Xem mẫu
- 1. Những quan điểm khác nhau về lạm phát
Quá trình hình thành các khái niệm và nhận thức bản chất kinh tế của
lạm phát cũng là quá trình phát triển của tư duy đi từ đơn giản đến phức tạp,
đi từ hiện tượng bề ngoài đến bản chất bên trong, đến các thuộc tính của lạm
phát, là quá tình sàng lọc những hiểu biết sai và đúng, lẫn lộn giữa hiện
tượng và bản chất, giữa nguyên nhân và kết quả để phản ánh đúng đắn bản
chất của tính quy luật của lạm phát.
Theo trường phái lạm phát "lưu thông tiền tệ" (đại diện là Miltơn
Priedman) họ cho rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa (bất kể là kim
loại hay tiền giấy) và lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên. Chúng ta
đều biết rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông
với nhịp điệu nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước
không giảm bớt nội dung vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để
bù đắp cho bội chi ngân sách. K.Mazx đã chỉ ra rằng ý nghĩ về lạm phát của
học thuyết này là quá đơn giản. Những người theo học thuyết này đã dùng
logic hình thức để kết hợp một cách máy móc hiện tượng tăng số lượng tiền
với hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát.
Trường phái lạm phát "cần dư thừa tổng quát" (hay “cầu kéo") mà đại
diện là J.Keynes cho rằng. Lạm phát là "cầu dư thừa tổng quát cho phát
hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng dẫn đến mức giá
chung tăng. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là "cầu dư thừa tổng
quát" là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ CNTB
phát triển mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn
ở Việt Nam trong năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm
phát giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy Keynes đã tiến sâu hơn trường phái lạm
phát lưu thông tiền tệ là không lấy hiện tượng bề ngoài, không coi điều kiện
của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát nhưng lại mắc sai lầm về mặt
logíc là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của lạm phát. Khái niệm
của Keynes vẫn chưa nên được đúng bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát.
2
- Trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá. Thực
chất lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những
thời kỳ giá mà không có lạm phát như: thời kỳ "cách mạng giá cả" ở thế kỷ
XVI ở châu Âu, thời kỳ hưng thịnh của một chu kỳ sản xuất, những năm
mất mùa... tăng giá chỉ là hệ quả là một tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng
có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra là
do tăng nhiều cái chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá. Vì vậy quan
điểm của trường phái này đã lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho
người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát.
K.Marx đã cho rằng "lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu
thông những tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân
phối lại sản phẩm xã hội giữa các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư
sản. Ở đây Marx đã đứng trên góc độ giai cấp để nhìn nhận lạm phát, dẫn tới
người ta có thể hiểu lạm phát là do nhà nước do giai cấp tư bản, để bóc lột
một lần nữa giai cấp vô sản. Quan điểm này có thể xếp vào quan điểm lạm
phát "lưu thông tiền tệ" song định nghĩa này hoàn hảo hơn vì nó đề cấp tới
bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát. Tuy nhiên nó có nhược điểm là cho
rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và
chưa nêu được ảnh hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc tế.
Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói
chung các quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt
của hai thuộc tính cơ bản của lạm phát. Bàn lạm phát là vấn đề rộng và để
định nghĩa được nó đòi hỏi phải có sự đầu tư sâu và kỹ càng. Chính vì thế
bản thân cũng chỉ mạnh dạn nêu ra các quan điểm và suy nghĩ của mình về
lạm phát một cách đơn giản chứ không đầy đủ bốn yếu tố chủ yếu "bản chất,
nguyên nhân các hậu quả KTXH và hình thức biểu hiện".
- Chúng ta có thể dễ chấp nhận quan điểm của trường phái giá cả, (ở
nước ta và nhiều nước quan niệm này tương đối phổ biến). Sở dĩ như vậy là
vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát, lạm phát hầu như diễn ra ở tuyệt đại bộ
phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén, dễ thấy của lạm phát.
Như vậy chúng ta sẽ hiểu đơn giản là "lạm phát là sự tăng giá kéo dài, là sự
thừa các đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền
nhằm bù đắp bội chi ngân sách". Hay lạm phát là chính sách đặc biệt nhanh
chóng và tối đa nhất trong các hình thức phân phối lại giá trị vật chất xã hội
mà giai cấp cầm quyền sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Nhưng nói
chung lạm phát là một hiện tượng của các nền kinh tế thị trường. Định nghĩa
3
- lạm phát còn rất nhiều vấn đề để chúng ta có thể nghiên cứu một cách sâu
sắc. Nhưng khi xảy ra lạm phát (vừa phải, phi mã, hay siêu lạm phát) thì tác
động của nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội.
