Xem mẫu

  1. Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam Nguyễn Thị Hương Trường Đại học Giáo dục Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40 Người hướng dẫn: GS.TS Võ Khánh Vinh Năm bảo vệ: 2009 Abstract: Xem xét có hệ thống sự phát triển của các quy định khiếu nại, tố cáo của luật tố tụng hình sự qua các giai đoạn lịch sử, phân tích khái niệm, đưa ra nội hàm và các đặc trưng về bản chất của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, điều kiện áp dụng và quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, mối liên hệ giữa khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với Luật Khiếu nại, tố cáo và các lĩnh vực liên quan khác, kết quả thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, từ đó làm rõ bản chất của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Đánh giá, so sánh kết quả áp dụng thực tiễn của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, đồng thời phân tích những nguyên nhân khách quan, chủ quan của những tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tế cũng như hoàn thiện các quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khiếu nại, tố cáo. Keywords: Khiếu nại; Luật hình sự; Tố cáo; Tố tụng hình sự Content MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định. Việc nghiên cứu sâu sắc và cụ thể các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự sẽ góp phần vào việc nhận thức đúng, thực hiện đúng các quy định về khiếu nại, tố cáo phát huy dân chủ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Mặc dù khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự rất quan trọng, song, hiện nay, vấn đề này vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách xác đáng và toàn diện, còn nhiều nội dung chưa được thống nhất, rõ ràng cụ thể trên cả phương diện lý luận và thực tiễn như: khái quát các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự qua các giai đoạn lịch sử; phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với khiếu nại, tố cáo theo Luật Khiếu nại, tố cáo và khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực khác; xem xét tính đặc thù của khiếu nại, tố cáo; thực tiễn áp dụng khiếu nại, tố cáo trong giải quyết vụ việc; kết quả của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự…
  2. Chính vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là cần thiết. Kết quả của việc nghiên cứu này giúp chúng ta nắm bắt được những hạn chế trong các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện hơn nữa các quy định này. Đây chính là lý do dẫn tôi đến việc chọn "Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là một trong những nội dung quan trọng thể hiện quyền cơ bản của công dân, có quan hệ mật thiết với Luật Khiếu nại, tố cáo và các quy định về khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực khác. Do vậy, dưới những góc độ nhất định, quy định này đã được một số các nhà khoa học, các luật gia nghiên cứu. Cụ thể: Bài nghiên cứu chuyên đề: Tố cáo và giải quyết tố cáo trong Luật tố tụng hình sự: Những vấn đề lý luận - thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, của TSKH.Lê Cảm - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đăng trên Tạp chí Khoa học (chuyên san Kinh tế - Luật), Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007. Bài viết đề cập những vấn đề lý luận về tố cáo trong tố tụng hình sự, qua đó phân tích thực trạng tố cáo và giải quyết tố cáo, nêu ra những kẽ hở của pháp luật trong lĩnh vực này, đồng thời đưa ra mô hình lý luận của những kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật tương ứng. "Khiếu nại, tố cáo theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003", của PGS.TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học, số 6/2004, trong bài viết này, tác giả phân tích và lý giải những vấn đề cơ bản các quy định khiếu nại, tố cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 như điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo. "Về người khiếu nại, tố cáo và người bị khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự" của đồng tác giả TSKH. Lê Cảm và ThS. Minh Phượng, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2004, bài viết này đề cập đến việc nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự theo hệ thống như sau: Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại, quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo. "Về đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam", tác giả Nguyễn Trọng Phúc - Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2007, trong bài viết này, tác giả đã khái quát quyền khiếu nại, tố cáo trong lịch sử, đồng thời đưa ra những khái niệm cơ bản về khiếu nại, tố cáo, phân biệt khiếu nại, tố cáo với tố giác, tin báo về vi phạm pháp luật và vi phạm các quyền đó. Ngoài ra, nghiên cứu về khiếu nại, tố cáo còn được thể hiện trong "Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự" năm 2003, Nxb Công an nhân dân, do PGS.TS Võ Khánh Vinh làm chủ biên; trong các sách giáo khoa chuyên ngành luật tố tụng hình sự; các tập bài giảng của giảng viên... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên của các tác giả thường dưới dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành, hoặc một phần trong các bài giảng của giáo trình giảng dạy hoặc một phần trong sách chuyên khảo... mà chưa cho công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và toàn diện về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, như khái niệm, đặc điểm, chủ thể, đối tượng, quy trình giải quyết của khiếu nại, tố cáo và thực tiễn áp dụng các quy định của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. 2
