Xem mẫu
- Luật Giao Dịch Điện Tử: Bao giờ hiện thực?
Nguồn: Chungta.com
Tại kỳ họp thứ 8 Quốc Hội khóa XI (tháng 11/2005), dự thảo Luật Giao Dịch Điện
Tử (GDĐT) chỉ lấy được 2 ý kiến đóng góp của các đại biểu. Có ý kiến cho rằng
dự luật này mang tính chuyên môn và như thế sẽ khó đi vào cuộc sống. TS. Mai
Anh, ủy viên Ủy Ban Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường Quốc Hội, thành viên
ban soạn thảo, tổ trưởng tổ biên tập luật GDĐT giải thích:
Dự thảo Luật GDĐT đã được trình 1 lần trong kỳ họp thứ 7 Quốc Hội (QH) khóa
XI (tháng 5/2005), được nhiều đại biểu (ĐB) góp ý kiến. Sau đó đã chỉnh lý, sửa
đổi, tiếp tục lấy ý kiến trong 2 cuộc hội thảo với các cơ quan thẩm tra, các cơ quan
pháp luật, rồi lại trình tại hội nghị chuyên trách, là hội nghị chuẩn bị cho kỳ họp
QH thứ 8. Hội nghị chuyên trách đóng góp ý kiến một lần nữa, rồi lại chỉnh sửa.
Như vậy dự thảo Luật này đã nhận được rất nhiều ý kiến góp ý. Đặc biệt, trong kỳ
họp 7 có hẳn một chuyên đề giới thiệu về CNTT và các vấn đề pháp lý có liên
quan đến toàn bộ các ĐB QH. Sau đó trong hội nghị chuyên trách lại giới thiệu
ngắn trong vòng 20 phút về chữ ký điện tử (CKĐT) và quy luật vận hành của nó.
Không có một luật nào được "ưu tiên" như vậy nên các ý kiến không còn nhiều
nữa. Đến kỳ họp này chỉ còn 2 ý kiến.
Tuy nhiên, cũng không thể nói dự luật đã hoàn chỉnh. Chúng tôi cũng thấy có thể
vì đây là một luật mang tính chuyên sâu nên nhiều ĐB không quan tâm nghiên cứu
kỹ và đóng góp ý kiến như đối với các dự luật khác.
Thưa ông, các ý kiến tại kỳ họp lần này có gì đáng chú ý và ban soạn thảo đã tiếp
thu như thế nào?
- ĐB Đỗ Trung Tá, bộ trưởng Bộ BCVT đề nghị đẩy mạnh việc ứng dụng GDĐT
trong các cơ quan nhà nước, yêu cầu các cơ quan nhà nước nếu có đủ điều kiện về
kinh tế và nguồn nhân lực thì bắt buộc phải triển khai ứng dụng GDĐT. Đây là
một ý kiến rất tốt, được tiếp thu, nhưng có lẽ chỉ tiếp thu ở mức độ thôi. Vì trong
Khoản 3 (cũ) Điều 40 của dự thảo cũng có quy định: Tùy vào điều kiện kinh tế xã
hội mà các cơ quan nhà nước có lộ trình cụ thể để triển khai ứng dụng GDĐT
trong hoạt động của mình. Như vậy là cũng có nói đến lộ trình rồi, tuy không nói
bắt buộc. Nếu nói có đầy đủ điều kiện kinh tế và nguồn nhân lực thì thế nào là đầy
đủ? Nếu đưa vào như thế sợ không khả thi.
Để tiếp thu ý kiến của ĐB Đỗ Trung Tá, kết hợp với khoản 3 đã có sẵn, ban soạn
thảo dự định thêm vào một khoản nữa, viết rằng, nếu các cơ quan nhà nước có đầy
đủ điều kiện về kinh tế và nguồn nhân lực, thì có quyền chủ động triển khai ứng
dụng GDĐT trong hoạt động của mình.
Ý kiến thứ 2 là của ĐB Ngô Anh Dũng, phó chủ nhiệm Ủy Ban Pháp Luật của
QH, muốn ban soạn thảo trình diễn về GDĐT để các ĐB hiểu kỹ hơn và vững tâm
hơn khi bấm nút thông qua vào ngày 19/11/2005. Đây là một yêu cầu rất chính
đáng. Mặc dù thời gian đến ngày dự định bấm nút rất ngắn (chỉ khoảng 2 tuần)
nhưng ngay hôm đó thường trực Ủy Ban Khoa Học, Công Nghệ và Môi Trường
của Quốc Hội đã quyết định làm một bộ phim khoảng 40-45 phút và hôm sau đã
có kịch bản. Phim được chia làm 3 đoạn chính. Đoạn 1 nêu xu hướng ứng dụng
CNTT trên thế giới, quá trình phát sinh loại hình GDĐT. Đoạn 2 giới thiệu những
GDĐT được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày ở Việt Nam đồng thời trả lời câu
hỏi Luật GDĐT giải quyết vấn đề gì. Đoạn thứ 3 cho biết thông điệp dữ liệu là gì,
CKĐT là thế nào và vận hành ra sao.
