Xem mẫu
- A:LỜI NÓI ĐẦU
Hứng chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh,Việt Nam trăn trở tìm
cho mình một lối đi riêng để khôi phục và xây dựng đất nước.Những năm
tháng khó khăn đã trôi đi,cùng nhìn lại quãng thời gian ấy,chúng ta đã rút
ra được nhiều bài học bổ ích cho quá trình tìm kiếm con đường phát triển.
Con đường nào cũng lắm chông gai,để tự tin vững bước đạt đến những
mục tiêu đã đặt ra thật không dễ dàng chút nào. Khi nói đến một xã hội
phát triển, chúng ta thường hình dung ra một xã hội, ở đó mọi người được
ăn ngon, mặc đẹp, có khả năng chủ động trong việc tiếp cận các loại tài
sản vật chất, có những hoạt động vui chơi giải trí sang trọng, được sống
trong một môi trường trong sạch và lành mạnh; mặt khác, chúng ta cũng
nghĩ tới một xã hội không có sự phân biệt đối xử, với các mức độ công
bằng cần thiết.
Sau khi miền Bắc giành được độc lâp vào năm 1954,Việt Nam đã bắt tay
vào công cuộc xây dựng đất nước. Theo quan điểm lãnh đạo của Đảng
với mục tiêu đưa đất nước đi lên xây dựng Xã hội chủ nghĩa,Việt Nam đã
lựa chọn cho mình mô hình phát triển kinh tế nhấn mạnh công bằng xã
hội. Cùng những chính sách của nhà nước,Việt Nam đã thực sự có một
diện mạo mới.
Thế nhưng trên con đường ta đi đã gặp phải nhiều chướng ngại khiến ta
phải đặt câu hỏi:
Liệu mô hình ấy có phù hợp với Việt Nam hay không?Tại sao Việt Nam
không tiếp tục phát triển theo mô hinh ấy nữa mà Chính phủ lại phải tiến
hành chương trình cải cách toàn diện hệ thống kinh tế vào đầu năm 1989?
Ngã rẽ nào làm Việt Nam phải thay đổi con đường mình đã chọn?
Băn khoăn với những câu hỏi ấy,nhóm 1 đã quyết định tìm hiểu về “con
đường phát triển của Việt Nam trước đổi mới nhấn mạnh công bằng”.Hy
vọng sẽ phần nào giải đáp được những thắc mắc cuả mình.
- B:CÁC MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN TRÊN THẾ GIỚI
Trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, các nước đã sử dụng
nhiều cách đi khác nhau, nội dung trọng tâm của quá trình lựa chọn và
hình thành mô hình phát triển của mỗi nước là quan điểm giải quyết mối
quan hệ giữa mặt kinh tế (tăng trưởng) và mặt xã hội (tiến bộ và công
bằng xã hội) trong quá trình phát triển. Nhiều nước, quá trình lựa chọn
con đường phát triển đã đồng nhất một cách ngây thơ giữa phát triển kinh
tế với tăng trưởng kinh tế, và tìm mọi cách để giải quyết bài toán tăng
trưởng kinh tế nhanh. Có những nước thì lại qua nhấn mạnh đến giải
quyết công bằng xã hội và xem đó là tất cả những gì gọi là phát triển
v.v...Các nghiên cứu thực nghiệm cũng đã đúc kết thành những mô hình cụ
thể, mỗi mô hình có những đặc trưng riêng, và có những kết cục tất yếu
của nó.
1.Mô hình tăng trưởng trước, công bằng xã hội sau ( kiểu chữ U ngược)
Đây là mô hình được khởi nguồn áp dụng ở Mỹ, Canada, Nhật Bản và
phương tây, các nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, tiếp
theo đó là sự lựa chọn của phần lớn các nước khu vực Nam Mỹ như
Braxin, Mehico, VeneZuela. Khu vực đông Nam Á có một số nước như
Hồng Kông, hay cả Malaysia, Philipines cũng đi theo mô hình này. Sự lựa
chọn này phù hợp với giả thuyết mà Simon Kuznets (đưa ra vào năm
1955- khi ông là Chủ tịch Hội đồng kinh tế Mỹ) về mối quan hệ giữa tăng
trưởng (phản ánh qua chỉ số GDP/người) và bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập (phản ánh qua chỉ số GINI) theo dạng chũa U ngược. Các
nghiên cứu thực nghiệm trong vòng 20 năm từ 1962 đến 1985 của chính
Kuznets và Oshima ở khoảng 70 nước trên thế giới và một số công trình
nghiên cứu khác nữa cũng vẫn khẳng định tính đúng đắn cho giả thuyết
chữ U ngược (hình dưới).
Hình 1: Mô hình chữ U ngược
- GINI
0,6 -
-
0,5 -
-
0,4 -
-
0,3
0,2
GDP/người
Theo mô hình này, các nước thường không quan tâm đến phân phối lại thu
nhập trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.Vì vậy, trong giai đoạn
này, cùng với quá việc đạt được các thành tựu về tăng trưởng (thu nhập
bình quân đầu người tăng lên) thì sự bất bình đẳng có xu hướng tăng lên,
kết quả của tăng trưởng sẽ dồn vào một số nhóm người trước. Chỉ khi
nền kinh tế đã đạt được một mức độ khởi sắc đáng kể, thu nhập bình
quân đầu người cao, lúc đó sự bất bình đẳng mới có xu hướng giảm dần
cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế do chính phủ bắt đầu quan tâm đến
các chính sách phân phối lại thu nhập làm cho kết quả của tăng trưởng
được “thẩm thấu” một cách rộng rãi hơn.
2. Mô hình tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội giải quyết đồng thời
(phát triển toàn diện)
Đã có nhiều nước, trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh
tế của mình lựa chọn một mô hình kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng và
công bằng xã hội trong phân phối thu nhập và đã dành được sự thành công
đáng kể.. Một nét đặc trưng của mô hình này là, trong quá trình phát
triển, mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với mục tiêu công bằng xã
hội. Quá trình tăng trưởng nhanh và công bằng xã hội lớn hơn là những
mục tiêu tương hợp và không mâu thuẫn nhau. Kết quả tăng trưỏng
nhanh góp phần cải thiện mức độ công bằng, hoặc là không làm gia tăng
bất bình đẳng, trường hợp xấu nhất là sự bất bình đẳng có gia tăng
nhưng ở một mức độ thấp cho phép.
Nội dung chính của mô hình này được thể hiện rất rõ nét qua những chính
sách can thiệp của chính phủ vào các lĩnh vực kinh tế và xã hội nhằm tạo
ra sự phát triển đồng bộ của cả hai yếu tố này. Một là, chính sách khuyến
khích tăng trưởng kinh tế nhanh, thông qua việc lựa chọn các mô hình
- công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Mô hình mà
Hàn Quốc và Đài Loan sử dụng khá thành công là mô hình công nghiệp
hoá hướng ngoại nền kinh tế thông qua chính sách nhấn mạnh vai trò của
khu vực tư nhân và sự hỗ trợ tích cực của nhà nước trong những lĩnh vực
cần thiết. Hai là, chính sách đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực của nền
kinh tế nhằm bảo đảm tăng trưởng nhanh nhưng không gây gia tăng bất
bình đẳng
3.Mô hình nhấn mạnh công bằng xã hội trước và tăng trưởng kinh tế sau.
