Xem mẫu

  1. Tài trợ vốn cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội Chương 4 Tài trợ cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội Phạm Văn Hùng Diễn đàn Phát triển Việt Nam và Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam 2006 của Ngân hàng Thế giới, khả năng tiếp cận vốn hạn chế là một rào cản lớn cho đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Để trở nên hấp dẫn hơn đối với cộng đồng doanh nghiệp, Hà Nội, với vị thế là thủ đô đồng thời là thành phố lớn thứ hai của Việt Nam, cần phải cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp thông qua kênh tài trợ chính thức. Về mật độ các tổ chức tài chính, rõ ràng Hà Nội có lợi thế trong việc phát triển hệ thống tài chính chính thức bởi Hà Nội là nơi đặt trụ sở chính của hầu hết các tổ chức tài chính quan trọng, bao gồm Ngân hàng Nhà nước Việt nam, các ngân hàng thương mại nhà nước, và các ngân hàng thương mại cổ phần. Hơn nữa, hạ tầng cho các giao dịch tài chính chẳng hạn như viễn thông, mạng lưới thông tin và hệ thống thanh toán tại Hà Nội là tương đối phát triển. Vì vậy có thể thấy rằng khu vực tài chính của Hà Nội là phát triển hơn so với các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam ngoại trừ Tp.HCM. Trong thời gian gần đây, Hà Nội đã đạt được sự phát triển đáng kể trong lĩnh vực tài chính chỉ trong một thời gian tương đối ngắn. Tỷ trọng tài sản tài chính ngày càng cao, tín dụng ngân hàng đang gia tăng và khối lượng tiền gửi ngân hàng ngày càng lớn. Tuy nhiên, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp dường như tăng nhanh hơn khả năng cung ứng do sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp mới cũng như việc mở rộng quy mô của nhiều doanh nghiệp đang hoạt động. Và kết quả là, nguồn lực tài chính chính thức tài trợ cho doanh nghiệp không đủ và 121
  2. Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội đây tiếp tục trở thành là một trong những vấn đề bức xúc cho các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương này nghiên cứu đánh giá mức độ đáp ứng giữa cung và cầu về vốn ngân hàng trên địa bàn Hà Nội. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến hai khía cạnh của đầu tư và tài trợ vốn cho đầu tư và doanh nghiệp: (i) khả năng của các doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn cần thiết cho đầu tư; và (ii) hiệu quả của việc phân bổ vốn được thực hiện thông qua khu vực tài chính. Chúng tôi xem xét cả hai mặt cung và mặt cầu của việc tài trợ vốn, bao gồm các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng vốn và các ngân hàng với tư cách là những đơn vị cung ứng vốn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi dựa chủ yếu vào những điều tra được thực hiện từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2005. Do thời gian và nguồn lực tài chính có hạn, quy mô mẫu điều tra tương đối nhỏ. Đã có 81 doanh nghiệp trả lời trong 150 phiếu điều tra được gửi đi, với tỷ lệ trả lời là 54%. Có 18 ngân hàng thương mại được điều tra và đã trả lời. Tuy nhiên, kết luận của chúng tôi là tương đối rõ ràng và cũng giống với kết quả của một số điều tra khác. Một số nghiên cứu gần đây sẽ được trích dẫn, khi cần thiết, để chứng minh cho những kết luận cơ bản của chúng tôi. 1. Tổng quan về hệ thống tài chính Hà Nội Các giao dịch tài chính tại Hà Nội đã phát triển đáng kể trong những năm gần đây, mặc dù vấn đề quyền sở hữu vẫn chưa rõ ràng và toà án kinh tế về cơ bản vẫn thụ động. Tại Hà Nội, tính đến tháng 12 năm 2005, có 5 ngân hàng thương mại nhà nước đang hoạt động với 41 chi nhánh cấp 1; 28 ngân hàng cổ phần và chi nhánh ngân hàng cổ phần; 5 ngân hàng liên doanh; 13 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; và 12 quỹ tín dụng (Bảng 1). Hiện nay, ở Hà Nội cũng có 64 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài; 4 công ty tài chính; và 5 công ty cho thuê tài chính. Hơn nữa, chính phủ Việt Nam và chính quyền Hà Nội đang phát triển thị trường chứng khoán tại thành phố này. Hệ thống tài chính chính thức của Hà Nội bao gồm chủ yếu là các ngân hàng, và tiếp cận vốn chính thức đồng nghĩa với tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Vì lý do đó, nên phạm vi của nghiên cứu này được hạn chế trong giới hạn của tài trợ vốn từ khu vực ngân hàng. 122
