả
cao hơn trong thời gian tới.
1. GIỚI THIỆU
112.809 người, chiếm 5,26% dân số cả Tỉnh. Dân
An Giang là tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, thuộc khu
tộc thiểu số có số dân khá đông là: Khmer có
90.271 người, (chiếm 4,2%); Chăm có 14.209
vực Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự
nhiên 353.676 ha, trong đó có 297.872 ha đất sản
người (chiếm 0,66%); Hoa có 8.075 người (chiếm
xuất nông nghiệp. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính
0,37%).
cấp huyện, thị xã, thành phố và 156 đơn vị hành
Đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang có những
chính cấp xã, phường, thị trấn; có 18 xã biên giới,
đặc thù riêng về lịch sử và tôn giáo, sống tập
36 xã dân tộc (Khmer 27 xã, Chăm 09 xã nằm
trung ở 02 huyện miền núi Tri Tôn, Tịnh Biên
trên địa bàn 08 huyện), 35 xã khó khăn theo
(trên 80.000 người), số còn lại sống rải rác ở các
Quyết định 30/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng
huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú. Hầu
Chính phủ. Dân số toàn Tỉnh là 2.142.709 người,
hết theo Phật giáo Nam tông, có mối quan hệ rộng
với 524.759 hộ. Hiện Tỉnh có 30 dân tộc, trong
rãi với đồng bào dân tộc Khmer các tỉnh Đồng
đó, dân tộc thiểu số gồm có 29 dân tộc với
bằng sông Cửu Long và người Khmer ở
47
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
Campuchia. Trong kháng chiến, nơi đây là căn cứ
Trong thời gian qua, việc triển khai, quán triệt và
địa cách mạng, chịu nhiều tàn phá, bà con người
tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của
dân tộc Khmer chịu nhiều mất mát về người và
Đảng và Nhà nước về công tác xóa đói giảm
của. Đến chiến tranh biên giới Tây Nam, bà con
nghèo giai đoạn 2005 - 2015, tỉnh An Giang đã
phải di chuyển về tuyến sau, khi trở về quê hương
tập trung các nguồn lực, thực hiện nhiều chính
sau chiến tranh, hầu hết nhà cửa, ruộng vườn, đất
sách, giải pháp giảm nghèo, an sinh xã hội; đem
đai đã bị giặc tàn phá, xáo trộn, gây khó khăn cho
lại nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào phát
đời sống. Thêm vào đó, trình độ dân trí của bà con
triển kinh tế - xã hội của địa phương theo hướng
Khmer còn thấp, với tập quán sống tập trung theo
bền vững, đặc biệt là vùng có đông đồng bào dân
phum, sóc; chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt,
tộc Khmer có nhiều chuyển biến tích cực, bộ mặt
chăn nuôi và làm thuê mướn theo mùa vụ… đời
nông thôn ngày càng khởi sắc rõ nét, tỷ lệ hộ
sống vật chất và tinh thần của bà con còn thấp so
nghèo giảm, đời sống của một bộ phận khá lớn
với mặt bằng chung.
đồng bào dân tộc Khmer ngày càng được nâng
Nghèo đói là một vấn đề kinh tế - xã hội mang
lên. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác giảm nghèo
trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang
tính toàn cầu, do đó giải quyết đói nghèo trở thành
còn nhiều khó khăn, chưa thật sự bền vững, đặc
nhiệm vụ quan trọng của đất nước. Mặt khác, xoá
biệt là một số huyện miền núi, biên giới (Tri Tôn,
đói, giảm nghèo cũng là một trong những chính
Tịnh Biên) có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh
sách xã hội cơ bản được Đảng và Nhà nước ta đặc
sống vẫn chiếm tỷ lệ hộ nghèo khá cao qua các
biệt quan tâm. Vì vậy, việc triển khai, thực hiện
năm; tính chủ động của người nghèo dân tộc
tốt các chính sách giảm nghèo, nhất là chính sách
Khmer còn hạn chế, một bộ phận còn trông chờ, ỷ
giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số không
lại vào sự bao cấp của Nhà nước không nắm bắt
chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
cơ hội để vươn lên thoát nghèo. Đặc biệt có nhiều
hội của địa phương mà còn góp phần thực hiện tốt
hộ không có khả năng thoát nghèo (có người già
hơn chính sách dân tộc, đảm bảo ổn định tình hình
yếu, cô đơn, không có con cháu, có người tàn tật
an ninh, chính trị của địa phương. Việc xác định
nặng, người tâm thần…); đời sống của một bộ
giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer
phận người nghèo dân tộc Khmer chưa bảo đảm
là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu
được mức tối thiểu và có sự chênh lệch giữa miền
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung
tỉnh An Giang. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
bình của cả nước; hiện tượng tái nghèo vẫn còn
thực hiện giảm nghèo, Tỉnh luôn tập trung quan
phổ biến. Đồng thời, do đặc điểm kinh tế của An
tâm những vùng còn tỷ lệ hộ nghèo cao như vùng
Giang chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (lúa, cá),
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc Khmer với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, các yếu tố
tinh thần: về chủ trương, phải đúng trọng tâm,
giá cả thị trường luôn tác động bất lợi cho người
đúng trọng điểm; về chỉ đạo, phải quyết liệt, biết
sản xuất, cùng với thiên tai, lũ lụt hằng năm, luôn
khối lượng công việc, lực lượng thực hiện, thời
làm biến động về tăng giảm hộ nghèo. Nghiên
hạn hoàn thành; về chủ trì, phải gương mẫu, tận
cứu các chính sách giảm nghèo và tác động của
tụy, sâu sát, dân chủ, sáng tạo nhưng đúng pháp
chính sách giảm nghèo sẽ giúp chúng ta hiểu thêm
luật của Nhà nước.
