Xem mẫu
- Liên Hiệp Quốc
Liên Hiệp Quốc (tên gọi xuất xứ từ tiếng Hán 聯合國/联合国), viết tắt là
LHQ,mục đích của tổ chức này là duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới, phát triển
các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước
trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc.
Từ trụ sở trong lãnh phận quốc tế tại thành phố New York, Liên Hiệp Quốc và
các cơ quan chuyên môn của nó quyết định các vấn đề về điều hành và luật lệ.Theo
hiến chương LHQ thì tổ chức này gồm 6 cơ quan chính, chủ yếu gồm: Đại hội đồng,
- Hội đồng Bảo An, Hội đồng kinh tế và xã hội, Ban thư kí, Tòa án Quốc tế vì Công
lý,Hội đồng Quản thác. Ngoài ra, một số tổ chức tiến hành quản lý các cơ quan của Hệ
thống Liên Hiệp Quốc, ví dụ như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng
Liên Hiệp Quốc (UNICEF).
Nhân vật đại diện tiêu biểu nhất của Liên Hiệp Quốc là Tổng thư kí, đương
nhiệm là Ban Ki-moon, người Hàn Quốc.
Liên Hiệp Quốc được tài trợ bằng các khoản đóng góp tự nguyện và có kiểm
soát từ các nước thành viên.
Hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 192 thành viên, bao gồm phần lớn các quốc gia
có chủ quyền trên Trái Đất. Liên Hiệp Quốc sử dụng 6 ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả
Rập, tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha.
Lịch sử hình thành
Trụ sở Liên Hiệp Quốc trong lãnh phận quốc tế tại Manhattan, Thành phố New
York...
Tiền thân của Liên Hiệp Quốc là Hội Quốc Liên (League of Nations), vốn là
một sáng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson sau chiến tranh thế giới thứ
nhất. Hoa Kỳ tuy sáng lập nhưng lại không chính thức làm hội viên, hơn thế quy chế
hoạt động của hội lại lỏng lẻo, các cường quốc như Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc
Ireland, Pháp, Nga, Đức, Ý, Nhật Bản tham gia vốn chỉ để tranh giành ảnh hưởng cho
mình. Dù hội đạt được một số thành tựu đáng kể trong công cuộc giải phóng phụ nữ
cũng như những hoạt động nhân đạo nhưng chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và
buộc Hội quốc liên phải giải tán.
Sau Thế chiến thứ hai, các nước Khối Đồng Minh và nhân dân thế giới có
nguyện vọng giữ gìn hòa bình và ngăn chặn các cuộc chiến tranh thế giới mới. Tại Hội
nghị Yalta, nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh đã thống nhất thành lập tổ chức
- quốc tế để giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới. Trên cơ sở Hội nghị Durbarton Oaks ở
Washington, D.C., từ 25 tháng 4 đến 26 tháng 6 năm 1945, đại diện của 50 quốc gia đã
họp tại San Francisco, California, Hoa Kỳ để thông qua Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Ngày 24 tháng 10 năm 1945, Liên Hiệp Quốc chính thức được thành lập. Tuy vậy, Đại
Hội đồng Liên Hiệp Quốc (General Assembly) đầu tiên, tham dự bởi 51 nước, không
được tổ chức cho mãi đến ngày 10 tháng 1 năm 1946 (tại Nhà họp chính Westminster
ở Luân Đôn).
"Một sự nghiệp vĩ đại để tạ ơn Đức Chúa toàn năng..." Tổng thống Mỹ Harry S.
Truman đã nói như vậy về thành tựu của hội nghị tại San Francisco, một hội nghị đã
góp phần vào việc soạn thảo bản Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945. Câu nói của
tổng thống Truman đã đại diện cho hàng triệu người, những người tin rằng tổ chức
mới này sẽ làm cho những cuộc chiến tranh thế giới lùi sâu vào dĩ vãng. Lời tựa của
bản Hiến chương đã nêu rõ mục đích của tổ chức này: "Chúng tôi, những dân tộc của
Liên Hợp Quốc, quyết tâm cứu những thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh...".
Thành viên
Danh sách các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc
Danh sách dưới đây liệt kê các quốc gia tham gia vào Liên Hiệp Quốc cùng với
thời gian gia nhập. Những quốc gia tô xanh là những quốc gia đồng sáng lập ra Liên
Hiệp Quốc.