Ý tưởng chung của mô hình là coi các chính sách tạo sự công bằng xã
hội là điều phải làm trước tiên khi thu nhập của nền kinh tế, tăng trưởng
còn ở tình trạng rất thấp và xem như đó là điều kiện, là điểm mấu chốt
để thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo mô hình này, quá
trình phát triển phải được bắt đầu bằng sự kiện “tước đoạt của những kẻ
đã đi tước đoạt” thông qua chính sách cải cách ruộng đất và đánh tư sản.
Nhà nước tiến hành quốc hữu hoá tài sản, nguồn lực được phân phối lại
cho các đơn vị kinh tế dưới hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể.
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối cơ bản nhất, được thực
hiện theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Ai làm
nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai có sức lao dộng không làm không
hưởng”
C: LỰA CHỌN MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
TRƯỚC ĐỔI MỚI
1. Mô hình phát triển nhấn mạnh công bằng xã hội trước – sự lựa chọn
của Việt Nam trước thời kỳ đổi mới kinh tế
Sau khi miền Bắc được giải phóng Đảng và nhà nước ta đã bắt tay
ngay vào công cuộc khôi phục, xây dựng và phát triển kinh tế đất
nước.Đảng đã đề ra các chính sách chủ yếu nhằm:tiếp tục hoàn thành cải
cách dân chủ ,cải tạo các thành phần kinh tế và bước đầu xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Trong cuộc họp Bộ chính trị tháng
9-1945, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra kế hoạch ba năm (1955-
1957), tập trung khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn
định chính trị và tạo cơ sở để đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, và
một mục tiêu thiết yếu được đặt ra đó là đảm bảo công bằng trong xã hội
và đời sống nhân dân.Tiếp theo đó vào những năm 1958-1960 Đảng ta chủ
chương biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa với hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh và tập thể.Kinh tế
cá thể và kinh tế tư bản tư doanh là đối tượng trục tiếp của công cuộc cải
tạo này.Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa tiếp tục vào những năm sau
đó với nội dung chủ yếu là hạn chế kinh tế cá thể,đưa các cơ sở công tử
- hợp doanh lên quốc doanh,phát triển kinh tế quốc doanh và hợp tác xã
nhằm củng cố mở rộng và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong toàn bộ miền Bắc.Ngày 30-4-1975 miền Nam hoàn toàn giải
phóng.Sau mốc lịch sử này công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế trở
thành mục tiêu hàng đầu của nước Việt Nam thống nhất.Những chính
sách trong thời kì này của Đảng ta nhằm củng cố và mở rộng trận địa của
kinh tế quốc doanh và hợp tác xã.Trong khi miền bắc tiếp tục đẩy nhanh
tốc độ sát nhập các hợp tác xã nông nghiệp từ qui mô thôn thành quy mô
toàn xã và liên xã và tiến hành tập thể hóa toàn bộ tư liệu sản xuất ,thì
miền Nam cũng bắt tay vào công cuộc cải tạo ruộng đất và cải tạo xã hội
chủ nghĩa với cách thành phần kinh tế tư nhân và cả thể .
Những chính sách trên của Đảng cho thấy:mô hình phát triển kinh tế Việt
Nam lựa chọn trong thời kì trước đổi mới là mô hình phát triển nhấn
mạnh công bằng.Nội dung chính của mô hình này là coi các chính sách tạo
sự công bằng xã hội là điều phải làm trước tiên khi thu nhập của nền kinh
tế, tăng trưởng còn ở tình trạng rất thấp và xem như đó là điều kiện, là
điểm mấu chốt để thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Tiến lên CNXH,với mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội và
trong kinh tế cũng như tiến đến một sự hợp tác tốt hơn,mô hình nhấn
mạnh công bằng xã hội được lựa chọn là điều hiển nhiên ở Việt Nam vào
giai đoạn ấy-những năm tháng trước đổi mới.
Trước năm1975, đất nươc ta bị chia cắt thành 2 miền Nam-Bắc.Giải
phóng thủ đô,tiếp quản Hà Nội năm1954,ngay sau đó chặng đường gian
nan tìm phương án giải bài toán phát triển kinh tế thực sự bắt đầu nhưng
mới chỉ được áp dụng ở miền Bắc.Đến1975 khi Việt Nam hoàn toàn độc
lập, đương lối ấy mới đựơc áp dụng trên toàn quốc.
2 Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam theo mục
tiêu phát triển nhấn mạnh công bằng
2.1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 1955-1975
Giai đoạn này là giai đoạn phát triển thành công nhất của con đường
kinh tế đã chọn “ phát triển kinh tế nhấn mạnh công bằng” nền kinh tế
miền Bắc sau chiến tranh đã có nhiều đổi mới.
2.1.1Miền Bắc khôi phục kinh tế sau chiến tranh 1955-1960.
Giai đoạn 1955 – 1957 là thời gian đất nước ta vừa kết thúc cuộc chiến
tranh chống thực dân Pháp, những tàn tích của chiến tranh để lại là vô
cùng to lớn trên mọi lĩnh vực, cả công nghiệp và nông nghiệp đều chịu
những thiệt hại vô cùng nặng nề. Đứng trước tình hình đó thì trong cuộc
họp Bộ chính trị tháng 9-1945, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra kế
hoạch ba năm (1955-1957), tập trung khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
- thương chiến tranh, ổn định chính trị và tạo cơ sở để đưa miền Bắc tiến
lên chủ nghĩa xã hội, và một mục tiêu thiết yếu được đặt ra đó là đảm
bảo công bằng trong xã hội và đời sống nhân dân.
Các chính sách xây dựng đất nước.
-Điển hình của việc nhấn mạnh công bằng đó là việc chia đều đất đai
cho nông dân, tháng 2-1945 cải cách ruộng đất liên tục mở rộng trên phạm
vi 22 tỉnh miền Bắc với 3653 xã. Đến cuối năm 1957 thì cải cách ruộng
đất ở các vùng đồng bằng và trung du đã hoàn thành. Những kết quả khả
quan đạt được đó là chia 81 vạn ha ruộng và 74 nghìn con trâu bò cho trên
2.1 triệu hộ nông dân, bình quân mỗi hộ nông được chia 4095 ha và mỗi
hộ bần nông được chia 4155 và mỗi hộ trung nông 3317 ha. Qua việc cải
cách ruộng đất của nhà nước ta thấy được rõ ràng ý định nhấn mạnh công
bằng của Đảng, mỗi hộ gia đình tùy từng điều kiện khác nhau đã nhận
được những sự hỗ trợ khác nhau của nhà nước. Thắng lợi của cải cách
ruộng đất không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị, xã hội
sâu sắc vì đã thủ tiêu được chế độ sở hữu phong kiến về mặt ruộng đất,
xoá bỏ phương thức bóc lột địa tô và quan hệ chủ đất- tá điền đã tồn tại
lâu dài trong lịch sử. Người nông dân đã thực hiện được mơ ước ruộng
đất ngàn đời của mình thoát khỏi cảnh quanh năm cày thuê, cuốc mướn.