  3. Tài trợ vốn cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội Bảng 1: Số lượng các tổ chức tài chính chính thức tại Hà Nội 1995 2000 2005 Chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước 18 23 41 Ngân hàng cổ phần 14 14 28 Ngân hàng liên doanh 4 5 5 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 11 12 13 Quỹ tín dụng 12 12 12 Công ty tài chính và cho thuê tài chính 9 9 9 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh Hà Nội, 2005 Chú thích: Chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước ở đây chỉ tính đến các chi nhánh cấp một. Theo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Hà Nội, tính đến tháng 12 năm 2005 có 11 chi nhánh ngân hàng Công Thương, 16 chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 1 chi nhánh ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long, 11 chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, 2 chi nhánh ngân hàng Ngoại Thương đang hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội. Mặc dù có sự gia tăng các ngân hàng và tổ chức tài chính mới trong khoảng thời gian 10 năm qua, Hà Nội vẫn còn là một thành phố có hệ thống ngân hàng kém phát triển. Đóng góp của khu vực tài chính và ngân hàng trong GDP của Hà Nội chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của khu vực này. Năm 2004, đóng góp của khu vực tài chính và ngân hàng trong GDP của Hà Nội chỉ là 3,5%. Mức đóng góp này có thể là bình thường so với các nền kinh tế đang phát triển khác nhưng Hà Nội với tư cách là thủ đô của Việt Nam, thu nhập bình quân đầu người khoảng 1500 USD, và trong mục tiêu phát triển của Hà Nội đến năm 2010 phấn đấu xây dựng Hà Nội trở thành một trung tâm tài chính tiền tệ của Việt Nam, thì mức đóng góp 3,5% trong GDP là quá nhỏ và không đáng kể. 123
  4. Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội Bảng 2: Đóng góp của khu vực tài chính và ngân hàng trong GDP của Hà Nội (Đơn vị: Tỷ VND đối với các tiêu chí khác sẽ có ghi chú riêng) 2000 2001 2002 2003 2004 GDP của Hà Nội 31.513 35.717 41.944 49.090 55.996 Giá trị gia tăng của khu vực tài 1.222 1.299 1.589 1.785 1.934 chính và ngân hàng tại Hà Nội Đóng góp của khu vực tài chính 3.9% 3.6% 3.8% 3.6% 3.5% và ngân hàng trong GDP Dòng lưu chuyển tiền tệ qua hệ 59.956 69.746 112.623 158.822 278.501 thống ngân hàng và kho bạc Nguồn: Cục Thống kê Hà Nội, Niên giám Thống kê Hà Nội, 2004 Dẫu cho các giao dịch kinh tế tại Hà Nội (và tại Việt Nam nói chung) phổ biến là bằng tiền mặt, tình hình đã được cải thiện trong thời gian gần đây với sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Dòng lưu chuyển tiền tệ qua hệ thống ngân hàng và kho bạc tăng mạnh. Lòng tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng đang dần dần được cải thiện. Theo Cục Thống kê Hà Nội, quy mô vốn huy động qua hệ thống ngân hàng Hà Nội chiếm tới 40% tổng vốn huy động toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam và xấp xỉ chiếm 25% GDP của toàn quốc năm 2004. Tuy nhiên, năm 1994 hệ thống ngân hàng của Hà Nội đã huy động được 37% tổng vốn cung ứng từ hệ thống ngân hàng Việt Nam nên có thể nói rằng vị trí hệ thống ngân hàng Hà Nội dù quan trọng nhưng cũng tương đối ổn định trong suốt thập kỷ qua. Hà Nội cần cố gắng hơn nữa để thúc đẩy việc huy động vốn nhằm đáp ứng mục tiêu trở thành trung tâm tài chính tiền tệ của Việt Nam. 124
  5. Tài trợ vốn cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội Hình 1: Tín dụng ngân hàng tại Hà Nội Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh Hà Nội, 2005 Tổng mức tín dụng ngân hàng trên địa bàn Hà Nội tăng mạnh. Năm 2005, tín dụng ngân hàng đạt 177% GDP của Hà Nội, và 96,8% các khoản tín dụng này là tài trợ cho các doanh nghiệp. Đây là mức thậm chí còn cao hơn so với Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc hoặc Malaysia (hình 2). Mặc dầu khối lượng gia tăng đáng kể nhưng chất lượng tín dụng ngân hàng vẫn còn là vấn đề do chính sách ưu ái cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước và năng lực hạn chế của các ngân hàng trong việc đánh giá rủi ro. Về khía cạnh huy động vốn, tốc độ tăng trưởng vốn huy động trong 5 năm vừa qua bình quân là 21,2%. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định rằng lòng tin của dân cư vào hệ thống ngân hàng và khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng đã được cải thiện. 125