Thời gian tham
Quốc gia Xem thêm
gia
27 tháng 9 năm
Đông Timor
2002
- Úc 01/11/1945
Áo 14/12/1955
25 tháng 8 năm
Zimbabwe
1980
1 tháng 12 năm
Zambia
1964
30 tháng 9 năm
Yemen Bắc Yemen và Nam Yemen
1947
20 tháng 9 năm
Việt Nam
1977
15 tháng 11 năm
Venezuela
1945
15 tháng 9 năm
Vanuatu
1981
2 tháng 3 năm
Uzbekistan Former members: USSR
1992
18 tháng 12 năm
Uruguay
1945
14 tháng 12 năm Former members: Tanganyika
United Republic of Tanzania
1961 and Zanzibar
24 tháng 10 năm
Ukraine Former members: USSR
1945
25 tháng 10 năm
Uganda
1962
5 tháng 9 năm
Tuvalu
2000
2 tháng 3 năm
Turkmenistan Former members: USSR
1992
24 tháng 10 năm
Turkey
1945
- 12 tháng 11 năm
Tunisia
1956
Trung Quốc 24/10/1945 Seat of China
18 tháng 9 năm
Trinidad và Tobago
1962
14 tháng 9 năm
Tonga
1999
20 tháng 9 năm
Togo
1960
16 tháng 12 năm
Thái Lan[note 13]
1946
2 tháng 3 năm
Tajikistan Former members: USSR
1992
São Tomé và Princípe 16/09/1975
24 tháng 10 năm Former members: United Arab
Syrian Arab Republic
1945 Republic
10 tháng 9 năm
Switzerland
2002
19 tháng 11 năm
Sweden
1946
24 tháng 9 năm
Swaziland
1968
4 tháng 12 năm
Suriname
1975
12 tháng 11 năm
Sudan
1956
14 tháng 12 năm
Sri Lanka
1955
14 tháng 12 năm
Spain
1955
- 20 tháng 9 năm
Somalia
1960
22 tháng 5 năm
Slovenia Former members: Yugoslavia
1992
19 tháng 1 năm Former members:
Slovakia
1993 Czechoslovakia
21 tháng 9 năm
Singapore
1965
27 tháng 9 năm
Sierra Leone
1961
21 tháng 9 năm
Seychelles
1976
1 tháng 11 năm
Serbia Nam Tư
2000
28 tháng 9 năm
Senegal
1960
24 tháng 10 năm
Saudi Arabia
1945
2 tháng 3 năm
San Marino
1992
15 tháng 12 năm
Samoa
1976
Saint Vincent and the 16 tháng 9 năm
Grenadines 1980
18 tháng 9 năm
Saint Lucia
1979
23 tháng 9 năm
Saint Kitts and Nevis[note 12]
1983
18 tháng 9 năm
Rwanda
1962
- 24 tháng 10 năm
Russian Federation Former members: USSR
1945
14 tháng 12 năm
Romania
1955
2 tháng 3 năm
Republic of Moldova[note 11] Former members: USSR
1992
17 tháng 9 năm
Republic of Korea
1991
19 tháng 9 năm
Quần đảo Solomon
1978
21 tháng 9 năm
Qatar
1971
14 tháng 12 năm
Portugal
1955
24 tháng 10 năm
Poland
1945
24 tháng 10 năm
Philippines[note 10]
1945
31 tháng 10 năm
Peru
1945
24 tháng 10 năm
Paraguay
1945
10 tháng 10 năm
Papua New Guinea
1975
13 tháng 11 năm
Panama
1945
15 tháng 12 năm
Palau
1994
30 tháng 9 năm
Pakistan
1947
- 7 tháng 10 năm
Oman
1971
27 tháng 11 năm
Norway
1945
7 tháng 10 năm
Nigeria
1960
20 tháng 9 năm
Niger
1960
24 tháng 10 năm
Nicaragua
1945
24 tháng 10 năm
New Zealand
1945
14 tháng 12 năm
Nepal
1955
14 tháng 9 năm
Nauru
1999
23 tháng 4 năm
Namibia
1990
7 tháng 11 năm
Nam Phi
1945
19 tháng 4 năm
Myanmar[note 9]
1948
16 tháng 9 năm
Mozambique
1975
12 tháng 11 năm
Morocco
1956
28 tháng 6 năm
Montenegro Former members: Yugoslavia
2006
27 tháng 10 năm
Mongolia
1961
- 28 tháng 5 năm
Monaco
1993
Micronesia (Federated States 17 tháng 9 năm
of) 1991
7 tháng 11 năm
Mexico
1945
24 tháng 4 năm
Mauritius
1968
27 tháng 10 năm
Mauritania