  3. Qua đó, phân định rõ ràng, có hệ thống những nội dung cơ bản của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, so sánh với các quy định liên quan khác. Mặt khác, phân tích những tồn tại còn bất cập và đưa ra các giải pháp về mặt lý luận và hoàn thiện các quy định trong thực tiễn áp dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng cũng như khuyến khích người dân tham gia giám sát phát hiện những sai sót trong quá trình này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích trên, chúng tôi tự đặt cho mình những nhiệm vụ sau: Về mặt lý luận: Xem xét có hệ thống sự phát triển của các quy định khiếu nại, tố cáo của luật tố tụng hình sự qua các giai đoạn lịch sử, phân tích khái niệm, đưa ra nội hàm và các đặc trưng về bản chất của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, điều kiện áp dụng và quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, mối liên hệ giữa khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với Luật Khiếu nại, tố cáo và các lĩnh vực liên quan khác, kết quả thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, từ đó làm rõ bản chất của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Đánh giá, so sánh kết quả áp dụng thực tiễn của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, đồng thời phân tích những nguyên nhân khách quan, chủ quan đối của những tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tế cũng như hoàn thiện các quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khiếu nại, tố cáo. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận của khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, thực tiễn áp dụng khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự hiện hành; xác định tồn tại, nguyên nhân của tồn tại và hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về nội dung: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những nội dung cơ bản của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự hiện hành, bên cạnh đó có so sánh, đối chiếu với Luật Khiếu nại, tố cáo và các quy định khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực khác nhằm cho việc xác định bản chất và hướng hoàn thiện của các quy định khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Phạm vi về thời gian: - Các vấn đề lý luận nghiên cứu trong giai đoạn từ 1988 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988) đến nay. - Về thực tiễn: nghiên cứu các kết quả áp dụng của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự từ năm 2003 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như đảm bảo cơ chế hoạt động đúng, đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cũng như đảm bảo về các quyền của công dân được khiếu nại, tố cáo khi thấy người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có những hành vi, quyết định tố tụng trái pháp luật, gây ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, luận văn còn áp dụng các thành tựu về khoa học của chuyên ngành pháp lý, các nhà chuyên môn, các luận điểm nghiên cứu của các 3
  4. nhà khoa học, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết chuyên ngành pháp lý được đăng trên các tạp chí. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản sau để làm rõ bản chất của đối tượng nghiên cứu: - Phương pháp so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp so sánh đặc trưng để phân biệt về mặt lý luận cũng như thực tiễn của khiếu nại, tố cáo qua các giai đoạn được quy định trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, thể hiện của phương pháp này là các đối chiếu về cơ chế, các điều kiện áp dụng của các quy định này. Ngoài ra, phương pháp so sánh cũng được thể hiện trong luận văn khi đề cập giữa các quy định khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự và Luật Khiếu nại, tố cáo cũng như các quy định khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực khác. - Phương pháp phân tích: phương pháp này thể hiện trong luận văn là những lý giải về cơ chế đặc thù của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, đặc trưng, bản chất và các điều kiện áp dụng, cũng như lý giải về những nguyên nhân và các giải pháp hoàn thiện các quy định về khiếu nại, tố cáo. - Phương pháp thống kê xã hội học: được thể hiện là những tài liệu được tổng hợp qua thực tiễn áp dụng như tổng hợp các kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, tổng hợp các vụ việc trong đó có khiếu nại, tố cáo để làm cơ sở phân tích về nguyên nhân và giải pháp. Bên cạnh đó phương pháp này còn thể hiện về các số liệu, tài liệu nghiên cứu trên mạng Internet cũng như tổng hợp các tri thức khoa học tương ứng của đề tài. - Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp tiếp cận khác như: phương pháp lịch sử, tổng hợp… đồng thời đề tài còn sử dụng các nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước, những vụ việc của Tòa án, tài liệu của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong quá trình thực hiện các giai đoạn tố tụng có liên quan đến khiếu nại, tố cáo. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Đây là đề tài nghiên cứu các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đề tài giải quyết được các nội dung sau: - Phân tích và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự: khái niệm khiếu nại; khái niệm tố cáo; các đặc điểm pháp lý của khiếu nại, tố cáo; cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam; phân biệt khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực hình sự với các lĩnh vực khác, mối quan hệ giữa chúng. - Tổng kết, đánh giá các quy định về khiếu nại, tố cáo qua các giai đoạn phát triển, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá rút kinh nghiệm, và hướng khắc phục. - Phân tích, so sách các quy định khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự theo hướng loại trừ để xác định sự cần thiết của khiếu nại, tố cáo trong các giai đoạn tố tụng của luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Tổng hợp và phân tích các nguyên nhân của tồn tại trong quá trình thực hiện và giải quyết các vấn đề về khiếu nại, tố cáo, đánh giá tác động của các hệ quả này đối với thực tiễn áp dụng. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về quyền khiếu nại, tố cáo, cũng như hạn chế những sai sót đối với người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 4