  6. Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội Hình 2: Tín dụng ngân hàng cho doanh nghiệp (Theo tỷ lệ phần trăm so với GDP quốc gia hoặc vùng lãnh thổ) Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh Hà Nội; và Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, Số 7, (81)/2005 Một vấn đề khác liên quan đến hệ thống ngân hàng Hà Nội đó là tín dụng ngân hàng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn ngân hàng mặc dù có sự gia tăng mạnh mẽ của nguồn tiền gửi. Chẳng hạn, năm 2004, tổng mức vốn huy động của hệ thống ngân hàng Hà Nội là 173.646 tỷ VND trong khi tổng mức cho vay là 93.710 tỷ VND. Có nghĩa là ngân hàng mới chỉ cho vay được 54% vốn huy động. Điều này cũng là bình thường với việc ngân hàng chỉ cho vay được một phần vốn huy động, tuy nhiên điểm đáng lưu ý ở đây là phần vốn còn lại không tài trợ cho các doanh nghiệp trên địa bàn đã được dành để cho vay tại các tỉnh, thành phố khác. Điều này chỉ ra vấn đề từ phía cung ứng vốn bởi trong khi nhu cầu được tài trợ vốn của các doanh nghiệp trên địa bàn vẫn gia tăng với tốc độ nhanh. 126
  7. Tài trợ vốn cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội Bảng 3: Vốn huy động và tài trợ của hệ thống ngân hàng Hà Nội 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Vốn huy động 74.484 98.160 122.051 147.145 173.646 192.012 (tỷ VND) Vốn cho vay (tỷ 39.745 45.850 58.387 74.399 93.710 106.285 VND) Vay ngắn hạn 60,8 59,9 55,5 53,5 56,1 55,9 (%) Vay dài hạn (%) 39,2 40,1 44,5 46,5 43,9 44,1 Vốn cho vay/ Vốn huy động 53,4 46,7 47,8 50,6 54,0 55,4 (%) Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh Hà Nội và tính toán của tác giả Bên cạnh khu vực ngân hàng, hoạt động đầu tư và kinh doanh yêu cầu nhiều dịch vụ tài chính đa dạng như cho thuê tài chính, bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty tài chính và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, ngoài thị trường bảo hiểm nở rộ trong thời gian gần đây, các dịch vụ tài chính vẫn còn kém phát triển. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã mở cửa vận hành từ tháng 3 năm 2005 với mục tiêu niêm yết các doanh nghiệp vừa và nhỏ 31 . Tuy nhiên, trung tâm giao dịch chứng khoán thứ 2 của cả nước này hiện mới chỉ trong giai đoạn đầu của sự phát triển (trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên được đặt tại Tp.HCM). Sự đóng góp của thị trường chứng khoán Hà Nội đối với đầu tư và kinh doanh còn hạn chế với việc chỉ có chứng khoán của 9 doanh nghiệp được giao dịch tại đây tính đến tháng 12 năm 2005. Tình trạng này cho thấy một thực tế rằng, trên nhiều khía cạnh, Hà Nội vẫn còn là một thành phố có nền kinh tế kém phát triển với hệ thống tài chính còn sơ khai. Nhiều hạn chế vẫn tồn tại trong việc tiếp cận nguồn tài trợ vốn chính thức, việc sử dụng vốn vẫn còn kém hiệu quả, không công bằng 31 Doanh nghiệp có vốn điều lệ ít nhất 5 tỷ VND với tối thiểu 50 cổ đông và có năm gần nhất làm ăn có lãi. 127
  8. Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội trong chia sẻ rủi ro giữa các đối tác kinh doanh, lòng tin vào hệ thống ngân hàng, và sự ủng hộ cho việc phát triển các dịch vụ tài chính đa dạng. 2. Điều tra doanh nghiệp Để phân tích khả năng tiếp cận nguồn tài trợ vốn chính thức của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội, tác giả đã thực hiện một cuộc điều tra các doanh nghiệp. Trong toàn bộ mẫu điều tra, 85 phần trăm được thực hiện gián tiếp qua phiếu điều tra. 15% còn lại thực hiện qua phỏng vấn trực tiếp để có những thông tin chi tiết cho những vấn đề quan trọng. Bảng 4 cho biết thông tin về loại hình doanh nghiệp và số doanh nghiệp được điều tra. Bảng 4: Các doanh nghiệp được điều tra theo sở hữu Số lượng Tỷ lệ Doanh nghiệp nhà nước 18 22,2% Doanh nghiệp FDI 7 8,6% Công ty trách nhiệm hữu hạn 27 33,4% Công ty cổ phần 18 22,2% Doanh nghiệp tư nhân 3 3,7% Hộ kinh doanh 8 9,9% Tổng cộng 81 100,0% Trong đó, doanh nghiệp nhà nước chiếm 22,2% trong khi doanh nghiệp dân doanh với nhiều hình thái sở hữu chiếm 77,8% còn lại, bao gồm cả doanh nghiệp FDI chiếm 8,6% toàn bộ các doanh nghiệp điều tra. 128