về thực trạng nghèo, đói trong vùng đồng bào dân
48
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
tộc Khmer; qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
sống thấp hơn mức sống của cộng đồng xét
nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách giảm
trên mọi phương diện. Một cách hiểu khác:
nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An
nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống
Giang hiện nay.
dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng
2. KHÁI NIỆM ĐÓI, NGHÈO
ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ
thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể
2.1 Khái niệm đói, nghèo của Việt Nam
hay từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội
Căn cứ trên thực tế về trình độ phát triển kinh
cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia
tế - xã hội của nước ta và hiện trạng đời sống
( Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An
trung bình phổ biến của dân cư hiện nay, có
Giang, 2014, tr. 36).
thể đánh giá đói nghèo theo 4 chỉ tiêu chính:
Ở Việt Nam, nghèo được chia thành các mức
thu nhập; nhà ở và tiện nghi sinh hoạt; tư liệu
khác nhau: nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối,
sản xuất và vốn liếng để dành. Song, ở nước
nghèo có nhu cầu tối thiểu. Nghèo tuyệt đối
ta, do đặc thù của nền văn hóa và bản sắc dân
là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện
tộc, nên quan niệm về đói, nghèo không chỉ
nghèo không có khả năng thoả mãn nhu cầu
đơn thuần đề cập vấn đề thu nhập vật chất mà
tối thiểu của cuộc sống (ăn, mặc, ở, đi lại...);
còn liên quan đến khía cạnh bản sắc văn hóa,
nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận
đạo đức, nhân văn… Trong các tiêu chí như
dân cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới
thu nhập, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu
mức sống trung bình của cộng đồng và địa
gia đình, hưởng thụ văn hóa,… thì tiêu chí
phương đang xét. Hộ nghèo được xem là tình
thu nhập về kinh tế là đáng chú ý hơn cả. Ở
trạng của một số hộ gia đình chỉ thỏa mãn
nước ta, chỉ tiêu đánh giá hộ giàu, nghèo, đói,
một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và
có thể dựa trên chỉ tiêu chính là thu nhập bình
có mức sống thấp hơn mức sống trung bình
quân nhân khẩu một tháng (hoặc năm) được
của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
đo lường bằng chỉ tiêu giá trị quy đổi hoặc
Trong khi đó, hộ đói được quan niệm là hộ có
hiện vật quy đổi. Khái niệm thu nhập ở đây
mức sống dưới mức tối thiểu không đủ đảm
được hiểu là thu nhập thuần túy. Đối với hộ
bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống
dân cư ở nông thôn, thu nhập được tính bằng
hay nói cách khác đó là một bộ phận dân cư
cách lấy doanh thu trừ đi chi phí bỏ ra. Chỉ
hàng năm thiếu ăn, đứt bữa, thường xuyên
tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu/tháng là
phải vay nợ và thiếu khả năng trả nợ. Từ đây,
chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói
khái niệm về chính sách xóa đói, giảm nghèo
nghèo; ngoài ra còn căn cứ vào chỉ tiêu phụ là
được định nghĩa như sau: Chính sách xóa đói,
dinh dưỡng bữa ăn, mặc, nhà ở và các điều
kiện học tập, chữa bệnh, đi lại.
giảm nghèo là tổng thể các biện pháp chính
Qua nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu, Bộ Lao
những đối tượng thuộc diện nghèo đói, nhằm
sách của nhà nước và xã hội hay là của chính
động, Thương binh và Xã hội đã đưa ra khái
tạo điều kiện để họ có thể tăng thu nhập,
niệm đói nghèo ở Việt Nam như sau: Nghèo
thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng
là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những
được những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở
điều kiện thoả mãn những nhu cầu tối thiểu
chuẩn nghèo được quy định theo từng địa
và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức
49
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
gia đã sử dụng khái niệm người nghèo của Tổ
phương, khu vực, quốc gia ( Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang, 2014, tr.
36).
chức Liên Hợp Quốc.