  5. Về mặt lý luận: Đề tài có những đóng góp nhất định về mặt lý luận về pháp luật Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự như đưa ra những khái niệm pháp lý và các đặc trưng liên quan trong tố tụng hình sự. Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn cũng như làm rõ bản chất của khiếu nại, tố cáo, phân tích những nguyên nhân của tồn tại và đưa ra những giáp pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn còn ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các học sinh, sinh viên và những ai quan tâm đến vấn đề này cũng như nâng cao hiểu biết pháp luật đối với người dân - những người có quyền khiếu nại, tố cáo trong các giai đoạn của tố tụng hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật và quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái quát về khiếu nại, tố cáo 1.1.1. Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân Trong giai đoạn hiện nay, khi xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, một trong những nguyên tắc, yêu cầu cơ bản nhất là đảm bảo, bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật và các biện pháp xã hội. Trong các quyền cơ bản của công dân được thể hiện theo các nhóm quyền như: nhóm quyền công dân về dân sự, chính trị, các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, thì một trong những quyền đặc biệt là quyền được khiếu nại, tố cáo của công dân. 1.1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam Quá trình xây dựng pháp luật về khiếu nại, tố cáo của Nhà nước ta, nhận thấy, sự xác lập quyền công dân về khiếu nại, tố cáo được bắt nguồn từ tinh thần của bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và được ghi nhận cụ thể trong các bản Hiến pháp tiếp theo, là sự thể hiện bản chất dân chủ của nhà nước. Bản chất ấy ngày càng được mở rộng và phát triển theo từng giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, sự hình thành và phát triển nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa càng được cụ thể hóa, khi pháp luật về khiếu nại, tố cáo xác định trách nhiệm, thời hạn và thẩm quyền các cấp phải giải quyết khiếu nại, tố cáo không làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. 1.1.3. Khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới 5
  6. Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được cụ thể bằng các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trên thế giới, quyền khiếu nại, tố cáo cũng được các nước quy định rõ ràng trong hệ thống pháp luật của mình. Tuy nhiên, do đặc điểm về trình độ phát triển, nhận thức pháp lý của người dân, sự khác biệt về văn hóa, tri thức, nên mỗi một quốc gia, việc quy định quyền khiếu nại, tố cáo có sự khác nhau, trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của một số nước, có thể thấy, quyền khiếu nại là một trong những quyền có ý nghĩa quan trọng. Đặc biệt việc quy định quyền khiếu nại và quy trình giải quyết khiếu nại tập trung chủ yếu ở giai đoạn điều tra (Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga) hay giai đoạn tố tụng tại Tòa án (Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức). Quyền khiếu nại ở những giai đoàn này là rất quan trọng. Những hoạt động tố tụng do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giai đoạn này có ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Việc giải quyết đúng đắn, phù hợp và kịp thời những khiếu nại trong giai đoạn này sẽ hạn chế những vi phạm không đáng có do hành vi tố tụng, quyết định tố tụng gây ra. Mặt khác, phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời những sai sót thậm chí tránh được hậu quả do các hoạt động tố tụng vi phạm. Đây cũng là mục đích cuối cùng mà các nhà lập pháp của một số nước trên thế giới ghi nhận và quy định trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự của nước mình. 1.2. Khái niệm, đặc điểm của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của khiếu nại Khiếu nại trong tố tụng hình sự là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, có quyền đề nghị người có thẩm quyền giải quyết, xem xét lại các quyết định, hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng và/ hoặc người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Từ khái niệm trên, có thể đưa ra một số đặc điểm của khiếu nại trong tố tụng hình sự như sau: Thứ nhất, khiếu nại trong tố tụng hình sự được giới hạn bởi một phạm vi nhất định, phạm vi này được thể hiện rất rõ và cụ thể, chỉ trong các hoạt động tố tụng. Thứ hai, Người có quyền khiếu nại là cá nhân, tổ chức bị quyết định tố tụng, hành vi tố tụng xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thứ ba, Đối tượng khiếu nại là những hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng. Các hoạt động tố tụng này thường thể hiện ra bên ngoài thành những dạng cụ thể bằng: quyết định tố tụng, hành vi tố tụng. Thứ tư, Người bị khiếu nại chính là chủ thể có quyền tiến hành tố tụng hoặc chủ thể được quyền thực hiện một số hoạt động tố tụng. Thứ năm, chủ thể có quyền phải có hành vi đề nghị người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét lại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng. 6
  7. 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của tố cáo Tố cáo trong tố tụng hình sự là việc công dân theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định báo cho cơ quan, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và/hoặc người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Hành vi vi phạm pháp luật đó chưa có dấu hiệu của tội phạm. Từ phân tích ở trên, ta có thể đưa ra một số đặc điểm của tố cáo, cụ thể: Thứ nhất, phạm vi tố cáo trong tố tụng hình sự chỉ là hành vi của người tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Thứ hai, chủ thể có quyền tố cáo là công dân. Pháp luật không quy định tổ chức là chủ thể của tố cáo. Thứ ba, chủ thể có quyền tố cáo trong tố tụng hình sự cũng tương tự như tố cáo trong các lĩnh vực khác là quyền của mọi công dân có đủ năng lực pháp luật. Thứ tư, hành vi vi phạm pháp luật này trước khi bị tố cáo chưa bị phát hiện ra. Bất cứ người có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật đều có thể bị phát hiện và bị tố cáo. Thứ năm, hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo trong tố tụng hình sự phải chưa có dấu hiệu của tội phạm. 1.2.3. Tính đặc thù của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Về cơ bản, tính đặc thù của khiếu nại trong tố tụng hình sự Việt Nam được thể hiện như sau: a) Chỉ có những cá nhân, tổ chức, hoặc đại diện hợp pháp của họ bị các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của họ mới có quyền khiếu nại. b) Phạm vi khiếu nại (đối tượng) cũng được bó hẹp, cụ thể chỉ có những hành vi tố tụng, hoặc quyết định tố tụng khi có căn cứ vi phạm pháp luật mới được quyền khiếu nại, điều này nếu không phân biệt rõ có thể nhầm lẫn với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước. c) Chính do chủ thể đặc biệt, đối tượng khiếu nại đặc biệt, nên thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự cũng được quy định cụ thể bởi người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết, quy trình giải quyết được đẩy nhanh nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. d) Không có vụ án hành chính trong tố tụng hình sự. Khiếu nại được coi là tiền đề của một vụ án hành chính. Theo Luật Khiếu nại, tố cáo, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần 2, người khiếu nại có quyền khiếu nại tiếp hoặc khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Đối với tố cáo trong tố tụng hình sự, tính đặc thù cũng thể hiện rõ như: a) Chỉ tố cáo đối với hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng, khi có cơ sở cho rằng, hành vi đó vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc của cơ quan Nhà nước. 7
  8. b) Chủ thể tố cáo trong tố tụng hình sự cũng giống chủ thể của Luật Khiếu nại, tố cáo, không hạn chế các chủ thể tham gia tố cáo, kể cả những cá nhân không liên quan đến hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, quy định tố cáo trong tố tụng hình sự chỉ áp dụng cho cá nhân, đảm bảo và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật khi người tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng thực hiện, đồng thời nâng cao trách nhiệm của người tố cáo khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật. c) Hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo chưa có dấu hiệu của tội phạm. Điều này thể hiện mức độ vi phạm của người bị tố cáo trong các hoạt động tố tụng cũng như hậu quả hạn chế của người bị tố cáo nếu trong trường hợp người tố cáo tố cáo đúng sự thật. 1.2.4. Phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với khiếu nại bản án có hiệu lực pháp luật; tố cáo với tố giác tội phạm; phân biệt với Luật khiếu nại, tố cáo; khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai và các lĩnh vực khác 1.2.4.1. Phân biệt khiếu nại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng với khiếu nại bản án có hiệu lực pháp luật 1.2.4.2. Phân biệt tố cáo trong tố tụng hình sự với tố giác tội phạm 1.2.4.3. Phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với Luật khiếu nại, tố cáo 1.2.4.4. Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. Chủ thể khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Chủ thể trong khiếu nại, tố cáo là những người có quyền khiếu nại, tố cáo, là người bị khiếu nại, người bị tố cáo và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng được pháp luật tố tụng hình sự quy định. 2.1.1. Chủ thể khiếu nại trong tố tụng hình sự 2.1.1.1. Chủ thể có quyền khiếu nại trong tố tụng hình sự Chủ thể có quyền khiếu nại là những người theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự có quyền khiếu nại các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng, hành vi tố tụng, quyết định tố tụng trái pháp luật, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình, gồm: Người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ; người làm chứng; người bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Theo quy định tại phần bảy về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, cho thấy, chủ thể có quyền khiếu nại còn mở rộng thêm như: Đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức... 2.1.1.2. Chủ thể bị khiếu nại trong tố tụng hình sự Chủ thể bị khiếu nại trong tố tụng hình sự là những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc một số chủ thể khác có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, người có thẩm quyền ra các quyết định hoặc thực hiện các hành vi tố tụng gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án. 8
  9. Ngoài ra, đối với hoạt động điều tra, Điều 111, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của công an nhân dân, quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. 2.1.2. Chủ thể tố cáo trong tố tụng hình sự 2.1.2.1. Chủ thể có quyền tố cáo trong tố tụng hình sự Cũng như tố cáo trong lĩnh vực khác, chủ thể tố cáo trong tố tụng hình sự là công dân, có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định được quyền tố cáo. Chủ thể tố cáo rất rộng, song, pháp nhân không phải là chủ thể của tố cáo. 2.1.2.2. Chủ thể bị tố cáo trong tố tụng hình sự Người bị tố cáo là những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cụ thể: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án. Ngoài ra, pháp luật còn quy định những người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra cũng là người bị tố cáo trong tố tụng hình sự. 2.1.3. "Chủ thể" giải quyết khiếu nại, tố cáo Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, ngoài hai chủ thể là người bị khiếu nại, tố cáo, người có quyền khiếu nại, tố cáo còn một chủ thể khác đó là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo. Có thể coi đây là chủ thể đặc biệt. 2.1.3.1. Chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại 2.1.3.2. Đối với hành vi bị tố cáo, chủ thể giải quyết tố cáo cũng tương tự. Điều này có nghĩa chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải là người không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo đó 2.1.4. Mối quan hệ giữa các chủ thể trong khiếu nại, tố cáo - Có cơ chế ràng buộc trách nhiệm theo quy định của pháp luật, đảm bảo việc giám sát các hoạt động tố tụng diễn ra một cách bình thường, đúng pháp luật. - Hạn chế tới mức tố đa những quan hệ xã hội được pháp luật bảo hộ không bị xâm phạm bởi những quyết định tố tụng, hành vi tố tụng và những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng. - Tránh hoặc khôi phục những hậu quả do quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong hoạt động tố tụng. - Đảm bảo sự ngang bằng trong quan hệ giữa Nhà nước và công dân, một trong những biện pháp để hạn chế của quyền lực Nhà nước liên quan đến hoạt động tố tụng. - Thúc đẩy và phát triển những hoạt động tố tụng đúng pháp luật, kiềm chế và loại bỏ những vi phạm do các hoạt động tố tụng xâm phạm trái pháp luật. 2.2. Đối tượng của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 2.2.1. Đối tượng của khiếu nại trong tố tụng hình sự Đối tượng khiếu nại trong tố tụng hình sự là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và/hoặc người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình 9