1961
17 tháng 9 năm
Marshall Islands
1991
1 tháng 12 năm
Malta
1964
28 tháng 9 năm
Mali
1960
21 tháng 9 năm
Maldives[note 8]
1965
17 tháng 9 năm
Malaysia[note 7]
1957
1 tháng 12 năm
Malawi
1964
20 tháng 9 năm
Madagascar[note 6]
1960
8 tháng 4 năm
Macedonia Former members: Yugoslavia
1993
24 tháng 10 năm
Luxembourg
1945
Liên hiệp Vương quốc Anh 24 tháng 10 năm
và Bắc Ireland 1945
- 17 tháng 9 năm
Lithuania Former members: USSR
1991
18 tháng 9 năm
Liechtenstein
1990
14 tháng 12 năm
Libyan Arab Jamahiriya[note 5]
1955
2 tháng 11 năm
Liberia
1945
17 tháng 10 năm
Lesotho
1966
24 tháng 10 năm
Lebanon
1945
17 tháng 9 năm
Latvia Former members: USSR
1991
Lao People's Democratic 14 tháng 12 năm
Republic[note 4] 1955
2 tháng 3 năm
Kyrgyzstan Former members: USSR
1992
14 tháng 5 năm
Kuwait
1963
14 tháng 9 năm
Kiribati
1999
16 tháng 12 năm
Kenya
1963
2 tháng 3 năm
Kazakhstan[note 3] Former members: USSR
1992
14 tháng 12 năm
Jordan
1955
18 tháng 12 năm
Japan
1956
- 18 tháng 9 năm
Jamaica
1962
14 tháng 12 năm
Italy
1955
11 tháng 5 năm
Israel
1949
14 tháng 12 năm
Ireland
1955
21 tháng 12 năm
Iraq
1945
Iran (Islamic Republic of)[note 24 tháng 10 năm
2]
1945
28 tháng 9 năm Withdrawal of Indonesia (1965–
Indonesia
1950 1966)
30 tháng 10 năm
India
1945
19 tháng 11 năm
Iceland
1946
14 tháng 12 năm
Hungary
1955
17 tháng 12 năm
Honduras
1945
24 tháng 10 năm
Hoa Kỳ
1945
24 tháng 10 năm
Haiti
1945
20 tháng 9 năm
Guyana
1966
17 tháng 9 năm
Guinea-Bissau
1974
- 12 tháng 12 năm
Guinea
1958
21 tháng 11 năm
Guatemala
1945
17 tháng 9 năm
Grenada
1974
25 tháng 10 năm
Greece
1945
8 tháng 3 năm
Ghana
1957
18 tháng 9 năm Former members: East Germany
Germany
1973 and West Germany
31 tháng 7 năm
Georgia Former members: USSR
1992
21 tháng 9 năm
Gambia[note 1]
1965
20 tháng 9 năm
Gabon
1960
24 tháng 10 năm
France
1945
14 tháng 12 năm
Finland
1955
13 tháng 10 năm
Fiji
1970
13 tháng 11 năm
Ethiopia
1945
17 tháng 9 năm
Estonia Former members: USSR
1991
28 tháng 5 năm
Eritrea
1993
- 12 tháng 11 năm
Equatorial Guinea
1968
24 tháng 10 năm
El Salvador
1945
24 tháng 10 năm Former members: United Arab
Egypt
1945 Republic
21 tháng 12 năm
Ecuador
1945
24 tháng 10 năm
Dominican Republic
1945
18 tháng 12 năm
Dominica
1978
20 tháng 9 năm
Djibouti
1977
24 tháng 10 năm
Denmark
1945
Democratic Republic of the
20/09/1960
Congo
Democratic People's
17/09/1991
Republic of Korea
Các tiểu vương quốc Ả Rập 9 tháng 12 năm
thống nhất 1971
Czech Republic {19/01/1993 Tiệp Khắc
Cyprus 20/09/1960
Cuba 24/10/1945
Croatia 22/05/1992 Nam Tư
Côte d'Ivoire 20/09/1960
Costa Rica 02/11/1945
Congo 20/09/1960
- Comoros 12/11/1975
Colombia 05/11/1945
Chile 24/10/1945
Chad 20/09/1960
Central African Republic 20/09/1960
Cape Verde 16/09/1975
Canada 09/11/1945
Cameroon 20/09/1960
Cambodia 14/12/1955
Bản mẫu:Country data Kingdom 10 tháng 12 năm
of the Netherlands 1945
Burundi 18/09/1962
Burkina Faso 20/09/1960
Bulgaria 14/12/1955
Brunei Darussalam 21/09/1984