Hơn nữa việc đảm bảo tính công bằng trong nhân dân đã khuyến khích
sản xuất, nông dân đã bỏ nhiều công sức ,tiền của và cùng với nhà nước
đầu tư phát triển nông nghiệp. Trong ba năm 1955-1957 chỉ tính riêng vốn
đầu tư xây dựng cơ bản nông nghiệp miền Bắc đã được đầu tư 87.9 triệu
đồng, trong đó vốn nhà nước là 29.3 triệu đồng. Bên cạnh việc phát huy
tính hiệu quả của việc cải cách ruộng đất thì Đảng ta cũng ban hành các
chính sách để khuyến khích nhân dân lao động sản xuất và đây cũng là
một yếu tố thể hiện tính công bằng trong sản xuất được nhà nước tạo ra.
Các chính sách khuyến khích ruộng đất bao gồm:
Bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất.
Bảo hộ tài sản nông dân và các tầng lớp khác.
Khuyến khích khai hoang phục hoá bằng việc ,miễn giảm thuế 3 năm cho
ruộng đất phục hóa và 5 năm cho ruộng đất khai hoang, không phải đóng
thuế phần tăng vụ, tăng năng suất.
Tự do thuê mướn nhân công, thuê mướn trâu bò, vay và cho vay.
Khuyến khích phát triển hình thức tổ đổi công.
Khuyến khích phát triển nghề phụ và nghề thủ công trong nông dân và
nông thôn.
Bảo hộ khuyến khích và khen thưởng hộ nông dân có thành tích làm ăn
giỏi.
Nghiêm cấm phá hoại sản xuất
- -Không chỉ tập trung phục hồi và phát triển ngành nông nghiệp, Đảng ta
cũng chú trong để bảo đảm phát triển nền kinh tế trên mọi lĩnh vực, nông
nghiệp là ngành được quan tâm nhiều nhưng bên cạnh đó công nghiệp
cũng từng bước có được sự phục hồi đáng kể sau chiến tranh. Trong công
nghiệp Đảng đã thực hiện chủ trương chú trọng phát triển công nghiệp
nhẹ trước,đồng thời củng cố và phát triển cơ sở của công nghiệp nặng
cần thiết và có khả năng vì vốn liếng còn ít ỏi, tài nguyên khoáng sản
chưa được điều tra, tăm dò, cán bộ và công nhân kỹ thuật còn yếu. Theo
phướng hướng này ngoài việc khắc phục tình trạng đình đốn của khu vực
tiểu thủ công nghiệp, trong ba năm 1955-1957, còn đầu tư 172.2 triệu
đồng để khôi phục hầm mỏ, nhà máy cũ và xây dựng thêm một số cơ sở
mới, làm tăng 100.4 triệu đồng tài sản cố định, số xí nghiệp quốc doanh
cũng tăng từ 41 năm 1955 lên 150 năm 1957. Số công nhân viên cũng tăng
lên từ 18577 vào năm 1955 lên 40365 năm 1957. Sản xuất công nghiệp
trong thời kỳ năm đã đạt tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 64.1%. Hầu
hết các sản phẩm công nghiệp năm 1957 đã tăng lên cao hơn rất nhiều so
với năm 1955
Sản lượng
Đơn vị Tỷ lệ so sánh 1955 với
STT Chỉ tiêu tính 1955 1957 1957
Triệu
1 Điện phát ra KWH 53.0 121.2 228.7
Triệu
2 Than sạch tấ n 0.6 1.1 375.2
Thuốc viên Triệu
3 các loại viên 69.3 188.0 271.3
Triệu
4 Gạch xây viên 51.0 409.2 802.3
Thuỷ tinh Nghìn
5 dân dụng tấ n 0.4 1.1 275.0
Vải thành Triệu
6 phẩm mét 11.0 60.3 548.2
Lụa thành Triệu
7 phẩm mét 0.3 3.2 1066.6
8 Quần áo dệt Nghìn 52.0 940.0 1807.7
- kim cái
Nghìn
9 Muối tấ n 65.3 98.9 151.4
Chè chế Nghìn
10 biến tấ n 1.1 2.1 190.9
-Nhìn chung chúng ta có thể thấy rõ được sự phục hồi và phát triển nhanh
chóng của nền kinh tế của nước ta từ năm 1955 – 1957 sau chiến tranh,
để có được điều này thì điều qua trọng nhất đó là đường lối chính sách
hợp lý, chính xác của đảng và nhà nước ta lúc đó, phát triển công nghiệp
và nông nghiệp một cách thích hợp và đảm bảo được tính công bằng
khuyến khích nhân dân sản xuất và phát triển.
-Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp ở miền bắc những năm 1958-1960
đã được tiến hành nhanh chóng. Nội dung chủ yếu của công cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa đặt ra trong thời kỳ này là biến nền kinh tế nhiều thành
phần nền kinh tế xã hội chủ nghiã với hai hình thức sỡ hữu chủ yếu là
quốc doanh và tập thể. Kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh là đối
tượng trực tiếp của công cuộc cải tạo này. Trong toàn bộ công cuộc cải
tạo này thì việc đưa nông dân cào hợp tác xã coi là khâu chính. Quá trình
hợp tác hoá nông nghiệp được tiến hành theo ba bước: tổ đổi công, hợp
tác xã bậc thấp, hợp tác xã bậc cao và ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng có
lợi và quản lý dân chủ. Trong thời kỳ này, hợp tác xã nông nghiệp chủ
yếu là hợp tác xã bậc thấp, quy mô hợp tác xã còn nhỏ bé nhìn chung mới
ở trong pham vi thôn, xóm, làng, bản. Bình quân mỗi hợp tác xã chỉ có 68
hộ, trong đó hợp tác xã bậc thấp có 57 hộ, hợp tác xã bậc cao có 79 hộ.
Diện tích canh tác bình quân mỗi hợp tác xã là 33ha, trong đó hợp tác xã
bậc thấp là 32ha, hợp tác xã bậc cao la 48ha.
Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp diễn ra tương đối đồng đều ở các khu
vực khác nhau thuộc nông thôn miền bắc. Số hộ xã viên so với tổng số hộ
nông dân trong năm 1960 ở đồng bằng sông hồng là 89,4%; khu bốn cũ la
87,9%; miền núi phía bắc là 65,8%.
-Công cuộc cải tạo đối với các hộ cá thể hoạt động trong các ngành công
nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng và các ngành khác
cũng không kém phần khẩn trương. Đến năm 1960 toàn miền bắc đã có
760 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, trong đó 239 là hợp tác xã bậc thấp
và 521 hợp tác xã bậc cao… Tính chung, năm 1960 số xã viên hợp tác xã
chuyên sản xuất công nghiệp đã lên tới 72 nghìn người.
-Đi đôi với cải tạo những người sản xuất nhỏ, còn tiến hành cải tạo
công thương nghiệp tư bản tư doanh với mục tiêu là nhanh chóng xoá bỏ
thành phần kinh tế này. Xuất pháp từ tương quan so sánh lực lượng giữa
giai cấp vô sản và tư sản, cũng như thái độ chính trị và khả năng kinh tế
- của giai cấp tư sản dân tộc. Nhà nước đã sử dụng phương pháp cải tạo
hoà bình, không tịch thu, trưng thu tài sản của giai cấp tư sản dân tộc mà
tiến hành trả dần. Đây cũng là một hình thức công bằng cho họ. Giai cấp
tư sản dân tộc miền Bắc này vốn ít, phần đông kinh doanh thương nghiệp
và nhà ở. Họ từng là bạn đồng minh của giai cấp công nhân trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Vì vậy đến năm 1960, công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với lực lượng này căn bản đã hoàn thành. Khoảng 3 vạn
công nhân trong các cơ sơ sản xuất tư nhân đã trở thành cán bộ, công
nhân, viên chức nhà nước.