2) PHÂN LOẠI LẠM PHÁT :
Có nhiều cách đẻ phân loại lạm phát .Dựa trên các tiêu thức khác
nhau sẽ có các loại lạm phát khác nhau .
a) Căn cứ vào định lượng gồm:
- Lạm phát vừa phải :Còn gọi là lạm phát một con số ,có tỷ lệ lạm
phát dưới 10% một năm .Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương
đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường ,đời sống
của người lao động ổn định .Sự ổn định đó được biểu hiện : Giá cả tăng
3
- chậm ,lãi xuất tiền gửi không cao ,không xảy ra tình trạng mua bán và tích
trữ hàng hoá với số lượng lớn …
Có thể nói đây là mứclạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được ,những
tác động của nó là không đáng kể .Mặt khác ,lạm phát vừa phải tạo tâm lý
an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập .Trong thời gian này
,các hãng kinh doanh có khoản thu ổn định ,ít rủi ro và sẵn sàng đầu tư cho
sản xuất kinh doanh .
- Lạm phát phi mã : lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh
với tỷ lệ 2 con số 1 năm . Ở mức 2 con số thấp :11,12% thì nói chung các
tác động tiêu cực không đán kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được.
Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng
lên nhanh chóng ,gây biến động lớn về kinh tế ,các hợp đồng được chỉ số
hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá ,vàng bạc ,bất động sản và không
bao giờ cho vay tiền ở mức lãi xuất bình thường .Như vậy lạm phát sẽ làm
ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó
không nhỏ .Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn
định của nền kinh tế
- Siêu lạm phát : 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng
lên với tốc độ rất nhanh ,tỷ lệ lạm phát cao .Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát
vượt xa lạm phát phi mã ,nó như một căn bệnh chết người ,tốc độ lưu thông
tiền tệ tăng kinh khủng ,giá cả tăng nhanh và không ổn định ,tiền luơng thục
tế của người lao động bị giảm mạnh ,tiền tệ mất giá nhanh chóng ,thông tin
không còn chính xác ,các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất
khin doanh lâm vào tình trạng rối loạn ,mất phương hướng .Tóm lại ,siêu
lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng
.Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra .
b) Căn cứ vào định tính :
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng .
4
- * Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của
người lao động ,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của
người lao động và dến nền kinh tế nói chung.
* Lạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của
người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra .
-Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
* Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong
một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát
này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt
tâm lý ,người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị
trước.Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế .
* Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất
hiện .Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ
chưa kịp thích nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với
nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút
Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang
phát triển thường diễn ra trong thời gian dài ,vì vậy hậu quả của nó phức tạp
và trầm trọng hơn .Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ
khác nhau : lạm phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới
50% một năm ,lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ
lạm phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát
trên 200% một năm .
4. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT :
a) Lạm phát do cầu kéo :
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân
chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc
tăng không kịp.
Việc tăng cung ứng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tăng
cầu về hàng hoá và dịch vụ. Nhưng đây không phải là nguyên nhân duy nhất
7
- làm tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau từ 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng
hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử
dung máy móc với công suất giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp
ứng được sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối sẽ được giá cả lấp đầy từ đó
mà lạm phát do cầu tăng lên (lạm phát do cầu kém xuất hiện. Chẳng hạn như
ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát
trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát
tăng
AS3
(Tổng mức giá)
P AS 2
P 3
3
2' AS 1
P 2
2
AD 3
P1 1 AD 2
AD1 Y
0
YnYt (Tổng sản phẩm)
Lúc đầu nền kinh tế đạt ở mức cân bằng tại điểm 1 .Khi các nhà hoạch
định chính sách muốn có một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên , họ sẽ đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn
hơn mức sản lượng tiềm năng (Yt > Yn).Từ đó sẽ làm tăng tổng cầu và
đường tổng cầu sẽ dịch chuyển đến AD2 nền kinh tế chuyển đến điểm 1’
.Lúc này sản lượng đã đạt tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng và mục
tiêu của các nhà hoạch định chính sách đã thực hiện được .
Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp thực tế thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
nên tiền lương tăng và đường tổng cung sẽ di chuyển đến AS2 ,đưa nền kinh
tế từ điểm 1’ sang 2’ .Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 > P1 .Lúc này tỷ lệ
thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu ban đầu .Do đó các nhà hoạch định chính
8
- sách lại tìm cách làm tăng tổng cầu .Quá trình này cứ tiếp diễn và đẩy giá cả
trong nền kinh tế lên cao hơn .
b) Lạm phát do chi phí đẩy :
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phat sinh từ phía cung ,do chi
phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng .Điều này chỉ có
thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả
với giá cao hơn .Ví dụ : Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi
phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng xuất lao
động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên .Nếu nhà sản xuất có thể chuyển
việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên ,công nhân
và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước đẻ phù hợp với chi phí
sinh hoạt taưng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá .
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá
tăng hợac khả năng khả thác hạn chế.Một ví dụ điển hình cho thấy giá cả
nguyên nhiên vật liệu là giá dầu thô tăng .Trong năm 1972-1974 hầu như
giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình
quân trên qoàn thế giới .Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm
phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy .
Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội
địa cũng là một yếu tố gaay lên lạm phát .Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi
đồng nội tệ yếu đi hợac mất giá so với đồng tiền khác
c) Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ ,khi cung
tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát
.Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng
.Khi nền kinh tế chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều
,chưa khai thác nhiều .Có nhiều nhà máy xí nghiệp bị đóng cửa chưa đi vào
hoạt động .Do đó nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao … Trong
trường hợp này ,khi tăng cung tiền thì dẫn đến lãi xuất giảm đến một mức độ
9
- nào đó ,các nhà đầu tư thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều.từ đó các
nhà máy ,xí nghiệp mở cửa để sản xuất ,kinh doanh .Lúc này nguyên nhiên
vật liệu bắt đầu được khai thác ,người lao động có việc làm và sản lượng
tăng lên .
Ở nền kinh tế toàn dụng ,các nhà máy ,xí nghiệp được hoạt động hết
công suất ,nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa .Khi đó lực
lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất
nhiều.Tuy nhiên tình hình sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu
thông .Chẳng hạn khi các nhà máy ,xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn
đến thiếu năng lượng ,thiếu lao động ,nguyên vật liệu dần bị han hiếm
…Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu
thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó .Nếu không sẽ gây ra lạm
phát.Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu
sẽ xảy ra .
Trong việc chống lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn giảm sút
việc cung tiền .
Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách :
Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều
kiện kinh doanh tốt ) hợac các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng
.Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí
.Về mặt trung và dài hạn ,điều đó dẫn đến cầu và hàng hoá và dịch vụ tăng
.Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ được bù đắp
bằng việc tăng giá.Tuy nhiên giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng
sau đó 2-3 năm .In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm
phát nghiêm trọng .Ví dụ năm 1966-1967 ,chính phủ Mỹ đã sử dụng việc
tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh taị Việt
Nam ,lạm phát tăng từ 3%(năm 1967) đến 6% (năm 1970).
Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân
bằng ,nghĩa là (i) và (Y) ổn định .Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P
10
- cũng không đổi .Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ
tăng lên với tỷ lệ tương ứng .Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ .Đây
cũng chính là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên
nhân này.
d) Các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên ,một số các nguyên
nhân khác cũng gây ra lạm phát .Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư
.Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước ,họ sẽ không
giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư
vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp
không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn
nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao ,từ đó lạm phát sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả
tăng lên làm tiêu dùng tăng ,cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.Thứ hai
thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng
tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc
phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ đẻe vay vốn từ người dân
nhằm bù đắp phần thiếu hụt .Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số
tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát
.Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng
biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm
tăng mức cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm
phát .TUy nhiên,đối với các nước đang phát triển ,việc phát hành trái phiếu
chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế
.Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi thâm hụt ngân
sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát
càng lớn.
Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát
hành trái phiếu có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về
11
- vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị
trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế
mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát.
Tóm lại , nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường
hợp vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái .Khi tỷ
giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong
nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái .Mặt
khac khi tỷ giá hối đoái tăng ,chi phí cho các nguyên vật liệu ,hàng hoá nhập
khẩu sẽ tăng lên .Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao.Đây chính
là lạm phát do chi phí đẩy
Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước
,chính sách thuế ,chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý ,mất cân đối cũng
xảy ra lạm phát.
nguon tai.lieu . vn