  9. Tài trợ vốn cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội Cơ cấu tài trợ vốn của doanh nghiệp Kết quả điều tra cho thấy 16 phần trăm các doanh nghiệp được điều tra trả lời là vốn hoạt động của họ hoàn toàn từ vốn chủ sở hữu. 84% còn lại số doanh nghiệp được hỏi có sự tài trợ vốn từ bên ngoài. Tỷ lệ này là cao hơn một chút so với mức bình quân của toàn quốc với mức 80% (MPDF, 2005). Đối với tiếp cận vốn ngân hàng, 59 phần trăm doanh nghiệp được điều tra trả lời rằng họ có vay vốn ngân hàng còn 41 phần trăm còn lại trả lời rằng họ không thể hoặc không vay vốn ngân hàng. Một lần nữa, Hà Nội lại tốt hơn nhiều tỉnh và thành phố khác về khía cạnh này. Tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng của Hà Nội cao hơn Huế (55,6%), Hải Phòng (41,5%), Hà Tây (44,5%), Thanh Hoá (37,5%), và Nam Định (20,9%). Hình 3: Tài trợ vốn cho doanh nghiệp tại Hà Nội Nguồn: Điều tra của tác giả. Kết quả cộng dồn cao hơn 100% bởi câu trả lời có nhiều lựa chọn, ngoại trừ cho trường hợp “tự tài trợ”. Tỷ lệ các doanh nghiệp được tài trợ từ các tổ chức tài chính phi chính thức, chẳng hạn như người cho vay tiền, các nhóm tương hỗ dưới dạng hụi hoặc họ, hiệu cầm đồ, cho vay giữa họ hàng hoặc bạn bè là tương đối cao với 42%. Điều này thể hiện hai điểm. Thứ nhất là chi phí sử dụng vốn và rủi ro tín dụng là quá cao do những vấn đề vốn có từ phía người đi vay. Thứ hai là các tổ chức tài chính chính thức kém phát triển cho nên thậm chí những người đi vay đủ điều kiện cũng không thể tiếp cận vốn ngân hàng. Một số doanh nghiệp phản hồi rằng doanh nghiệp của họ được tài trợ một phần từ tín dụng thương mại. Tuy nhiên, 129
  10. Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội tỷ lệ tài trợ từ các tổ chức tài chính phi chính thức tại Hà Nội thấp hơn nhiều tỉnh và thành phố khác, chẳng hạn Huế (66,6%), Hải Phòng (65,6%), Hà Tây (47,6%), Thanh Hoá (62,5%), và Nam Định (47,9%).Trên khía cạnh tiếp cận vốn ngân hàng, khu vực tài chính của Hà Nội kém phát triển theo tiêu chuẩn tuyệt đối nhưng lại tương đối phát triển so với các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam. Hình 4: Sự phát triển khu vực tài chính tại một số tỉnh và thành phố Nguồn: Điều tra của VDF, 2005; Admind J. Malesky (2004), Nghiên cứu về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân tại các tỉnh và thành phố phát triển hơn tại Việt nam, IFC, Diễn đàn kinh tế tư nhân số 18 Tài trợ khởi nghiệp Khi các doanh nghiệp mới được thành lập, họ thường chủ yếu dựa vào tích luỹ của chủ doanh nghiệp và từ gia đình, người thân, bè bạn. Rất ít các doanh nghiệp mới vay vốn ngân hàng. Tất cả 5 doanh nghiệp mới khởi nghiệp trong điều tra của chúng tôi trả lời rằng họ không vay vốn từ ngân hàng. Mặc dù các ngân hàng thương mại được phép cung cấp tín dụng không cần thế chấp cho các doanh nghiệp tư nhân, tuy nhiên chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp có hai năm liên tục làm ăn có lãi. Quy định này đã hạn chế các doanh nghiệp mới thành lập tiếp cận vốn ngân hàng. Các doanh nghiệp mới thường đối mặt với các vấn đề hoặc là 130
  11. Tài trợ vốn cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội hạn chế về tài sản thế chấp hoặc là chưa có lịch sử quan hệ với các tổ chức tài chính. Tổng quát hơn, theo Kanichiro Suzuki và Michael Lacktorin (1998), sự phát triển của hầu hết các doanh nghiệp được bắt đầu với “giai đoạn phôi thai”, trong đó một doanh nghiệp có thể chỉ mới bước qua giới hạn của một ý tưởng với cơ cấu tổ chức hoạt động và địa vị pháp lý sơ khai. Nguồn vốn chủ yếu cho đầu tư chủ yếu là từ những nguời sáng lập và các thành viên trong gia đình. Có thể có sự góp vốn cổ phần từ bạn bè. Tại giai đoạn tiếp theo “giai đoạn tăng trưởng”, doanh nghiệp đã phát triển hơn về mặt tổ chức và tiến hành sản xuất ra sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ. Doanh nghiệp thậm chí có thể bắt đầu thu lợi nhuận và có sự bổ sung vốn chủ sở hữu từ kết quả kinh doanh. Tín dụng thương mại và sự quản lý hiệu quả các khoản phải thu có thể làm tăng nguồn lực hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không tiếp cận vốn ngân hàng khi nó chưa đạt được mức độ tăng trưởng ổn định. Các ngân hàng thương mại thận trọng và sẽ không cho vay cho đến khi doanh nghiệp có báo cáo tài chính tốt và có đủ tài sản thế chấp hoặc sự bảo lãnh tin cậy. Tại “giai đoạn tăng trưởng ổn định” và tiếp theo là “giai đoạn tăng trưởng sau”, tài trợ vốn dựa trên tài sản và tài trợ thuê mua cũng có thể được sử dụng để tăng nguồn vốn hoạt động cho doanh nghiệp. Với thực trạng của Việt Nam nói chung và của Hà Nội nói riêng, công cuộc đổi mới vẫn tiếp tục được tiến hành và nhiều doanh nghiệp tư nhân được thành lập gần đây, đặc biệt là sau khi Luật Doanh Nghiệp được thực thi vào năm 2000. Vì vậy, hạn chế về khả năng tiếp cận vốn ngân hàng là việc bình thường. Tuy nhiên, một khung khổ chính sách hợp lý phải được thiết lập nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong các giai đoạn tiếp sau. Khả năng tiếp cận vốn ngân hàng: Đánh giá từ phía doanh nghiệp 75,3 phần trăm các doanh nghiệp được phỏng vấn cho rằng có sự khó khăn với các mức độ khác nhau trong việc tiếp cận vốn ngân hàng (tính cho tất cả các doanh nghiệp điều tra ngoài các doanh nghiệp trả lời là “không khó”. Trong đó, 39,5 phần trăm trả lời rằng “khó” hoặc “rất khó” tiếp cận vốn ngân hàng. 131
  12. Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội Nếu mức độ khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng được tính điểm từ 1 đến 5, với mức độ “không khó” là 1 điểm còn “rất khó” là 5 điểm, thì điểm bình quân của Hà Nội là 3, đứng ở mức độ trung bình về mức độ khó tiếp cận vốn ngân hàng. Hình 5: Đánh giá của doanh nghiệp về khả năng tiếp cận vốn ngân hàng Nguồn: Điều tra của VDF, 2005 Mức độ khó trong tiếp cận vốn ngân hàng phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp. Cụ thể, doanh nghiệp tư nhân thường gặp vấn đề khi tiếp cận vốn ngân hàng. Trong số các doanh nghiệp trả lời rằng tiếp cận vốn ngân hàng là “khó” hoặc “rất khó”, 71,9 phần trăm trong số này là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Tỷ lệ các công ty trách nhiệm hữu hạn trả lời rằng tiếp cận vốn ngân hàng “khó” hoặc “rất khó” là 40,74%, và tỷ lệ các công ty cổ phần được hỏi trả lời như vậy còn ở mức cao hơn với 61,1% (Hình 6). Các hộ gia đình cũng là nhóm gặp khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng. Bốn trong số tám doanh hộ gia đình được hỏi trả lời rằng “khó” hoặc “rất khó” trong việc vay vốn ngân hàng. Phần nhiều trong số họ thậm chi còn chưa từng làm thủ tục vay vốn ngân hàng. Trong điều tra của chúng tôi, chỉ có 1 hộ gia đình trả lời rằng họ đã vay vốn ngân hàng. Ngược lại, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI cho rằng không khó tiếp cận vốn ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính chính thức. Trong số các doanh 132
  13. Tài trợ vốn cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội nghiệp trả lời là dễ tiếp cận vốn ngân hàng, 45% là doanh nghiệp nhà nước. Chỉ có 22,2% doanh nghiệp nhà nước trả lời rằng vay vốn từ ngân hàng là “khó” hoặc “rất khó” (Hình 6). Đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn thì không hề có bất cứ khó khăn gì trong việc vay vốn ngân hàng. Đối với doanh nghiệp FDI, 42,8% doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ không gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng. Chỉ có 14,3% trả lời rằng tiếp cận vốn ngân hàng “khó”. Không có doanh nghiệp FDI nào cho rằng tiếp cận vốn ngân hàng là “rất khó”. Doanh nghiệp FDI trong điều tra của chúng tôi trả lời rằng “khó” là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán và dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, cho đến gần đây thì lĩnh vực dịch vụ vẫn là khu vực ít được khuyến khích đầu tư đặc biệt là đối với đầu tư nước ngoài. Vì vậy, khó khăn có thể xảy ra đối với doanh nghiệp này khi tiếp cận với ngân hàng trong nước. Hình 6: Mức độ khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng theo ngành Hộ kinh doanh Công ty tư nhân Doanh nghiệp FDI Công ty cổ phần Công ty trách nhiệm hữu hạn Doanh nghiệp nhà nước 0% 20% 40% 60% 80% 100% Không khó Ít khó khăn Bình thường Khó Rất khó Nguồn: Điều tra của VDF, 2005 Kết quả điều tra cũng cho thấy quy mô của doanh nghiệp càng lớn thì khả năng tiếp cận vốn ngân hàng càng dễ. Với các doanh nghiệp có vốn pháp định tối thiểu là 100 tỷ VND, khoảng 67% doanh nghiệp được hỏi cho rằng không gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng. Với nhóm vốn pháp định chỉ hơn 5 tỷ VND, chỉ có khoảng 12% doanh nghiệp được hoỉ trả lời là “không khó” và khoảng 65% các doanh nghiệp thuộc nhóm này trả lời là “khó” hoặc “rất khó” vay vốn ngân hàng (Hình 7). 133