Ông có nhận xét gì về khả năng đi vào cuộc sống của Luật? Chúng ta đã có sự
chuẩn bị nào về CKĐT và chứng thực CKĐT?
- Theo Luật Ban Hành Các Văn Bản Quy Phạm Pháp
Luật, khi trình luật phải trình luôn các văn bản hướng
dẫn thi hành. Ngay trong phiên trình dự luật GDĐT
ngày 5/11, có 4 nghị định (NĐ) hướng dẫn thi hành
cũng được trình luôn. Đó là các NĐ về chữ ký số và
chứng thực chữ ký số, GDĐT trong lĩnh vực ngân TS. Mai Anh, ủy viên Ủy
hàng, GDĐT trong lĩnh vực tài chính, NĐ về thương Ban Khoa Học Công
mại điện tử (TMĐT). Trong số đó, có thể thấy NĐ về Nghệ và Môi Trường
GDĐT trong lĩnh vực ngân hàng sẽ được ban hành rất Quốc Hội, thành viên ban
sớm. Ngành ngân hàng đã thực hiện thanh toán điện tử soạn thảo, tổ trưởng tổ
trong ngành dựa trên Quyết Định 44 của Thủ Tướng biên tập luật GDĐT.
Chính Phủ, nay nhân có luật này mà mở rộng thì sẽ rất
nhanh. GDĐT trong lĩnh vực tài chính cũng sẽ được tiến hành rất nhanh, vì nội
dung của NĐ ấy liên quan đến kế toán điện tử, hải quan điện tử, thuế điện tử, đều
là những vấn đề Bộ Tài Chính đã triển khai rồi. NĐ về TMĐT cũng sẽ được triển
khai nhanh vì Bộ Thương Mại đã chuẩn bị cho TMĐT trong nhiều năm.
Riêng NĐ về chữ ký số và xác thực chữ ký số (CA) thì phải mất một thời gian mới
đi vào đời sống được. Nhưng trong thực tế, chữ ký số hay CKĐT nói chung cũng
không phải là mới đối với Việt Nam mà đã hình thành trong một vài năm qua. Ví
dụ, công ty VASC đã công bố cung cấp dịch vụ chữ ký số và chứng thực chữ ký
số. Ngành ngân hàng kể từ khi có Quyết Định 44 cũng đã sử dụng CKĐT và
chứng thực CKĐT. Trong nước cũng có một vài công ty nữa đã cung cấp dịch vụ
CKĐT. Như vậy, CKĐT và chứng thực CKĐT đã có tiền đề về công nghệ và kinh
nghiệm thực tiễn của một số ngành. Tất nhiên để hình thành một hệ thống quốc gia
tương thích với chuẩn quốc tế và hệ thống CA chuyên dùng của các bộ ngành và
CA công thì còn phải có thời gian thực tiễn. Nhưng thời gian đó sẽ không quá dài.
Ông giải thích thế nào khi một số người lo ngại Luật GDĐT có những điểm trùng
- với dự thảo Luật CNTT và dự thảo Luật Sở Hữu Trí Tuệ?
Trước đây dự thảo Luật GDĐT có một chương về sở hữu trí tuệ trong GDĐT, sau
đó đã bỏ đi. Còn dự thảo luật CNTT thì có nhiều chương, điều có tên gần giống
nhau. Chẳng hạn dự thảo Luật GDĐT có một chương về GDĐT trong các cơ quan
nhà nước. Trong khi đó dự thảo Luật CNTT lại có chương nói về ứng dụng CNTT
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hoặc trong Luật GDĐT có chương về
hợp đồng điện tử, còn bên kia có chương ứng dụng CNTT trong hoạt động thương
mại. Nghe thoáng thì có vẻ trùng nhau, nhưng không trùng vì tinh thần chính của
Luật GDĐT là công nhận giá trị pháp lý của các ứng dụng CNTT trong các hoạt
động kinh tế xã hội thể hiện bởi thông điệp dữ liệu và CKĐT. Còn tinh thần chính
của Luật CNTT là quy định các quy trình ứng dụng và dỡ bỏ những rào cản, tạo
khung pháp lý để đẩy mạnh ứng dụng CNTT hơn nữa (tính pháp lý của các ứng
dụng đó đã được bảo đảm bằng Luật GDĐT rồi).
nguon tai.lieu . vn