.- Đối với những danh nghiệp tư bản lớn thì áp dụng hình thức công tư
hợp doanh. Đến cuối 1960 đã cải tạo xong toàn bộ 729 hộ tư bản công
nghiệp trong đó có 661 hộ theo hình thức công tư hợp doanh và 68 hộ theo
hình thức xí nghiệp hợp tác…
-Chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với lực lượng tiểu thương,
tiểu chủ, thợ thủ công là đưa họ vào con đường làm ăn tập thể trong các
hợp tác xã thủ công nghiệp, tổ sản xuất thủ công nghiệp, hợp tác xã mua
bán. Phần lớn lực lượng tiểu thương được chuyển sang sản xuất nông
nghiệp
-Cải tạo xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế-xã hội
miền Bắc, đưa thành phần kinh tế toàn dân và tập thể thành vai trò chủ
đạo trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
-Văn hóa, giáo dục cũng thu được nhiều thành tựu to lớn. Vào năm
học 1959-1960, miền Bắc có 6.300 trường, với 2,5 triệu học sinh, sinh
viên, chiếm khoảng 17% dân số. Số học sinh phổ thông ở các cấp I, II, III
và số sinh viên đại học tăng từ 2 đến 4 lần so với năm học 1956-1957. Số
nữ sinh và học sinh các dân tộc miền núi đến trường ngày càng đông.
-Hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng phát triển khá nhanh.
Số cơ sở điều trị, điều dưỡng, nhà hộ sinh tăng hơn 10 lần so với năm
1956. Các bệnh dịch lây lan với quy mô và phạm vi lớn ở miền Bắc căn
bản không còn nữa.
-Các kế hoạch phục hồi kinh tế diễn ra thuận lợi, đến hết thời kỳ này đã
có các chỉ tiêu ngang mức trước chiến tranh. Cuối thời kỳ này, các nền
móng của hàng loạt các công trình lớn được xây dựng, chuẩn bị cho thời
kỳ phát triển công nghiệp rất mạnh 1960-1964.
-Mức sống nhân dân đã ổn định cùng với việc phát triển phúc lợi xã hội.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chú trọng xây dựng con người
hơn là phát triển nóng sức mạnh, điều này đóng góp cho sức phát triển lâu
dài của miền Bắc
- Tuy vậy,giai đoạn này kinh tế xã hội đã bắt đầu bộc lộ những thiếu sót
lớn:
-Mới chỉ tập trung giải quyết vấn đề thủ tiêu chế độ người bóc lột người
và thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất chứ chưa chú ý đúng mức
đến vấn đề tổ chức quản lý và phân phối.Trong cải tạo nông nghiệp do
quá nhấn mạnh vai trò nòng cốt của bấn nông và cố nông nên đã gạt bỏ
tầng lớp trung nông,lớp trên,phú nông là những người có trình độ văn
hóa,có vốn liếng,có kinh nghiệm quản lý ra khỏi hợp tác xã. Thời gian này
có tới 55% chủ nhiệm, 77% kế toán của hợp tác xã nông nghiệp chỉ có
trình độ văn hóa lớp 4 trở xuống, thậm chí 1,25% số chủ nhiệm hợp tác
còn không biết chữ. Suy nghi sai lầm do một số nhà lãnh đạo không hiểu
thế nào là “ vô sản” đã vô tình đẩy tầng lớp trên vào bước đường
cùng.Vậy có thể gọi là công bằng hay không? Mặc dù đã tiến hành Hội
nghị sửa sai về cải cách ruộng đất năm1956 dẫn đến sự từ chức của
Tổng Bí Thư Trường Chinh nhưng vẫn chưa thể lấy lại được hoàn toàn
niềm tin của nhân dân.
- Do nóng vội đi lên chủ nghĩa xã hội và hiểu 1 cách máy móc tư tưởng
của các nhà kinh điển”sản xuất nhỏ hàng ngày hàng giờ đẻ ra CNTB”nên
việc cải tạo những người sản xuất nhỏ đã tiến hành ồ ạt,tràn lan,không ít
trường hợp gò ép vi phạm 3 nguyên tắc :tự nguyện,cùng có lợi,từ thấp
đến cao đã đề ra ban đầu.
-Nông nghiệp tăng 0,4%,riêng trồng trọt lại giảm 1,2% mỗi năm.Sản xuất
lương thực tăng chậm,thậm chí là giảm.Nguyên nhân là do nông dân
không gắn bó với ruộng đất,sản xuất trong hợp tá xã nông nghiệp kém
hiệu quả càng làm xã viên giảm lòng tin.
Khí thế cách mạng sôi động cùng những sự cải thiện rõ rệt về kinh tế so
với những năm chiến tranh đã làm mờ đi những thiếu sót ấy làm chúng
không được phân tích và rút kinh nghiệm tức thời,gây ảnh hưởng nhiều
đến quá trình phát triển kinh tế sau này.
2.1.2 .Nền kinh tế trong chiến tranh 1961-1975
Tháng 9-1960 ,Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã họp và đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
miền Bắc. Đại hội đề ra kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế 5 năm
lần thứ nhất 1961-1965 với nội dung "chuyển sang lấy xây dựng chủ
nghĩa xã hội làm trọng tâm ,thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội
- chủ nghĩa,xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội,đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ,làm cho nền kinh tế
miền Bắc trở thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa". Kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất bị bỏ dở vì ngày 5-8-1964 Mỹ đánh phá miền Bắc. Mặc dù
trong 15 năm (1961-1975) thì 11 năm miền Bắc có tranh tranh nhưng
đường lối kinh tế của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ III đề ra
vẫn được triển khai một cách tích cực . Trong đó mục tiêu chính vẫn là
đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa với nội dung chủ yếu là
hạn chế kinh tế cá thể ,đưa các cơ sở công tư hợp doanh lên quốc doanh,
phát triển kinh tế quốc doanh và hợp tác xã nhằm củng cố ,mở rộng và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế
miền Bắc.
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,hợp tác hóa nông nghiệp vẫn giữ được vị
trí đặc biệt quan trọng với những cải tiến trong quản lí hợp tác xã nông
nghiệp,cải tiến kĩ thuật canh tác với các nội dung chính là :
Chuyển dần các hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao.
Mở rộng quy mô hợp tác xã.
Cải tiến quản lí hợp tác xã trên ba mặt:lao động,tài vụ và phân phối.
Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho các hợp tác xã
Quá trình chuyển hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao và mở rộng qui mô hợp
tác xã tới địa bàn thôn rồi địa bàn xã ,thậm chí liên xã tiến hành một cách
gấp gáp. Năm 1960 nông nghiệp miền bắc chỉ có 4,3 nghìn hợp tác xã bậc
cao ,chiếm 10% tổng số hợp tác xã thì năm 1965 đã có tới 19 nghìn hợp tác
xã bậc cao, chiếm 60,1%.Tỷ lệ hợp tác xã bậc cao trong tổng số hợp tác
xã nông nghiệp năm 1970 là 80,4% năm 1975 là 96,4%.
Trong các ngành nghề phi nông nghiệp thì quá trình quốc hữu hóa tiếp tục
được thực hiện. Cho đến năm 1965 thì một bộ phận nhỏ còn lại của kinh
tế công thương nghiệp tư bản tư doanh cũng được tiếp tục cải tạo và
hoàn toàn xóa bỏ được thành phần kinh tế này.
Để nâng cao tỷ trọng của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa nói chung
và vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh nói riêng, Nhà nước đã tăng
cường đầu tư xây dựng thêm các cơ sở kinh tế quốc doanh ở tất cả các
ngành nghề các vùng ,các địa phương niềm Bắc. Năm 1975, toàn miền
Bắc đã có 115 nông trường quốc doanh. Số nông trường quốc doanh này
có 92,2 nghìn công nhân viê chức và 2789 máy kép. Năm 1975 so với năm
1960 ,nông nghiệp quốc doanh gấp 2,05 lần về số nông trường,gấp 1,55
lần về số công nhân viên chức,gấp 1,69 lần diện tích gieo trồng cây hàng
năm;3,23 lần diện tích gieo trồng cây lâu năm và gấp 4,98 lần về số máy
- kéo.Cũng so sánh 2 năm trên ,vận tải quốc doanh gấp 5,69 lần về số lao
động thường xuyên và gấp 2,68 lần về giá trị tài sản cố định tính theo giá
ban đầu;thương nghiệp quốc doanh gấp 3,39 lần về số cửa hàng bán lẻ
và gấp trên 1,74 lần về số lao động.Trong kinh tế quốc doanh, công
nghiệp quốc doanh được chú trọng nhất theo hướng ưu tiên phát triển các
ngành công nghiệp nặng: điện than...Năm 1975 ,miền Bắc có 1335 xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh ,tăng 323 xí nghiệp so với năm 1960.
Sau 15 năm triển khai đường lối xây dựng và phát triển kinh tế do Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ III đề ra, công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên miền Bắc đã thu được một số kết quả nhất định trong
các chỉ tiêu xã hội:
• Do nền kinh tế phát triển nên đời sống của nhân dân đã được
nâng lên.Năm 1975 so với năm 1960 quỹ tiêu dùng của nhân dân tính
bình quân đầu người tăng 70,8%,thu nhập bình quân đầu người của
gia đình công nhân viên chức tăng 29,1%,thu nhập bình quân đầu
người của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 73,8%.
• Hoạt động giáo dục ,y tế đạt được kết quả to lớn.Theo tài
liệu điều tra dân số miền Bắc 1-4-1974,trong tổng số người từ 11
tuổi trở lên đã có 46,7% người có trình độ văn hóa lớp 4 trở
lên;trong tổng số người từ 14 tuổi trở lên có 27,9% người có trình
độ văn hóa lớp 7 trở lên,Trong tổng số người 18 tuổi trở lên có 2,8
% người có trình độ đại học,trung học và lớp 10 trở lên(Ba chỉ tiêu
tương ứng này vào thời điểm 1-3-1960 lần lượt là
12,3%;2,4%,0,6%).Năm học 1975-1976,bình quân một vạn dân
miền Bắc có 2769 người đi học so với mức 214 người năm học
1939-1940 và 949 người năm học 1955-1956.Riêng số sinh viên đại
học năm 1975-1976 lên tới 61,1 nghìn người gấp 101,8 lần năm
học 1939-1940 và gấp 50,9 lần năm học 1955-1956.Về Y tế thì theo
thống kê vào năm 1975 ,miền Bắc đã có 6875 cơ sở khám chữa
bệnh ,tăng 87,2% so với năm 1960 với 109,9 nghìn giường bệnh
,tăng 128% .Số cán bộ y tế năm 1975 có 93,5 nghìn người ,gấp gần
2 lần so với năm 1960,trong đó 29,6 nghìn y bác sĩ ,gấp 13,5
lần;42,4 nghìn y tá ,gấp 1,5 lần;4,9 nghìn dược sỹ cao cấp và trung
cấp gấp trên 12,2 lần ,và 7,6 nghìn dược tá ,gấp 4,0 lần.năm 1960
- bình quân 1 vạn dân mới có 1,4 y bác sĩ và 28 giường bệnh thì năm
1975 đã tăng lên thành 12,1 y bác sĩ và 45 giường bệnh.
• Nếu lấy năm 1955 làm gốc so sánh thì đến năm 1975 tổng
sản phẩm xã hội gấp 3,4 lần ,thu nhập quốc dân gấp 2,5 lần.Tốc
độ tăng bình quân mỗi năm của hai chỉ tiêu trên trong gia đoạn này
là 7% và 5%.Nếu so với năm 1960 thì tổng sản phẩm xã hội năm
1975 gấp trên 2,3 lần ;bình quân mỗi năm trong 15 năm (1961-1975)
tăng 5,85 ;thu nhập quốc dân gấp gần 1,9 lần bình quân mỗi năm
tăng 4,3%;giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng gấp 3,4 lần bình
quân mỗi năm tăng 4,4 lần. Đây những con số tương đối khiêm tốn
về tăng trưởng kinh tế
Đánh giá:
Khái quát lại ,trong giai đoạn 1955-1975 mặt dù thời gian chiến tranh
nhiều hơn thời gian hòa bình xây dựng.mặc dù trong đường lối và chính
sách kinh tế có những mặt chưa phù hợp nhưng nhìn chung công cuộc xây
dựng và phát triển miền Bắc vẫn được đẩy mạnh và đã thu được một số
kết quả quan trọng góp phần đáng kể vào thực hiện nhiệm vụ hàng đầu
trong giai đoạn này là chống Mỹ cứu nước,giải phóng miền Nam ,thống
nhất đất nước
2.2 Đất nước hoàn toàn giải phóng bước vào công cuộc xây dựng mới
Ngày 30-4-1975 Chính quyền Sài Gòn hạ vũ khí đầu hàng quân giải
phóng miền Nam, chấm dứt hơn hai mươi năm đất nước bị chia cắt. Sau
cái mốc lịch sử này, công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế trở thành
nhiệm vụ hàng đầu của đất nước Việt Nam thống nhất. Nhân dân Việt
Nam đứng trước cơ hội mới để xây dựng và phát triển kinh tế vì có thuận
lợi cơ bản là tiềm năng kinh tế của hai miền bổ sung cho nhau và quý báu
hơn là có hoà bình. Người Việt Nam đã có một thời tư duy trên những tiền
đề lạc quan đó. Nhưng qua hai kế hoạch 5 năm 1976- 1980 và 1981-1985
niềm lạc quan ban đầu đã dần dần biến mất vì đến cuối năm 1985 nền
kinh tế hoàn toàn rơi vào khủng hoảng và vòng xoáy của lạm phát. Nhưng
cũng chính trong giai đoạn này tư duy kinh tế mới đã nảy sinh trên tầm vĩ
mô và vi mô.