  14. Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội Hình 7: Mức độ khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng theo quy mô doanh nghiệp Vốn pháp định trên 100 tỷ VND Vốn pháp định cao hơn hoặc bằng 10 tỷ VND Vốn pháp định cao hơn hoặc bằng 5 tỷ VND Vốn pháp định dưới 5 tỷ VND 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% Không khó Ít khó Bình thường Khó Rất khó Nguồn: Điều tra của VDF (2005) Nguyên nhân của khả năng tiếp cận vốn còn hạn chế Vấn đề tài sản thế chấp là rào cản lớn nhất cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng. Điều tra của chúng tôi cho thấy, 81,5% doanh nghiệp trả lời rằng có vấn đề về tài sản thế chấp khi vay vốn ngân hàng, trong khi chỉ có 14,9 phần trăm trả lời rằng đây không phải là vấn đề khó khăn. Trong số các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng, gần một nửa (47,3%) cho rằng tài sản thế chấp là vấn đề “khó” hoặc ‘rất khó”. Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân (công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần) trả lời rằng nhân viên tín dụng đánh giá giá trị tài sản của họ thấp hơn giá trị thị trường. Ví dụ, giám đốc của một khách sạn mini phản ánh rằng khách sạn của ông ta, trị giá tính theo thị trường là 3 tỷ, nhưng được các nhân viên tín dụng của ngân hàng định giá có 20 triệu VND. Hiện tại vẫn chưa có cơ chế xác định giá trị tài sản thế chấp thuyết phục. 134
  15. Tài trợ vốn cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội Hình 8: Đánh giá của doanh nghiệp về nguyên nhân khó tiếp cận vốn ngân hàng Nguồn: Điều tra của VDF, 2005 Nguyên nhân lớn thứ hai là do thủ tục phức tạp khi vay vốn ngân hàng. 14,5% các doanh nghiệp được hỏi cho rằng đây là vấn đề “rất khó” khi tiếp cận vốn. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc khu vực tư nhân đều cho rằng thủ tục vay mượn của các ngân hàng thương mại là phức tạp và không minh bạch. Một số khác cho rằng thời gian sử lý hồ sơ vay vốn là quá dài và các doanh nghiệp có thể lỡ cơ hội đầu tư. Thủ tục hành chính phức tạp đặc biệt là các quy định về phát mại tài sản thế chấp khi người đi vay không trả được nợ. Khoảng 20% doanh nghiệp được phỏng vấn chưa từng nộp hồ sơ xin vay vốn ngân hàng. Một số chủ doanh nghiệp tư nhân mới thành lập thậm chí không biết thủ tục vay vốn ngân hàng tiến hành như thế nào. Nguyên nhân của việc không vay vốn ngân hàng bao gồm quy trình vay nợ phức tạp, thời gian chờ đợi quyết định cho vay quá lâu, và có cả các khoản chi phí không chính thức cho nhân viên tín dụng. Mặt khác, hầu hết các doanh nghiệp cho rằng thái độ phục vụ của ngân hàng trong thời gian gần đây đã cải thiện đáng kể và không phải là rào cản tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Nguyên nhân thứ ba là do sự hạn chế về năng lực tài chính và năng lực quản trị doanh nghiệp. Đây là vấn đề của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Khoảng một phần tư (24,6) các doanh nghiệp điều tra cho rằng năng lực tài chính và năng lực quản trị doanh nghiệp là nhân tố dẫn đến khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng và chỉ khoảng 10,15% trả lời rằng đây là yếu tố “rất khó”. Do gần 90% các 135
  16. Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với năng lực tài chính hạn chế và kỹ năng quản trị doanh nghiệp yếu kém không đạt tiêu chuẩn quốc tế, và lẽ tự nhiên là các ngân hàng không thể dễ dàng cung ứng vốn cho họ và thậm chí nếu họ cho vay họ cũng có thể sẽ đưa ra mức lãi suất cao. Trong bối cảnh như vậy, một số doanh nghiệp vay tiền ngân hàng một cách gián tiếp qua các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù họ phải trả “phí dịch vụ” cho giao dịch này. 3. Điều tra ngân hàng Để phân tích vấn đề từ phía các ngân hàng, chúng tôi cũng đã thực hiện một điều tra các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2005. 