Như vậy, nghèo đói là một phạm trù lịch sử,
giới (ILO), đói nghèo là tình trạng một bộ
Theo khái niệm của Tổ chức Lao động Thế
có tính tương đối. Tính chất và đặc trưng của
phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự
những nhu cầu cơ bản của con người đã được
nhiên, nhân tố chính trị, văn hóa và trình độ
xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển
phát triển kinh tế - xã hội của vùng, miền,
kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của các
quốc gia, khu vực. Đặc điểm này có ý nghĩa
địa phương. Theo định nghĩa này thì mức độ
quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ
nghèo đói ở các nước khác nhau là không
sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải pháp
giống nhau. Theo số liệu của Ngân hàng Thế
xóa đói, giảm nghèo ở nước ta, nhất là vùng
giới (năm 2012), trên thế giới có khoảng 1,2
dân cư nông nghiệp và nông thôn hiện nay.
tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó
2.2 Khái niệm đói, nghèo của thế giới
phần lớn là phụ nữ và trẻ em ( Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang, 2014,
tr. 35).
Nhìn chung, mỗi quốc gia đều sử dụng một
khái niệm để xác định mức độ nghèo khổ và
đưa ra các chỉ số nghèo khổ để xác định giới
Tại Hội nghị về chống đói, nghèo do Ủy ban
hạn nghèo khổ. Giới hạn nghèo khổ của các
Kinh tế - Xã hội khu vực châu Á - Thái Bình
quốc gia được xác định bằng mức thu nhập
Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok (Thái
tối thiểu để người dân có thể tồn tại được, đó
Lan) vào tháng 9/1993, các quốc gia trong
khu vực đã thống nhất cao và cho rằng:
là mức thu nhập mà một hộ gia đình có thể
“Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân cư
mua sắm được những vật dụng cơ bản phục
không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu
vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết
cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy
yếu khác theo mức giá hiện hành. Đến nay,
nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đã
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã
đưa ra các khái niệm khác nhau về đói nghèo,
hội, phong tục tập quán của từng vùng và
những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”.
nhưng nhìn chung, chúng không có sự khác
Nhu cầu cơ bản của con người bao gồm: Ăn,
biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định
ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao
đói nghèo trong các khái niệm này là mức thu
nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu
tiếp xã hội. Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới
cơ bản, tối thiểu của con người về ăn, ở, mặc,
về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhaghen,
Đan Mạch vào năm 1995, đã đưa ra một định
y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã
hội. Sự khác nhau giữa các khái niệm là mức
nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói: “Người nghèo
đo lường độ thỏa mãn cao hay thấp, mà mức
là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới
01 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số
đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tiền được coi như đủ mua những sản phầm
tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của
từng vùng, từng quốc gia. Đáng chú ý là
thiết yếu để tồn tại”.
nhiều công trình nghiên cứu và nhiều quốc
Ngoài ra, Ngân hàng Thế giới còn đưa ra
quan niệm, nghèo là một khái niệm đa chiều
50
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân
nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu
tộc; Nghị quyết 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của
nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan
Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững
đến năng lực như dinh dưỡng, sức khỏe, giáo
thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020, Tỉnh uỷ, Ủy
dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có
ban Nhân dân Tỉnh đã kịp thời chỉ đạo các cấp,
quyền phát ngôn và không có quyền lực (Sở
các ngành, phối hợp cùng với Mặt trận Tổ quốc,
Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh An Giang,
2008, tr. 1).
các đoàn thể, cơ quan thông tin đại chúng quán
triệt trong nội bộ, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp
nhân dân, tuyên truyền, phổ biến đến các vị chức
3. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI, THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
KHMER Ở AN GIANG HIỆN NAY
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng,
3.1 Những thành tựu đạt được
pháp luật của Nhà nước; trong đó có chính sách
Trong định hướng Chiến lược phát triển kinh tế -
giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.
xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Đảng ta đã xác
Ngoài ra, Tỉnh ủy cũng đã ban hành Nghị quyết số
định: “Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc
09-NQ/TU ngày 23/10/2007 về phát triển kinh tế -
sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận
xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer đến năm
các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ
2010 và định hướng đến năm 2015.
cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả
Các chính sách dân tộc đã và đang được triển khai
sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo, nhằm nâng cao
nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận trong
hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời
thực hiện trên địa bàn tỉnh An Giang gồm có:
kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để
Quyết định 29/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng
đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các
Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ giải quyết
huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn.
đất ở và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc
Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh
thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng
số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có chính
bằng sông Cửu Long giai đoạn 2013 - 2015;
sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa
Quyết định 2472/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng
giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông
Chính phủ về việc cấp một số ấn phẩm báo, tạp
thôn và thành thị” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2011, tr. 124 - 125).
chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có
định 755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
nhiều chủ trương, chính sách về công tác dân tộc
chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh
như Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989
hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và
của Bộ Chính trị về một số chủ trương chính sách
hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; Quyết
lớn nhằm phát triển kinh tế - xã hội miền núi, Chỉ
định số 2239/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân
thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư
tỉnh An Giang về việc ban hành Kế hoạch thực
Trung ương Đảng (khoá VI) về công tác ở vùng
hiện Đề án tuyên truyền phổ biến pháp luật cho
đồng bào Khmer. Đặc biệt từ khi có Nghị quyết số
người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số
24/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành
từ năm 2013 đến năm 2016 trên địa bàn tỉnh An
Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về phát huy
Giang... Bên cạnh đó, Tỉnh còn ban hành nhiều
đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 - 2015; Quyết
51
nguon tai.lieu . vn