2.2.1: Kế hoạch 5 năm 1975- 1980.
Các chính sách xây dựng đất nước:
Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
- Các trận địa kinh tế quốc doanh và hợp tác xã đã được tăng cường và mở
rộng, hàng loạt cơ sở kinh tế quốc doanh được khởi công xây dựng.
Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp càng trở nên sôi động. Trong những
năm đầu kế hoạch, miền Bắc tiếp tục đẩy nhanh tốc độ sát nhập các hợp
tác xã nông nghiệp từ quy mô thôn thành quy mô toàn xã hội hoặc liên xã.
Cùng với việc mở rộng quy mô đã tiến hành tập thể hoá toàn bộ tư liệu
sản xuất. Cũng trong thời gian này, ở miền Nam ngoài việc thực hiện cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế tư nhân, cá thể trong công nghiệp,
thương nghiệp còn tiến hành xây dựng các hình thức hiệp tác lao động
trong nông nghiệp.
Giải quyết quan hệ sản xuất để mở đường đã tập trung đầu tư tài chính
để phát triển lực lướng sản xuất mà chủ yếu là việc xây dựng các cơ sở
kinh tế quốc doanh trước hết là công nghiệp nặng.
Trong kế hoạch 5 năm này đã dùng 1/3 tổng chi ngân sách để đầu tư xây
dựng cơ bản. tính chung 5 năm 1976- 1980 đã thực hiện được gần 79.3 tỉ
đồng đầu tư xây dựng cơ bản xấp xỉ tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản
của miền bắc 21 năm trước đây. trong tổng mức đầu tư trên ngành công
nghiệp 28.2 tỉ đồng chiếm 35.5 %. Ngành nông nghiệp chỉ được đầu tư
gần 16.9 tỷ đồng chiếm 21.3% tổng mức đầu tư và bằng 60% ngành công
nghiệp.
Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ bản nên cơ sở vật chất kĩ thuật. Trong 5
năm 1976- 1980 giá trị tài sản cố định mới tăng thêm 37.1 tỷ đồng trong đó
ngành công nghiệp 13.2 tỷ đồng, nông nghiệp 8.4 tỷ đồng, giao thông vận
tải 7.8 tỷ đồng. Do được tập trung vào xây dựng nên ngành công nghiệp
đã có thêm 714 xí nghiệp quốc doanh, trong đó có 415 xí nghiệp thuộc các
ngành công nghiệp nặng, nhờ vậy công suất của nhiều ngành tăng lên rõ
rệt:
công suất năm Công suất năm
STT Chỉ tiêu Đơn vị tính 1976 1980
1 Than triệu tấn 7,9 8,9
2 Thép nghìn tấn 150 210
Động cơ
3 điện nghìn cái 20.2 78.2
4 Apatit nghìn tấn 383.0 600.0
5 Xi măng nghìn tấn 900.0 1067.0
6 Giấy bìa nghìn tấn 85.8 114.2
7 Vải các loại triêu m 405.0 450.0
8 Đường mật nghìn tấn 139.3 537.3
- -Trong nông nghiệp đã phục hoá 50 vạn ha ruộng đất không canh tác
trong thời kì chiến tranh, khai hoang 70 vạn ha diện tích tưới tiêu tăng 86
vạn ha, diện tích trồng cây hàng năm tăng 2 triệu ha, diện tích trồng rừng
tăng 58 vạn ha. Ngoài ra nông nghiệp còn được trang bị thêm 18 nghìn
chiếc máy kéo đưa diện tích cày bừa bằng máy đạt 25% diện tích gieo
trồng. Ngành giao thông đã khôi phục và xây dưng mới tuyến đường sắt
bắc nam với chiều dài 1700km làm thêm 3800km đường ôtô xây dựng lại
những cầu đường bộ bị chiến tranh tàn phá và xây dưng mới một số cầu
đường bô khác với chiều dài tổng cộng 30 nghìn mét.
- Trong lĩnh vực phúc lợi xã hội chính phủ đã chi một khoản tiền lớn
để mở rộng các hoạt động y tế văn hoá giáo dục mà phần lớn dành cho
các tỉnh phía nam vì trước ngày giải phóng các dịch vụ này ỏ vùng nông
thôn và vùng núi xa xôi của miền nam không được chính quyền cũ quan
tâm.
Song giai đoạn nào của nền kinh tế cũng có những hạn chế.
Hạn chế:
Việc mở rộng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa đã không đem lại kết
quả như tính toán ban đầu. Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp được tăng
tốc và mở rông phạm vi nhưng chỉ đạt được về mặt hình thức, còn nội
dung bên trong của hợp tác xã nông nghiệp lại tiếp tục sa sút. ở miền bắc,
việc mở rộng quy mô hợp tác xã đã vượt quá khả năng lãnh đạo ban quản
trị. Mặt khác việc đưa hợp tác xã từ bậc thấp lên bậc cao đã tách đất đai
và tư liệu sản xuất khác khỏi sức lao động nên xã viên thờ ơ với công
việc chung. Trong các hợp tác xã bậc thấp trước đây xã viên còn được
hưởng tỉ lệ % về sở hữu ruộng đất, các tư liệu sản xuất khác là của
riêng từng gia đình xã viên, nhưng đến nay trong hợp tác xã bậc cao những
quyền lợi của xã viên không còn nữa.
Việc xây dựng kế hoạch kinh tế vẫn tập trung quan liêu, thiếu căn cứ
thực tế và khoa học, chưa kết hợp chặt chẽ kế hoạch với sử dụng thị
trường, chưa chú ý đầy đủ tăng cường và phát huy kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể và cũng chưa chú ý sử dụng đúng đắn các thành phằn kinh
tế cá thể và tư sản dân tộc ở miền nam.
Bài học rút ra trong giai đoạn này:
Sau những nỗ lực đầu tiên phát triển kinh tế của một nước Việt Nam
độc lập và thống nhất nhưng không thành đạt, đảng cộng sản Việt Nam
đã bắt đầu nhận thấy rằng không thể tiếp tục cách đi như cũ mà phải có
sự điều chỉnh nhất đình trong đường lối chính sách kinh tế của mình. Hội
nghị ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 6( khoá
IV) họp tháng 9/1979 đã đưa ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp
bách. nghị quyết đã chỉ ra những khuyết điểm về kế hoạch hoá, về xây
- dựng chính sách cụ thể, về biện pháp tổ chức và quản lí kinh tế, quản lí
xã hội. Nghị quyết đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất nông nghiêp,
lâm nghiệp, ngư ngiệp nhằm đảm bảo vững chắc lương thực và thưc
phẩm, đồng thời cung ứng nhiều nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm,
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu.
Hội nghị này và nghị quyết của hội nghị là bước chuyển biến đầu tiên có
ý nghĩa lớn đối với việc đưa nền kinh tế từng bước ra khỏi cơ chế quản
lý kế hoach hoá tập chung cao độ, mở đường cho những cải cách kinh tế
trong nhưng năm sau này.
Kế hoạch 5 năm 1976-1980 đặt ra các mục tiêu quá cao, vượt khỏi tầm
tay nên cuối cùng đã không thực hiên được. Từ đây xây dựng kế hoạch 5
năm 1981- 1985.
