Xem mẫu
- Kim loại nặng và ảnh hưởng của
chúng đối với con người
Kim loại nặng là những kim lợi có khối lượng riêng lớn hơn 5g/cm3. Một số
kim loại nặng có thể cần thiết cho sinh vật, chúng được xem là nguyên tố vi
lượng. Một số không cần thiết cho sứ ống, khi đi vào cơ thể sinh vật có thể
không gây độc hại gì. Kim loại nặng gây độc hại với môi trường và cơ thể
sinh vật khi hàm lượng của chúng vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Chì (Pb): là nguyên tố có độc tính cao đối với sức khoẻ con người. Chì gây
độc cho hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh ngoại biên, tác động lên hệ
enzim có nhóm hoạt động chứa hyđro. Người bị nhiễm độc chì sẽ bị rối loạn
bộ phận tạo huyết (tuỷ xương). Tuỳ theo mức độ nhiễm độc có thể bị đau
- bụng, đau khớp, viêm thận, cao huyết áp, tai biến não, nhiễm độc nặng có
thể gây tử vong. Đặc tính nổi bật là sau khi xâm nhập vào cơ thể, chì ít bị
đào thải mà tích tụ theo thời gian rồi mới gây độc.
- Chì đi vào cơ thể con người qua nước uống, không khí và thức ăn bị nhiễm
chì.
- Chì tích tụ ở xương, kìm hãm quá trình chuyển hoá canxi bằng cách kìm
hãm sự chuyển hoá vitamin D.
- Tiêu chuẩn tối đa cho phép theo WHO nồng độ chì trong nước uống: £
0,05 mg/ml.
Thuỷ ngân (Hg): tính độc phụ thuộc vào dạng hoá học của nó. Thuỷ ngân
nguyên tố tương đối trơ, không độc. Nếu nuốt phải thuỷ ngân kim loại thì
sau đó sẽ được thải ra mà không gây hậu quả nghiêm trọng. Nhưng thuỷ
ngân dễ bay hơi ở nhiệt độ thường nên nếu hít phải sẽ rất độc. Thuỷ ngân có
khả năng phản ứng với axit amin chứa lưu huỳnh, các hemoglobin, abumin;
có khả năng liên kết màng tế bào, làm thay đổi hàm lượng kali, thay đổi cân
bằng axit bazơ của các mô, làm thiếu hụt năng lượng cung cấp cho tế bào
thần kinh. Trẻ em bị ngộ độc thuỷ ngân sẽ bị phân liệt, co giật không chủ
động. Trong nước, metyl thủy ngân là dạng độc nhất, nó làm phân liệt nhiễm
sắc thể và ngăn cản quá trình phân chia tế bào.
- Thuỷ ngân đưa vào môi trường từ các chất thải, bụi khói của các nhà máy
luyện kim, sản xuất đèn huỳnh quang, nhiệt kế, thuốc bảo vệ thực vật, bột
giấy…
- - Nồng độ tối đa cho phép của WHO trong nước uống là 1mg/l; nước nuôi
thuỷ sản là 0,5mg/l.
Asen (As): là kim loại có thể tồn tại ở dạng tổng hợp chất vô cơ và hữu cơ.
Trong tự nhiên tồn tại trong các khoáng chất. Nồng độ thấp thì kích thích
sinh trưởng, nồng độ cao gây độc cho động thực vật.
- Nguồn tự nhiên gây ô nhiễm asen là núi lửa, bụi đại dương. Nguồn nhân
tạo gây ô nhiễm asen là quá trình nung chảy đồng, chì, kẽm, luyện thép, đốt
rừng, sử dụng thuốc trừ sâu…
- Asen có thể gây ra 19 căn bệnh khác nhau. Các ảnh hưởng chính đối với
sức khoẻ con người: làm keo tụ protein do tạo phức với asen III và phá huỷ
quá trình photpho hoá; gây ung thư tiểu mô da, phổi, phế quản, xoang…
- Tiêu chuẩn cho phép theo WHO nồng độ asen trong nước uống là 50mg/l.
Cađimi (Cd): là kim loại được sử dụng trong công nghiệp luyện kim, chế
tạo đồ nhựa; hợp chất cađimi được sử dụng để sản xuất pin.
Nguồn tự nhiên gây ô nhiễm cađimi do bụi núi lửa, bụi vũ trụ, cháy rừng…
Nguồn nhân tạo là từ công nghiệp luyện kim, mạ, sơn, chất dẻo…
- Cađimi xâm nhập vào cơ thể người qua con đường hô hấp, thực phẩm.
Theo nhiều nghiên cứu thì người hút thuốc lá có nguy cơ bị nhiễm cađimi.
- Cađimi xâm nhập vào cơ thể được tích tụ ở thận và xương; gây nhiễu hoạt
động của một số enzim, gây tăng huyết áp, ung thư phổi, thủng vách ngăn
mũi, làm rối loạn chức năng thận, phá huỷ tuỷ xương, gây ảnh hưởng đến
nội tiết, máu, tim mạch.
- - Tiêu chuẩn theo WHO cho nước uống £ 0,003 mg/l.
Crom (Cr): tồn tại trong nước với 2 dạng Cr (III), Cr (VI). Cr (III) không
độc nhưng Cr (VI) độc đối với động thực vật. Với người Cr (VI) gây loét dạ
dày, ruột non, viêm gan, viêm thận, ung thư phổi.
- Crom xâm nhập vào nguồn nước từ các nguồn nước thải của các nhà máy
mạ điện, nhuộm, thuộc da, chất nổ, mực in, in tráng ảnh…
- Tiêu chuẩn WHO quy định hàm lượng crom trong nước uống là £ 0,005
mg/l.
Mangan (Mn): là nguyên tố vi lượng, nhu cầu mỗi ngày khoảng 30 - 50
mg/kg trọng lượng cơ thể. Nếu hàm lượng lớn gây độc cho cơ thể; gây độc
với nguyên sinh chất của tế bào, đặc biệt là tác động lên hệ thần kinh trung
ương, gây tổn thương thận, bộ máy tuần hoàn, phổi, ngộ độc nặng gây tử
vong.
- Mangan đi vào môi trường nước do quá trình rửa trôi, xói mòn, do các chất
thải công nghiệp luyện kim, acqui, phân hoá học.
- Tiêu chuẩn qui định của WHO trong nước uống là £ 0,1 mg/l.
nguon tai.lieu . vn