Brazil 24/10/1945
Botswana 17/10/1966
Bosnia and Herzegovina 22/05/1992 Nam Tư
Bolivia 14/11/1945
Bhutan 21/09/1971
Benin 20/09/1960
Belize 25/09/1981
Belgium 27/12/1945
Belarus 24/10/1945 Liên Xô
Barbados 09/12/1966
Bangladesh 17/09/1974
Bahrain 21/09/1971
Bahamas 18/09/1973
- Azerbaijan 02/03/1992 Liên Xô
Armenia 02/03/1992 Liên Xô
Argentina 24/10/1945
Antigua and Barbuda 11/11/1981
Angola 01/12/1976
Andorra 28/07/1993
Algeria 08/10/1962
Albania 14/12/1955
Afghanistan 19/11/1946
Một bản đồ thế giới thể hiện các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc
Tới năm 2006 có 192 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, gồm tất cả các quốc
gia độc lập được thế giới công nhận. Trong số những nước không phải thành viên,
đáng chú ý nhất là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), ghế của họ tại Liên Hiệp Quốc
đã được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1971; Tòa Thánh (thực
thể quản lý Thành Vatican), vốn đã từ bỏ quy chế thành viên nhưng vẫn là một quốc
gia quan sát viên; Nhà nước Palestine (là một quan sát viên cùng với Chính quyền
- Quốc gia Palestine). Hơn nữa, những dân tộc dưới chủ quyền nước ngoài và các quốc
gia không được công nhận cũng không hiện diện tại Liên Hiệp Quốc, như Transnistria.
Thành viên mới nhất của Liên Hiệp Quốc là Montenegro, chính thức gia nhập ngày 28
tháng 6 năm 2006.
Liên Hiệp Quốc đã vạch ra các nguyên tắc cơ bản cho tư cách thành viên:
1. Tư cách thành viên của Liên Hiệp Quốc mở rộng cho tất cả các
quốc gia yêu chuộng hòa bình và chịu chấp nhận các nguyên tắc được đặt ra
trong Hiến chương hiện thời và trong các phán quyết của Tổ chức, có thể và sẵn
sàng thực thi những nguyên tắc đó.
2. Sự thu nhận một quốc gia như thế vào Liên Hiệp Quốc sẽ bị ảnh
hưởng bởi quyết định của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc với sự giới thiệu của
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Trụ sở
Toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc hiện nay được xây dựng trên một khu đất rộng
16 acre tại Thành phố New York trong giai đoạn từ năm 1949 tới 1950, bên cạnh Khu
phía Đông của thành phố. Khu đất này được John D. Rockefeller, Jr. mua với giá 8.5
triệu dollar, con trai ông Nelson là nhà thương thuyết chủ yếu với chuyên viên thiết kế
- William Zeckendorf, vào tháng 12 năm 1946. Sau đó John D. Rockefeller, Jr. tặng khu
đất này cho Liên Hiệp Quốc.
Trụ sở được một đội các kiến trúc sư quốc tế gồm cả Le Corbusier (Thuỵ Sĩ),
Oscar Niemeyer (Brasil) và đại diện từ nhiều nước khác thiết kế. Wallace K. Harrison,
một cố vấn của Nelson Rockefeller, lãnh đạo đội. Đã xảy ra một vụ rắc rối giữa những
người tham gia về thẩm quyền của từng người. Trụ sở Liên Hiệp Quốc chính thức mở
cửa ngày 9 tháng 1 năm 1951. Trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc nằm tại New York,
trụ sở một số cơ quan khác của tổ chức này nằm tại Geneva, La Hay, Wien, Montréal,
Copenhagen, Bonn và nhiều nơi khác.