18 ngân hàng và chi nhánh cấp 1 ngân hàng nhà nước đã được điều tra bao gồm 8 chi nhánh ngân hàng nhà nước, 8 ngân hàng cổ phần, và 2 chi nhánh ngân hàng nước ngoài 32 . Chúng tôi cũng tiến hành phỏng vấn trực tiếp với 3 ngân hàng để có thêm thông tin. Tất cả các ngân hàng được điều tra đều cho biết hoạt động của họ 5 năm vừa qua là có lãi. Các ngân hàng thương mại nhà nước có lợi thế rõ ràng về quy mô. Chẳng hạn, vốn pháp định của các ngân hàng thương mại cổ phần thường chỉ khoảng vài trăm tỷ đồng (Techcombank là ngân hàng cổ phần có vốn pháp định lớn nhất cũng chỉ là 830 tỷ đồng - số liệu đến cuối năm 2005) trong khi vốn pháp định bình quân của các ngân hàng thương mại nhà nước bình quân khoảng 4.000 – 6.000 tỷ đồng. Năm 2001, một chương trình đổi mới hệ thống ngân hàng và củng cố hoạt động của ngân hàng thương mại nhà nước được khởi động. Hệ thống ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng đã có những thay đổi rất quan trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực như hệ thống thông tin quản lý, thủ tục 32 Quy mô mẫu điều tra ngân hàng nhỏ, nhưng tổng số các ngân hàng tại Hà Nội cũng nhỏ (57) – xem Bảng 1. Bốn ngân hàng thương mại lớn đã chiếm đến 80% thị phần toàn quốc và chi nhánh cấp một của cả 4 ngân hàng này đều được điều tra. Tám trong 14 ngân hàng cổ phần cũng được điều tra. 136
  17. Tài trợ vốn cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội cho vay, quản lý rủi ro, và xử lý các khoản nợ quá hạn. Tuy nhiên, nhiều trở ngại trong việc cung ứng vốn cho doanh nghiệp vẫn còn tồn tại. Hình 9: Quan điểm của ngân hàng về nguyên nhân của những khó khăn cung cấp vốn cho doanh nghiệp Nguồn: Điều tra của VDF (2005) Theo quan điểm từ phía ngân hàng, khó khăn lớn nhất trong việc mở rộng cung ứng vốn cho các doanh nghiệp là năng lực tài chính của bản thân các doanh nghiệp còn hạn chế. Có 66,6% các ngân hàng được phỏng vấn cho rằng đây là vấn đề “khó” hoặc “rất khó”. Trong đó, một nửa (33,3%) cho rằng đây là vấn đề ‘rất khó”. Trong khi kết quả điều tra doanh nghiệp, đây chỉ là khó khăn thứ ba khi tiếp cận vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng e ngại ở mức độ cao về chất lượng các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân đều thiếu tính minh bạch và hoạt động kế toán của họ thiếu tính tin cậy, không đạt tiêu chuẩn quốc tế. Điều dễ hiểu là các ngân hàng sẽ gặp rủi ro lớn nếu họ cung ứng vốn cho các doanh nghiệp dạng này. Với năng lực tài chính hạn chế, tài sản thế chấp của hầu hết các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân không đáp ứng tiêu chuẩn cho vay của ngân hàng. Một số ngân hàng phàn nàn rằng thời gian cấp “sổ đỏ” hay giấy 137
  18. Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội chứng nhận quyền sử dụng đất là rất chậm và quy trình không hợp lý. Nhưng nếu không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì doanh nghiệp và cá nhân không thể vay vốn ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp và cá nhân gặp phải vấn đề với “sổ đỏ” do quyền sử dụng đất được thừa kế từ thế hệ trước nhưng lại không có giấy tờ hoặc mua bán trao tay không đủ bằng chứng pháp lý. Bởi cơ chế thị trường cũng mới được thiết lập tại Việt Nam nên vấn đề đánh giá giá trị tài sản doanh nghiệp cũng là một khó khăn cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Do chưa có tiêu chuẩn rõ ràng, nên việc định giá tài sản thế chấp dựa chủ yếu vào quan điểm chủ quan của nhân viên tín dụng. Điều đó làm cho các tài sản thế chấp thường bị định giá thấp hơn giá trị thị trường. Các doanh nghiệp tư nhân có thể bị đòi hỏi phải chi “chi phí gián tiếp” trong quá trình định giá tài sản của mình. Một vài doanh nghiệp được phỏng vấn cho rằng chi phí gián tiếp là một trong những rào cản chính yếu trong tiếp cận vốn ngân hàng. Nguyên nhân thứ hai về khó khăn trong việc mở rộng cung ứng vốn ngân hàng cho các doanh nghiệp là do sự yếu kém trong quản trị doanh nghiệp và thiếu các dự án khả thi tại chính các doanh nghiệp vay vốn. 33,4% các ngân hàng được hỏi trả lời rằng đây là vấn đề “khó” hoặc “rất khó”. Các ngân hàng không sẵn sàng cho vay bởi nếu quản trị doanh nghiệp yếu kém sẽ dẫn đến sử dụng vốn không hiệu quả, khả năng hoàn vốn thấp và vỡ nợ. Trong trường hợp xấu nhất, quản trị doanh nghiệp yếu cũng có có thể dẫn đến phá sản hoặc giải thể doanh nghiệp. Thực tế là tất cả các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội hiện nay đều coi dự án khả thi là một trong những yếu tố quan trọng nhất khi quyết định cho vay. 75% các ngân hàng được điều tra đều trả lời rằng đây là yếu tố quan trọng nhất. Tuy nhiên, vẫn còn có khoảng cách giữa quy định và thực tế hoạt động tại các ngân hàng. Một số ngân hàng vẫn ban hành