2.2.2:Xây dựng kế hoạch 5 năm 1981- 1985
Các chính sách xây dựng đất nước:
Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm 1981 – 1985 Nhiệm vụ cấp bách của
toàn Đảng, toàn dân Việt Nam được Đại hội lần thứ V của Đảng xác định
là phải phấn đấu để ổn định tình hình, tiến lên cải thiện một bước về đời
sống của nhân dân. Từ sau Đại hội tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội
vẫn tiếp tục diễn ra theo chiều hướng ngày càng nghiêm trọng và có mặt
rất gay gắt. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-
1982) đã xác định phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội và đặt mức
phấn đấu cụ thể từ năm 1983 đến năm 1985:
Tập trung giải quyết nhu cầu ăn và mặc;
Hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng một số công trình quan trọng;
Kiện toàn và nâng cao chất lượng của kinh tế quốc doanh;
Củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và thủ công
nghiệp;
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng; phải thiết lập
cho được trật tự trong lĩnh vực lưu thông phân phối, nhanh chóng ổn định
và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, trước hết là đời sống của công
nhân, cán bộ, các lực lượng vũ trang. Trước mắt cần nắm và tập trung
nguồn hàng, quản lý chặt chẽ tài chính, tiền tệ và giá cả;
Mở rộng mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý
thị trường...
Hội nghị này đã thể hiện một bước tiến mới trong nhận thức về lãnh đạo,
quản lý kinh tế của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cả nước quyết tâm phấn đấu tự trang trải nhu cầu về ăn của toàn xã hội,
cố gắng bảo đảm nhu cầu thiết yếu về mặc, học tập, chữa bệnh, về ở và
đi lại của nhân dân; phát triển hợp lý sự nghiệp giáo dục, văn hoá, khoa
học, kỹ thuật, y tế, xã hội. Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Miền
- Nam, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Củng cố
quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; đồng thời
làm tốt nghĩa vụ quốc tế.
Trong công tác quản lý và điều hành, cần thấu suốt và cụ thể hoá phương
châm "Trung ương và địa phương cùng làm", "Nhà nước và nhân dân cùng
làm", khai thác mọi khả năng của đất nước để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Thông qua các chỉ tiêu chủ yếu sau đây của Kế hoạch Nhà nước năm
1982:
- Tổng sản phẩm xã hội : Tăng 4% so với năm 1981;
- Thu nhập quốc dân : Tăng 5% so với năm 1981;
- Số học sinh phổ thông đầu năm học : 12.310 ngàn người;
- Số học sinh tuyển để đào tạo:
+ Đại học và cao đẳng : 35 ngàn người;
+ Trung học chuyên nghiệp : 47,2 ngàn người;
+ Công nhân kỹ thuật : 53,8 ngàn người;
- Tổng số giường bệnh : 199 ngàn giường.
v.v..
Các số liệu thống kê cho thấy sự quan tâm của Đảng và nhà nước đến
nhu cầu ăn ở sinh hoạt của nhân dân, đảm bảo người dân có cuộc sống
đầy đủ. Từ hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 8-
1979. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết số 20-NQ/TW Về tình hình và
nhiệm vụ cấp bách nêu ba nhiệm vụ phải thực hiện từ năm 1979 đến năm
1981 là đẩy mạnh sản xuất,ổn định và bảo đảm đời sống của nhân dân,
tăng cường quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược,
bảo vệ Tổ quốc; kiên trì đấu tranh khắc phục những mặt tiêu cực trong
hoạt động kinh tế - xã hội, nhất là các tệ nạn ăn cắp, hối lộ và ức hiếp
quần chúng; nhiệm vụ quan trọng nhất là động viên cao độ và tổ chức
toàn dân, toàn quân đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu
Đặc biệt đáng chú ý đến ở kế hoạch 5 năm 81-85 là việc ngày 13-1-1981,
Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW Về cải tiến công tác137 khoán, mở
rộng "khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động" trong hợp
tác xã nông nghiệp.
Bên cạnh đó là hàng loạt các Quyết định như Quyết định 25-CP (ngày 21-
1-1981) Về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ
động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp
quốc doanh. Quyết định chỉ rõ, ngoài những xí nghiệp có vị trí kinh tế
quan trọng được Nhà nước bảo đảm những phương tiện vật chất để hoạt
động ổn định, những xí nghiệp không được cung ứng đủ các điều kiện
- phải phát huy tính chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tìm việc làm
và bảo đảm đời sống cho công nhân, viên chức bằng cách tìm vật tư thay
thế, chuyển hướng sản xuất, nhận làm gia công cho các đơn vị kinh tế
khác. Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định 26-CP (ngày 21-1-1981) Về
mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình
thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước
nhằm thúc đẩy người lao động hăng hái sản xuất, tăng năng suất lao
động, tăng thu nhập. Các chỉ thị và
Quyết định này của Quốc hội một mặt nhằm chăm lo đến công bằng xã
hội, đời sống nông dân một mặt làm tăng năng suất trong săn xuất.
Hạn chế:
Đây là giai đoạn củng cố xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội kế hoạch
5 năm theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Thành tựu nổi bật ở giai đoạn này là tập trung khắc phục hậu quả chiến
tranh, cùng với các địa phương ở miền Nam, tiến hành cải tạo và xây
dựng quy hoạch sản xuất xã hội chủ nghĩa: Đã khai khẩn, mở rộng được
phần lớn diện tích đất đai hoang hóa đưa vào sản xuất nông nghiệp nhằm
giải quyết vấn đề lương thực, phục vụ đời sống dân cư. Nhiều cơ sở sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ đã được
khôi phục và xây dựng mới. Giải quyết được nhiều vấn đề về mặt xã hội
như: giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng, chăm lo các đối tượng chính
sách ... Đặc biệt là cơ bản khắc phục nhanh các tệ nạn xã hội (ma túy,
trộm cướp ...). Bảo đảm kinh tế tăng trưởng liên tục qua các năm: Đến
năm 1985, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt được gấp 2 lần so năm
1976 (bình quân năm tăng 8%) và GDP bình quân đầu người gấp 1,4 lần
so năm 1976. Thu nhập bình quân đầu người là 355 USD/người/năm 1985
Song hạn chế lớn là do chủ quan, nóng vội trong cải tạo, xây dựng quan
hệ sản xuất mới ... quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cùng với cơ chế
tập trung bao cấp với cơ cấu kinh tế đơn sở hữu (chỉ duy trì hình thức
kinh tế quốc doanh và tập thể) nên tình hình kinh tế phát triển chậm và có
xu hướng giảm thấp (GDP thời kỳ 1981 - 1985 giảm gần 4% so thời kỳ
1976 - 1980). Hậu quả là: Triệt tiêu động lực người lao động. Tình hình
kinh tế kém năng động, trì trệ, không đáp ứng yêu cầu phong phú, đa
dạng, nhanh nhạy với sản xuất và đời sống; không kích thích tích tụ, tập
trung sản xuất và lãnh phí lớn về sức người, sức của; không tranh thủ, tận
dụng được sức mạnh bên ngoài do cơ cấu kinh tế và cơ chế tập trung bao
cấp đã tự cô lập, cách ly mình với nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ đang mở
rộng trên thế giới.
Kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển.