Địa chỉ trụ sở Liên Hiệp Quốc là 760 United Nations Plaza, New York, NY
10017, USA. Vì những lý do an ninh, tất cả thư từ gửi tới địa chỉ trên đều được tiệt
trùng.[1]
Các tòa nhà Liên Hiệp Quốc đều không được coi là các khu vực tài phán chính
trị riêng biệt, nhưng thực sự có một số quyền chủ quyền. Ví dụ, theo những thỏa thuận
với các nước chủ nhà Cơ quan quản lý thư tín Liên Hiệp Quốc được phép in tem thư
để gửi thư tín trong nước đó. Từ năm 1951 văn phòng tại New York, từ năm 1969 văn
phòng tại Geneva, và từ năm 1979 văn phòng tại Wien đã in ấn tem riêng của mình.
Các tổ chức của Liên Hiệp Quốc cũng sử dụng tiền tố viễn thông riêng, 4U, và về mặt
không chính thức, các trụ sở tại New York, Geneva và Wien được coi là các thực thể
riêng biệt đối với các mục đích radio không chuyên.
Bởi trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc đã trải qua một quá trình sử dụng khá dài,
Liên Hiệp Quốc hiện đang trong quá trình xây dựng một trụ sở tạm do Fumihiko Maki
thiết kế trên Đại lộ thứ nhất giữa Phố 41 và Phố 42 để dùng tạm khi công trình hiện
nay đang được tu sửa.[2]
Trước năm 1949, Liên Hiệp Quốc sử dụng nhiều địa điểm tại London và tiểu
bang New York
- Tài chính
Liên Hiệp Quốc hoạt động nhờ tiền đóng góp và tiền quyên tự nguyện từ các
quốc gia thành viên. Những ngân sách chính thức hai năm của Liên Hiệp Quốc và các
tổ chức chuyên biệt của họ lấy từ những khoản đóng góp. Đại hội đồng thông qua
ngân sách chính thức và quyết định khoản đóng góp của mỗi quốc gia thành viên. Điều
này dựa chủ yếu trên năng lực chi trả của mỗi nước, tính theo những số liệu thống kê
thu nhập cùng với những yếu tố khác.
Đại hội đồng đã đưa ra nguyên tắc rằng Liên Hiệp Quốc sẽ không quá phụ
thuộc vào bất kỳ một quốc gia thành viên nào trong lĩnh vực tài chính cần thiết cho
những hoạt động của mình. Vì thế, có một mức "trần", quy định khoản tiền tối đa một
nước có thể đóng góp cho ngân sách. Tháng 12 năm 2000, Đại hội đồng đã sửa đổi tỷ
lệ đóng góp để phản ánh chính xác hơn cục diện thế giới hiện tại. Như một phần của
sự sửa đổi này, trần đóng góp được giảm từ 25% xuống 22%. Hoa Kỳ là quốc gia duy
nhất đóng góp ở mức trần, nhưng những khoản tiền họ còn thiếu lên tới hàng trăm
triệu dollar (xem Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc). Theo mức đóng góp mới được thông
qua năm 2000, các nước đóng góp lớn khác vào ngân sách Liên Hiệp Quốc năm 2001
là Nhật Bản (19.63%), Đức (9.82%), Pháp (6.50%), Anh (5.57%), Ý (5.09%), Canada
(2.57%), Tây Ban Nha (2.53%) và Brasil (2.39%).[4]
Các chương trình đặc biệt của Liên Hiệp Quốc không được tính vào ngân sách
chính thức của tổ chức này (ví dụ như UNICEF và Chương trình Phát triển Liên Hiệp
Quốc (UNDP)), chúng hoạt động nhờ những khoản quyên góp tự nguyện từ các chính
phủ thành viên. Một số các khoản đóng góp dưới hình thức các loại thực phẩm nông
nghiệp viện trợ cho những người bị ảnh hưởng, nhưng chủ yếu vẫn là tiền mặt.
- Ngôn ngữ
Liên Hiệp Quốc sử dụng sáu ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Hoa,
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha[5]. Ban thư ký sử dụng hai
ngôn ngữ làm việc: (tiếng Anh và tiếng Pháp).