  10. sự. Những hình thức biểu hiện này gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. 2.2.2. Đối tượng của tố cáo trong tố tụng hình sự Đối tượng của tố cáo trong tố tụng hình sự chính là "hành vi vi phạm pháp luật". Hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm các vi phạm pháp luật tố tụng hình sự có thể được coi là tội phạm hoặc cũng có thể là các hành vi vi phạm pháp luật khác. Hành vi đó có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. 2.3. Quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 2.3.1. Quá trình giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự 2.3.1.1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự Bộ luật Tố tụng hình sự xác định thẩm quyền giải quyết khiếu nại thuộc trách nhiệm của người đứng đầu các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Chủ thể có trách nhiệm giải quyết khiếu nại trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo. Các trường hợp còn lại, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định các chủ thể: Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp khi có khiếu nại trong giai đoạn điều tra - truy tố, Chánh án Tòa án nhân dân các cấp trong giai đoạn xét xử. Người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại không thể đồng thời là người bị khiếu nại, nói cách khác, người bị khiếu nại không có quyền giải quyết khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của chính mình. 2.3.1.2. Thủ tục và thời hạn giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự Theo quy định tại các Điều từ 329 đến Điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự, có thể chia thành hai loại mô hình giải quyết khiếu nại đó là: thứ nhất, mô hình chỉ có sự tham gia của một loại cơ quan tiến hành tố tụng; thứ hai, mô hình có sự tham gia của hai loại cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, ở mô hình nào thì về mặt thủ tục cũng chia làm hai trình tự: Khiếu nại cấp I: Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại ở cấp I có thể khiếu nại tới cấp II. Khiếu nại cấp II: Quyết định giải quyết khiếu nại ở cấp II là quyết định giải quyết cuối cùng. Các loại mô hình trên đều có chung thời hạn giải quyết khiếu nại là bảy ngày (đối với khiếu nại cấp I) và mười lăm ngày (đối với khiếu nại cấp II). 2.3.2. Quá trình giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự 2.3.2.1. Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự Tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải ra quyết định về việc kiểm tra, xác minh nội dung tố cáo. Sau khi kết thúc xác minh, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết phải có văn bản kết luận về nội dung tố cáo. Trường hợp trong quá trình giải quyết tố cáo, nếu phát hiện thấy hành vi tố tụng liên quan có vi phạm pháp luật thì cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết phải áp dụng biện pháp khắc 10
  11. phục hoặc kiến nghị cơ quan, cá nhân có trách nhiệm áp dụng biện pháp khắc phục, không phải đợi kết quả giải quyết tố cáo. 2.3.2.2. Thủ tục và thời hạn giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cấp trên có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố xem xét, giải quyết, đây là quy trình giải quyết tố cáo một cấp và giải quyết trực tiếp trên cơ sở mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Thời hạn giải quyết tố cáo không quá sáu mươi ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá chín mươi ngày. Trường hợp tố cáo liên quan đến hành vi bắt, tạm giữ, tạm giam phải được Viện kiểm sát xem xét, giải quyết ngay. Trong trường hợp phải xác minh thêm thì thời hạn không quá ba ngày. 2.3.3. So sánh quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 với các quy định trước đây Điều 24 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 cũng đã quy định nguyên tắc "bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng" và một số điều luật quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, quy định về khiếu nại, tố cáo và quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo còn hạn chế. Có thể nói quy định về giải quyết khiếu nại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 còn nhiều bất cập, không cụ thể và không rõ ràng, không chặt chẽ và còn tản mạn. Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 3.1. Thực trạng và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 3.1.1. Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam Trong các giai đoạn tố tụng, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ở giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử công minh, khách quan, đúng pháp luật, thì việc khiếu nại, tố cáo trở nên đơn giản, thậm chí hạn chế được rất nhiều việc khiếu nại, tố cáo của công dân và người có liên quan. Trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, khiếu nại, tố cáo còn ít, đặc biệt trong giai đoạn điều tra. Điều này dẫn đến khi vụ án đưa ra xét xử, thường mắc lỗi thủ tục dẫn đến án bị hủy, buộc phải điều tra lại, điều tra bổ sung… mất nhiều công sức và vật 11
  12. chất cho cơ quan Nhà nước, đồng thời, ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, những người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại khác. 3.1.2. Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo Trong những năm gần đây, kể từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 có hiệu lực, có thể khẳng định, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp nói chung và khiếu nại trong tố tụng hình sự nói riêng có chiều hướng gia tăng, cụ thể trong ba năm gần đây nhất, ngành tư pháp đã tiếp nhận hàng chục nghìn đơn khiếu nại và tố cáo của công dân. Trong đó, việc giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực tư pháp đạt kết quả khả quan và chiếm tỷ lệ rất cao, cụ thể: Toàn ngành Công an đã giải quyết 4.571/4.804 đơn khiếu nại, đạt tỷ lệ 95,1% và 1.792/1.834 đơn tố cáo, đạt tỷ lệ 97,7%; Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã giải quyết 23.986/ 28.863 đơn khiếu nại, đạt tỷ lệ 83,1%, và 354/ 361 đơn tố cáo, đạt tỷ lệ 98,1%; Tòa án nhân dân các cấp đã giải quyết 21.801/ 26.121 đơn khiếu nại, đạt tỷ lệ 83,5% và 546/546 đơn tố cáo, đạt tỷ lệ 100%; các cơ quan tư pháp trong quân đội đã giải quyết 910/ 910 đơn khiếu nại đạt tỷ lệ 100% và 205/ 205 đơn tố cáo, đạt tỷ lệ 