- Chế độ bao cấp để lại hậu quả nặng nề nghiêm trọng, đất nước kém
phát triển, tụt hậu hàng chục, hàng trăm năm so với nước ngoài. Nhân dân
đói khổ, thiếu thốn. Khi xã hội còn nghèo thì tem phiếu có thể là một giải
pháp. Nhưng nó sẽ trở thành rào cản sự phát triển xã hội.Đời sống của
nhân dân và cán bộ đều lệ thuộc vào "chế độ tem phiếu".Các loại hàng
hóa cung cấp cho đời sống bình thường của con người
như:gạo,đường,muối,thịt,cá..đều phải có tem phiếu.Nhìn chung tiêu
chuẩn của người dân thương là thấp nhất.Trẻ em ăn uống theo tiêu chuẩn
thấp nên suy dinh dưỡng là tất nhiên.Tem phiếu đã trở thành hàng hóa.Nó
có mặt ở chợ đen và các cán bộ ngành lương thực các cấp từ huyện tới
trung ương đã kiêm luôn những kẻ buôn lậu tem phiếu.Nề kinh tế tem
phiếu dã làm cho cuộc sống của người dân khốn khổ hơn.Họ phải xếp
hàng chờ đợi,phải chịu làm kẻ thấp hèn năn nỉ ,xin xỏ các ông các bà bán
hàng may ra mới mua được gạo tốt,thực phẩm tươi.Cho nên ,chế độ tem
phiếu đã nâng cao giá trị người bán hàng và hạ thấp giá trị người mua
hàng là một thay đổi lớn trong quan hệ giữa người bán và người mua.
Nếu tính chung từ năm 1976 đến năm 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng
50%, tức là bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1976 - 1985 chỉ tăng 4,6%.
Đã thế, sản xuất kinh doanh lại kém hiệu quả nên chi phí vật chất cao và
không ngừng tăng lên. Năm 1980 chi phí vật chất chiếm 44,1%. Do vậy
thu nhập quốc dân qua hai kế hoạch 5 năm tăng 38,8%, bình quân mỗi
năm tăng 3,7%.
Làm không đủ ăn và dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn.
Năm 1985, dân số cả nước gần 59,9 triệu người, tăng 25,7%so với năm
1975. như vậy trong 10 năm 1975 -1985 bình quân mỗi năm dân số tăng
2,3%. Để đảm bảo đủ việc làm và thu nhập của dân cư không giảm thì ít
nhất nền kinh tế phải tăng 7% mỗi năm. Nhưng trên thực tế nền kinh tế
không đạt mức tăng đó nên sản xuất trong nước luôn không đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng tối thiểu. Trong khi nền kinh tế chậm phát triển thì bóng ma
lạm phát lại bao trùm trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.Giá cả lạm
phát vụt lớn nhanh ,hoành tránh trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã
hội.Giá cả không chỉ tăng cao ở thị trường tự do mà còn tăng rất nhanh
trong thị trường có tổ chức.Về cơ bản giá cả đã tuột khỏi bàn tay bao cấp
trai sạn và thô cứng của nhà nước.Siêu lạm phát đạt đỉnh cao vào năm
1986 với tốc độ tăng giá cả cả năm lên tới 774,4% khiến cho cuộc sống
của nhân dân vô cùng khốn khổ.
Thu nhập quốc dân sản xuất trong nước chỉ bằng 80 - 90% thu nhập quốc
dân sử dụng. Tích lũy tuy nhỏ bé, nhưng toàn bộ tích lũy và một phần quỹ
- tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài. Trong những năm 1976 - 1986,
thu vay nợ và viện trợ nước ngoài bằng 38,2% tổng thu ngân sách và bằng
61,9% tổng số thu trong nước. Nếu so với tổng số chi ngân sách thì bằng
37,3%. Ba chỉ tiêu tương ứng của thời kì 1981 - 1885 lần lượt là 22,4%,
28,9%, và 18,6%. Tính đến năm 1985 nợ nước ngoài đã lên tới 8,5 tỉ rúp và
1,9 tỉ USD. Tuy nguôn từ nước ngoài lớn như vậy nhưng ngân sách vẫn
trong tình trạng thâm hụt và phải bù đắp bằng phát hành. Bộ chi ngân sách
1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6%. Các nguồn vay viện trợ từ nước
ngoài này phần lớn được chi cho các nhu cầu sinh hoạt của người dân,
chứ không nhằm mục đích đầu tư cơ sở hạ tầng để hoạt động kinh tế.
Điều đó cho thấy chủ trương của Đảng và nhà nước là ưu tiên giải quyết
các vấn đề xã hội hơn là việc tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, sự non yếu của nền kinh tế lúc xuất phát và hậu quả chiến
tranh không phải là nguyên nhân quyết định đưa nền kinh tế quốc dân
khủng hoảng mà là do duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung cao độ, cấp phát hiện vật. Đặc trưng của mô hình kinh tế ấy chứa
đựng một cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, phát triển kinh tế quốc doanh tràn
lan, đẩy mạnh công nghiệp nặng, ham qui mô lớn, kỳ thị sản xuất nhỏ và
phủ định các qui luật thị trường. Để duy trì cơ cấu kinh tế ấy, đã phải vay
nợ, bao cấp, sử dụng cơ chế cấp phát ở đầu vào và giao nộp đầu ra. Một
nền kinh tế như thế, khủng hoảng là không thể tránh khỏi. Trong giai
đoạn này tuy đã tiến hành một số giải pháp đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế vĩ mô nhưng nhìn chung chỉ mới là các liều thuốc giảm sốt chứ chưa
phải là phác đồ chữa trị căn bệnh siêu lạm phát và khủng hoảng kinh tế.
+)Đánh giá nền kinh tế 10 năm kể từ khi đất nước độc lập:
Trước 75 Nam VN đứng đầu ĐNA về kinh tế. Sau 75+ cấm vận gần 20
năm, Nam VN và VN nói chung trở thành nước kém phát triển,lý do vì
sao?
- VN tuy đã trải qua nhiều cuộc cải tạo XHCN mạnh tay nhưng nền kinh
tế tự do như chợ búa, quán xá, các cơ sở sản xuất tư nhân, hệ thống tư
thương xưa gọi là phe phẩy vẫn luôn tồn tại bên cạnh nền kinh tế quốc
doanh. Nó được ví như cái bướu lạc đà. Tuy nó “chia bớt” nguồn dinh
dưỡng từ cơ thể kinh tế XHCN để tồn tại nhưng khi quốc doanh gặp khó
khăn như thiếu hàng hóa, đói nguyên liệu, không mua không bán được...
thì cái bướu đó lại nuôi sống cơ thể xã hội. Đây cũng là lý do góp phần
giải thích tại sao khi mô hình kinh tế cổ điển khủng hoảng thì toàn bộ
nền kinh tế và đời sống xã hội ở các nước Đông Âu bị khủng hoảng trầm
trọng, còn ở Việt Nam thì nhẹ nhàng hơn.
- Vấn đề cải tạo XHCN ồ ạt đã “lỡ” làm triệt để và toàn diện. Xóa bỏ tư
hữu đã biến mọi thứ thành của chung tưởng rằng công bằng nhưng không
nguon tai.lieu . vn