các quy định có tính cứng nhắc và tài sản thế chấp vẫn là điều kiện quan trọng trong các quyết định tín dụng. Khó khăn thứ ba cho các ngân hàng đó là thiếu các thông tin thị trường cũng như thiếu các nhân viên tín dụng có trình độ. Tỷ lệ các ngân hàng đánh giá đây là vấn đề khó đối với họ trong cung ứng vốn là 22,2%. Điều này cũng cho thấy tình trạng thiếu các thông tin thị trường tin cậy tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Hà Nội cũng thiếu các tổ chức và hạn chế về động lực giúp các ngân hàng đánh giá đúng hồ sơ vay nợ hoặc thu hồi các khoản nợ từ những người đi vay không có khả năng hoàn vốn. Các ngân hàng thương mại thiếu năng lực đánh giá 138
  19. Tài trợ vốn cho đầu tư và kinh doanh tại Hà Nội tín dụng. Vì vậy, cần phải gấp rút củng cố và nâng cao năng lực của các ngân hàng trong lĩnh vực này. Hình 10: Một số căn cứ chủ yếu trong quyết định cho vay của ngân hàng % 80 70 60 50 40 30 20 10 0 Dự án khả thi Năng lực tài Tài sản thế chấp Bảo lãnh Khác chính Nguồn: Điều tra của VDF, 2005. [Bảo lãnh ở đây hiểu là sự đảm bảo của một người hoặc một tổ chức cho khoản vay] Sự can thiệp của các yếu tố phi kinh tế trong các quyết định tài trợ tại Hà Nội là rất thấp, chỉ có 5% các ngân hàng trả lời rằng đây là vấn đề khó cho họ khi quyết định cho vay. Tình trạng này ở Hà nội là thấp hơn so với các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam. Với một thực tế là tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà Nước (ngân hàng Trung Ương) có chi nhánh ở tất cả các tỉnh và thành phố. Các chi nhánh này có chức năng giám sát hoạt động ngân hàng trên địa bàn, trong quản lý điều hành của các chi nhánh này đôi khi có mối quan hệ khá gần gũi với Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh hoặc chi nhánh ngân hàng nhà nước cấp tỉnh. Mối quan hệ gần gũi này có thể dẫn đến hệ quả là các quyết định cho vay vốn phải đáp ứng các mục tiêu phát triển của địa phương hơn là đáp ứng mục tiêu vì lợi nhuận của các ngân hàng thương mại nhà nước. Các quyết định này có thể không đáp ứng mục tiêu kinh doanh vì lợi nhuận của ngân hàng nhưng lại đáp ứng được nhu cầu của chính quyền địa phương. Sự can thiệp của chính quyền địa phương đến các quyết định tín dụng tại Hà Nội thấp là do số ngân hàng và tổ chức tài chính trên địa bàn cao hơn so với các tỉnh và thành phố khác. Mặc dù sự can thiệp trực tiếp là không đáng kể, nhưng những can thiệp gián tiếp vẫn tồn tại. Một nửa trong số các ngân hàng thương mại được điều tra trả lời rằng việc cung ứng vốn đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương là ưu tiên của họ. Việt Nam ủng hộ cho nguyên tắc lợi ích quốc gia trong hoạt động tài trợ vốn của 139
  20. Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội ngân hàng. Điều này cũng có nghĩa, quyết định tài trợ có thể không đến với các doanh nghiệp có dự án tốt nhất, khả năng kinh doanh cao nhất. Cũng có sự phân công lao động tự nhiên giữa các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội. Các ngân hàng thương mại nhà nước chủ yếu cho các doanh nghiệp nhà nước vay (60 đến 88%). Các ngân hàng cổ phần cung ứng vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp tư nhân (55 đến 82%) [Bảng 5]. Các ngân hàng nước ngoài chủ yếu cung ứng vốn cho các doanh nghiệp FDI (hơn 80%). Bảng 5: Cơ cấu cho vay theo loại hình doanh nghiệp tại một số ngân hàng trên địa bàn Hà Nội Tỷ lệ Doanh Doanh Doanh nghiệp nhà nghiệp tư nghiệp FDI nước nhân Ngân hàng đầu tư và 60% 40% 0 Phát triển, Cầu giấy Ngân Incombank, Hai Bà 88% 12% 0 hàng nhà Trưng nước Vietcombank 65% 15% 20% Incombank, Ba Đình 81% 19% 0 Ngân hàng EXIM 30% 49% 21% Ngân VIBank 32% 57% 11% hàng cổ Phương Nam Bank 18% 82% 0% phần ACB 25% 55% 20% Standard and Charter Ngân 11% 4% 85% bank hàng nước Bank of Tokyo- 14% 5% 81% ngoài Mitsubishi Nguồn: Điều tra của VDF, 2005 Sự phân chia thị trường giữa các ngân hàng là hệ quả tự nhiên. Các doanh nghiệp nhà nước có mối quan hệ kinh doanh lâu hơn với các ngân hàng nhà nước, và các ngân hàng cổ phần với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận sẽ chọn các đối tác có mục tiêu tương đồng làm khách hàng chính đó là các doanh nghiệp tư nhân. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa được phép hoạt động đầy đủ trên thị 140
nguon tai.lieu . vn