100%. Nhìn chung, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, có nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp, được gửi trực tiếp cho các cơ quan nhà nước ở trung ương, thậm chí còn gửi tới cá nhân những nhà lãnh đạo của Nhà nước, lãnh đạo ngành, dẫn đến không đúng thẩm quyền. Đối với khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tố tụng hình sự, cho đến nay, chưa có số liệu thống kê riêng biệt, nên đánh giá kết quả khiếu nại, tố cáo còn nhiều hạn chế, đặc biệt, các hoạt động tố tụng theo từng vụ án có khiếu nại, tố cáo, và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo ở vụ việc đó có ảnh hưởng gì đến kết quả vụ án, đây cũng là việc rất khó khăn khi đánh giá kết quả khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 3.2. Tồn tại và những nguyên nhân của tồn tại trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 3.2.1 Những tồn tại của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam Như đã phân tích ở trên, khiếu nại, tố cáo còn diễn biến phức tạp và nhiều bất cập kể cả phương diện lý luận cũng như trên thực tế, cụ thể: Về phương diện lý luận: - Một số chủ thể trong tố tụng hình sự không quy định được quyền khiếu nại, trong khi tham gia tố tụng, những chủ thể này mặc dù chỉ tham gia trong lĩnh vực chuyên môn như người giám định, người phiên dịch. - Chưa phân biệt rõ hoặc quy định chi tiết về hành vi tố tụng, những chủ thể được quyền khiếu nại, tố cáo khó có thể nhận biết đâu là hành vi tố tụng để thực hiện quyền của mình. - Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa có quy định cụ thể về chế tài xử lý đối với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không đúng thời hạn quy định. - Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không quy định về nghĩa vụ chuyển đơn khiếu nại, tố cáo, và thời hạn chuyển đơn khiếu nại, tố cáo. Không quy định về khiếu nại trực tiếp bằng miệng và phương thức giải quyết khiếu nại bằng miệng, đặc biệt trong giai đoạn xét xử. Về phương diện thực tế: 12
  13. Trên thực tế cho thấy, việc phân loại, thụ lý đơn chưa chính xác, nhất là đối với khiếu nại hành vi tố tụng, người giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo không đúng thẩm quyền, đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, đơn khiếu nại của người có quyền khiếu nại thường gửi vượt cấp, về nguyên tắc phải chuyển cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết, song chính cơ quan đó đã giải quyết thay. Bên cạnh đó, việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của người có thẩm quyền còn chưa triệt để, chưa kiên quyết xử lý đối với người thiếu trách nhiệm hoặc thiếu khách quan trong việc giải quyết ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, tố cáo. 3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam - Pháp luật quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tế, tính khả quan không cao, chưa đầy đủ. - Ý thức pháp luật chưa cao của người dân, trình độ còn hạn chế, nhiều bị can, bị cáo chưa nhận thức đầy đủ về quyền, lợi ích hợp pháp của mình, dẫn đến không hiểu quyết định tố tụng nào, hành vi tố tụng nào xâm hại đến lợi ích của họ. - Tính trách nhiệm không có hoặc không cao của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. - Công tác đào tạo, bồi dưỡng liên quan đến khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự chưa được quan tâm đúng mức. Những người tiến hành tố tụng, đặc biệt là những người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tụng vẫn còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số ít còn sa sút về phẩm chất đạo đức, chính trị, vi phạm pháp luật. - Nhiều cá nhân, tổ chức lợi dụng quyền khiếu nại để khiếu nại, tố cáo không có cơ sở, không đúng để gây khó khăn cho người tiến hành tố tụng. Không tin tưởng người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, dẫn đến khiếu nại không đúng thẩm quyền, vượt cấp. 3.3. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 3.3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về chủ thể khiếu nại, tố cáo - Bộ luật Tố tụng hình sự cần quy định và mở rộng quyền được khiếu nại của một số người tham gia tố tụng như người giám định, người phiên dịch. - Cần phải quy định và là nguyên tắc xuyên suốt về nội dung bất cứ hành vi tố tụng, quyết định tố tụng nào có căn cứ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đều bị khiếu nại mà không hạn chế bởi chỉ có cá nhân tham gia tố tụng. 3.3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về đối tượng khiếu nại, tố cáo - Cần phải định nghĩa về mặt pháp lý và quy định cụ thể thế nào là quyết định tố tụng, quyết định tố tụng này khi được định nghĩa pháp lý sẽ phân biệt rõ ràng về nội hàm khác với các quyết định khác không thuộc đối tượng của khiếu nại. - Giải thích pháp lý và đưa ra khái niệm về hành vi tố tụng là đối tượng của khiếu nại, tố cáo. 3.3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm đối với chủ thể của khiếu nại, tố cáo - Quy định cụ thể trách nhiệm của người bị khiếu nại, tố cáo. - Quy định cụ thể trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo. 13
  14. - Tính tự chịu trách nhiệm không cao của người khiếu nại, tố cáo. 3.3.4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo - Quy định về quy trình giải quyết khiếu nại của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 còn thể hiện nhiều bất cập, cần phải quy định về mặt thời gian giải quyết khiếu nại nhanh chóng, kịp thời. Cần quy định thời gian giải quyết tố cáo nhanh hơn, như thông thường là ba mươi ngày, đối với những vụ việc phức tạp, thời gian giải quyết không quá bốn lăm ngày là phù hợp. - Về tham gia của Luật sư trong quá trình khiếu nại, tố cáo. Bộ luật Tố tụng hình sự cần quy định có sự tham gia của Luật sư trợ giúp về khiếu nại, tố cáo để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, tố cáo. - Về hình thức, Bộ luật Tố tụng hình sự cần quy định về khiếu nại trực tiếp bằng miệng. Theo quy định hiện nay, chỉ những trường hợp đặc biệt mới khiếu nại bằng miệng. 3.4. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao nhận thức của người dân, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo Thứ nhất, rà soát lại các quy định pháp luật và các văn bản liên quan về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; ban hành văn bản hướng dẫn về những vấn đề còn thiếu; sửa đổi, bổ sung những quy định còn thiếu, chưa phù hợp, mâu thuẫn của luật khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Thứ hai, các cơ quan tư pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, coi việc thực hiện tốt công tác này là một trong các biện pháp hữu hiệu để góp phần thiếu thực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, làm trong sạch bộ máy nhà nước và độ ngũ cán bộ, công chức. Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự nói riêng trong đội ngũ cán bộ, công chức và nhân dân. Thứ tư, đồng thời với việc tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thì cũng cần có chế độ chính sách hợp lý và đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất thỏa đáng cho công tác này. Thứ năm, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nâng cao năng lực cho đội ngũ những người tiến hành tố tụng trong cơ quan mình, cần có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, đủ tài vào làm việc. KẾT LUẬN 1. Có thể nói, khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền quan trọng của công dân để thông tin tới các cơ quan có thẩm quyền và yêu cầu các cơ quan này bảo đảm những quyền và lợi ích chính đáng của mình khi những vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ gây ra thiệt hại. Do đó, hoạt động khiếu nại, tố cáo là một phương thức để người khiếu nại, tố cáo tự bảo vệ quyền và lợi ích của bản thân mình và của người khác. Khiếu nại, tố cáo là một trong những cách thức thể hiện của một xã hội dân chủ, vì một khi công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo nghĩa là công dân đang thực hiện một cách chủ động quyền công dân mà Nhà nước dành để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bản thân 14
  15. họ. Điều này có ý nghĩa đặc biệt tích cực, nhất là trong tố tụng hình sự khi mà phương pháp mệnh lệnh - phục tùng là phương pháp điều chỉnh đặc trưng. 2. Có thể nói, tố tụng hình sự là nơi cho những phần tử tiêu cực lợi dụng quyền lực nhà nước, nhân danh Nhà nước để mưu đồ trục lợi cá nhân hoặc thậm chí là trả thù cá nhân. Việc phát hiện và loại trừ những hành vi vi phạm pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm minh bạch hóa, dân chủ hóa hoạt động tố tụng. Việc ghi nhận cho người dân quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự chính là sự giám sát việc tuân theo pháp luật có hiệu quả, bởi những vi phạm pháp luật phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án của bản thân họ rất dễ bị phát hiện và dễ bị công khai bởi liên quan trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Hơn nữa, với người tham gia tố tụng, khiếu nại, tố cáo là phương tiện để họ đi đến cùng của hành trình đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp bị các cơ quan tiến hành tố tụng xâm hại. 3. Như trong luận văn đã đề cập, những mặt trái, những bất cập của tố tụng hình sự là những tiêu cực của xã hội, đó là sự mất lòng tin của nhân dân vào hệ thống tư pháp và bộ máy nhà nước, và như vậy, hậu quả tiêu cực không chỉ đối với công dân mà còn đối với cả bộ máy nhà nước. Do vậy, việc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân không những thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với công dân, thể hiện bộ mặt dân chủ và thân dân của nhà nước, mà còn góp phần vào sự ổn định của đời sống xã hội. Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân sẽ giúp thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội, xã hội có tiếng nói nhiều hơn, sâu hơn vào quá trình thực thi các quyền hành pháp và tư pháp, đặc biệt là quyền tư pháp, một lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm gắn liền với các vấn đề chính trị. Khiếu nại, tố cáo cũng chính là minh chứng cho sự tồn tại của một xã hội dân chủ, ở đó, vai trò của người dân và các tổ chức xã hội tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước được đặc biệt coi trọng. References 1. Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp (2006), Hội nghị cán bộ toàn quốc tổng kết Nghị quyết 08- NQ/TW và triển khai thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và công tác tư pháp, Hà Nội. 2. Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp (2006), Kế hoạch, chương trình thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW của các cơ quan tư pháp Trung ương, Hà Nội. 3. Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp (2008), "Tình hình, kết quả giám sát 03 năm việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp", Bản tin cải cách tư pháp, (1). 4. Ban Chỉ đạo thi hành Bộ luật hình sự (2000), Tài liệu tập huấn chuyên sâu về Bộ luật hình sự năm 1999, Nhà in Bộ Công an, Hà Nội. 5. Bộ Nội vụ (1946), Thông tư số 203/NV/VP ngày 25/05 về việc chi tiết hóa Sắc lệnh số 64/SL, Hà Nội. 6. Lê Cảm (1999), "Những cơ sở khoa học - thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật hình sự nước ta trong giai đoạn hiện nay", Khoa học (KHXH), (2). 15
  16. 7. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, tập III, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 8. Lê Cảm (chủ biên) (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, (tái bản lần thứ nhất, 2003). 9. Lê Cảm (chủ biên) (2002), "Những vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới", Thông tin Khoa học pháp lý, (8). 10. Lê Cảm (2003), "Hệ thống pháp luật hình sự Liên bang Nga", Nghiên cứu châu Âu, (1). 11. Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 12. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 13. Lê Cảm (2007), "Tố cáo và giải quyết tố cáo trong luật tố tụng hình sự: Những vấn đề lý luận - thực tiễn và hoàn thiện pháp luật", Khoa học, (Kinh tế - Luật), (23). 14. Lê Cảm - Minh Phượng (2004), "Về người khiếu nại, tố cáo và người bị khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự", Kiểm sát, (10). 15. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2001), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 16. Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 64/SL của ngày 23/11 quy định về việc thành lập Ban thanh tra đặc biệt, Hà Nội. 17. Chính phủ (1947), Sắc lệnh số 09/SL ngày 29/01 quy định về việc ấn định thủ tục truy tố các nhân viên cao cấp trong Chính phủ cùng với các cơ quan hành pháp và tư pháp. 18. Chính phủ (1956), Sắc lệnh số 261/SL ngày 28/03 về việc thành lập Ủy ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ, Hà Nội. 19. Chính phủ (1958), Thông tư số 436/TTg ngày 13/9 quy định trách nhiệm, quyền hạn của chính quyền các cấp trong việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân, Hà Nội. 20. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai ngày 29/10/2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16