Khi Liên Hiệp Quốc được thành lập, bốn ngôn ngữ chính thức được lựa chọn
là: tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp và tiếng Nga. Tiếng Ả Rập và tiếng Tây Ban
Nha được đưa vào thêm năm 1973. Hiện có những tranh cãi trái chiều về việc liệu có
nên giảm bớt số lượng ngôn ngữ chính thức (ví dụ chỉ giữ lại tiếng Anh) hay nên tăng
thêm con số này. Áp lực đòi đưa thêm tiếng Hindi thành ngôn ngữ chính thức đang
ngày càng gia tăng. Năm 2001, các nước nói tiếng Tây Ban Nha phàn nàn rằng tiếng
Tây Ban Nha không có tư cách ngang bằng so với tiếng Anh[6]. Những nỗ lực chống
lại sự tụt giảm vị thế của tiếng Pháp trong tổ chức này cũng rất to lớn[7]; vì thế tất cả
các Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đều phải biết dùng tiếng Pháp và rõ ràng việc Tổng
thư ký mới Ban Ki-Moon gặp khó khăn để có thể nói trôi chảy ngôn ngữ này trong
buổi họp báo đầu tiên của ông [8] bị một số người coi là một sự mất điểm [9].
Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc đối với các tài liệu bằng tiếng Anh (Hướng dẫn
xuất bản Liên Hiệp Quốc) tuân theo quy tắc của tiếng Anh. Liên Hiệp Quốc và tất cả
các tổ chức khác là một phần của hệ thống Liên Hiệp Quốc sử dụng phương pháp đánh
vần Oxford. Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc về tiếng Hoa (Quan thoại) đã thay đổi khi
Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) phải nhường ghế cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
năm 1971. Từ năm 1945 đến 1971 kiểu chữ phồn thể được sử dụng, và từ năm 1971
kiểu chữ giản thể đã thay thế.
Trong số các ngôn ngữ chính thức của Liên Hiệp Quốc, tiếng Anh là ngôn ngữ
chính thức của 52 quốc gia thành viên, tiếng Pháp của 29 thành viên, tiếng Ả Rập là
24, tiếng Tây Ban Nha là 20, tiếng Nga tại 4 và tiếng Trung Quốc tại 2 nước. Tiếng Bồ
Đào Nha và tiếng Đức là những ngôn ngữ được sử dụng ở khá nhiều nước thành viên
Liên Hiệp Quốc (8 và 6) nhưng lại không phải là ngôn ngữ chính thức của tổ chức này.
- Các mục đích và hoạt động
Các mục đích của Liên Hiệp Quốc
Những mục đích được nêu ra của Liên Hiệp Quốc là ngăn chặn chiến tranh, bảo
vệ nhân quyền, cung cấp một cơ cấu cho luật pháp quốc tế, và để tăng cường tiến bộ
kinh tế, xã hội, cải thiện các điều kiện sống và chống lại bệnh tật. [10] Liên Hiệp Quốc
tạo cơ hội cho các quốc gia nhằm đạt tới sự cân bằng trong sự phụ thuộc lẫn nhau trên
bình diện thế giới và giải quyết các vấn đề quốc tế. Nhằm mục đích đó, Liên Hiệp
Quốc đã phê chuẩn một Tuyên ngôn Chung về Nhân Quyền năm 1948. [11]
Các hội nghị quốc tế
Các quốc gia Liên Hiệp Quốc và các cơ quan đặc biệt của nó — "những
stakeholder" của hệ thống — đưa ra hướng dẫn và quyết định về những vấn đề lớn và
vấn đề hành chính trong những cuộc gặp thông lệ được tổ chức suốt năm. Các cơ cấu
quản lý được hình thành từ các quốc gia thành viên, không chỉ gồm Đại hội đồng, Hội
đồng Kinh tế Xã hội và Hội đồng Bảo an, mà còn cả các cơ cấu tương đương chịu
trách nhiệm quản lý tất cả các cơ quan khác của Hệ thống Liên Hiệp Quốc. Ví dụ Đại
hội đồng Y tế và Ban Chấp hành quản lý công việc của Tổ chức Y tế Thế giới.
Khi một vấn đề được coi là có tầm quan trọng đặc biệt, Đại hội đồng có thể
triệu tập một phiên họp đặc biệt để tập trung sự chú ý toàn cầu và xây dựng một
phương hướng hành động chung. Những ví dụ gần đây gồm:
nguon tai.lieu . vn