  17. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ-TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 24. Nguyễn Ngọc Điệp, Đinh Thị Ngọc Dung (1996), 900 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 25. Nguyễn Ngọc Điệp, Lê Thị Kim Nga (1999), Hỏi đáp về quyền khiếu nại, tố cáo, Nxb Mũi Cà Mau. 26. Đoàn Giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2008), Báo cáo ngày 20-8-2008, Hà Nội. 27. Phạm Hồng Hải (2004), "Khiếu nại, tố cáo theo Luật tố tụng hình sự 2003", Luật học, (6). 28. Hoàng Văn Hạnh (2002), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 29. Hội đồng Bộ trưởng (1982), Nghị định số 58/HĐBT ngày 29/3 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, Hà Nội. 30. Hội đồng Bộ trưởng (1982), Nghị định số 26/HĐBT ngày 15/12 về việc tăng cường tổ chức thanh tra, Hà Nội. 31. Hội đồng Chính phủ (1970), Nghị định số 164/CP ngày 31/8 về việc tăng cường công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống thanh tra, Hà Nội. 32. Hội đồng Chính phủ (1970), Nghị định số 165/CP ngày 31/8 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Thanh tra của Chính phủ, Hà Nội. 33. Hội đồng Chính phủ (1977), Nghị định số 01/CP ngày 03/01 quy định chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Thanh tra Chính phủ, Hà Nội. 34. Hội đồng Nhà nước (1981), Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, Hà Nội. 17
  18. 35. Hội đồng nhà nước (1991), Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân, Hà Nội. 36. Nguyễn Duy Lãm (chủ biên) (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 37. Uông Chu Lưu (chủ biên) (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần chung), Tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Nguyễn Văn Phúc (2007), "Về đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (8). 39. Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hòa (1997), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 40. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 41. Đinh Văn Quế (2002), Bình luật khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm). Tập V - Các tội phạm về chức vụ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 42. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội. 43. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội. 44. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội. 45. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 46. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội. 47. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 48. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự, Hà Nội. 49. Quốc hội (1998), Luật Khiếu nại, tố cáo, Hà Nội. 50. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 51. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội. 52. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội. 53. Quốc hội (2004), Luật Khiếu nại, tố cáo (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 54. Quốc hội (2005), Luật Khiếu nại, tố cáo (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 55. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội. 18
  19. 56. Quốc triều Hình luật (Luật hình triều Lê - Luật Hồng Đức) (2003), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 57. Hoàng Văn Sao, Nguyễn Phúc Thành (2001), Giáo trình Luật tố tụng hành chính, Nxb công an nhân dân, Hà Nội. 58. Kiều Đình Thụ (1998), Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, Nxb Đồng Nai. 59. Phan Hữu Thư (2004), Sổ tay Luật sư, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 60. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội. 61. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng, Hà Nội. 62. Tòa án nhân dân tối cao (1992), Các văn bản về hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, Hà Nội. 63. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, mã số 2000/98/040/ĐT, Hà Nội. 64. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Công văn số 120 ngày 18/09/2003 về giải quyết khiếu nại, tố cáo, Hà Nội. 65. Từ điển Tiếng Việt (2002), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 66. Đào Trí Úc (chủ biên) (1993), Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 67. Đào Trí Úc (chủ biên) (1994), Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 68. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam (Quyển I - Những vấn đề chung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 69. Ủy ban Thanh tra Chính phủ (1982), Thông tư số 02/TT ngày 04/5 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, Hà Nội. 70. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1996), Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Hà Nội. 71. Viện Khoa học Kiểm sát (2007), Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 19
  20. 72. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển, (Tài liệu tham khảo), Bản dịch tiếng Việt, Hà Nội. 73. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Bộ luật Tố tụng hình sự Canada 1994, (Tài liệu tham khảo), Bản dịch tiếng Việt, Hà Nội. 74. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga, (Tài liệu tham khảo), Bản dịch tiếng Việt, Hà Nội. 75. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tư pháp (2005), Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT ngày 10/8 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo, Hà Nội. 76. Nguyễn Cửu Việt (2000), Luật Hành chính nhà nước, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 77. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 78. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 79. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2004), Bình luận Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 80. Võ Khánh Vinh (2003), Lợi ích xã hội và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. TRANG WEB 81. Http://www.luathinhsuhoa.com.vn 20
nguon tai.lieu . vn