Xem mẫu

  1. THỜI SỰ CHÍNH TRỊ KHAI MẠC KỲ HỌP THỨ TƯ QUỐC HỘI KHÓA XII Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng báo cáo trước Quốc hội Ảnh: TTXVN N gày 16/10/2008 tại Thủ đô Hà Nội đã khai mạc trọng thể kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XII. Các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các vị lão thành cách mạng, các vị khách quốc tế và đông đủ các vị đại biểu Quốc hội đã tham dự lễ khai mạc. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn khai mạc kỳ họp. T ạ i phiên khai mạ c, thay mặ t Chính phủ , Thủ tướ ng Nguyễ n Tấ n Dũng đã báo cáo vớ i Quố c hộ i và đồ ng bào cả nướ c nhữ ng vấ n đề lớ n củ a tình hình kinh tế, xã hộ i năm 2008; mụ c tiêu, nhiệ m vụ và giả i pháp chủ yế u củ a kế hoạ ch phát triển kinh tế , xã hộ i năm 2009. Bả n báo cáo gồ m hai phầ n lớ n. P hầ n thứ nhấ t: Đánh giá tình hình kinh tế , xã hộ i năm 2008; Phầ n thứ hai: Mụ c tiêu, nhiệ m vụ và giả i pháp phát triể n kinh tế , xã hộ i năm 2009.
  2. Tạp chí trân trọng giới thiệu những nội dung cơ bản về cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí: Phần thứ nhất: đánh giá tình hình kinh tế, xã hội năm 2008 “... 5. Cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí có những chuyển biến tích cực Đã khẩn trương triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Tổ chức các Bộ và cơ quan chuyên môn của chính quyền địa phương tiếp tục được kiện toàn. Chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội, bảo đảm sự ổn định và tính liên tục trong các hoạt động của Thủ đô. Đang tập trung rà soát 14 loại thủ tục hành chính còn gây khó khăn, phiền hà cho người dân và doanh nghiệp; đã công khai, minh bạch và đơn giản hoá việc đăng ký kinh doanh, kê khai nộp thuế, đăng ký phương tiện giao thông, xuất nhập cảnh; đang tích cực rà soát để giảm tối đa đối với 33 thủ tục trong đầu tư xây dựng. Nhiều Bộ, địa phương triển khai có kết quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông, làm thêm ngày thứ 7 để giải quyết các yêu cầu thiết thực của nhân dân. Một số dịch vụ công đã được xã hội hoá đem lại kết quả tích cực. Các Bộ, địa phương đã triển khai thực hiện chương trình kế hoạch về phòng chống tham nhũng; coi trọng việc phòng ngừa và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm. Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng của Trung ương và các địa phương được kiện toàn về tổ chức và hoạt động. Công tác hoàn thiện thể chế, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng chống tham nhũng được đẩy mạnh. Việc điều tra và xử lý các vụ việc tham nhũng được thực hiện đúng pháp luật. Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được các ngành, các cấp, các doanh nghiệp và nhân dân hưởng ứng tích cực. Nhiều doanh nghiệp đã có các biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Nguồn tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong 8 tháng cuối năm (tương đương 25% dự phòng ngân sách nhà nước năm 2008) được bổ sung cho việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh. II. Những hạn chế yếu kém 5. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu là khâu đột phá; kết quả phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí còn thấp. Công tác xây dựng thể chế còn chậm, chất lượng chưa cao; việc kiện toàn bộ máy, tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu. Thủ tục hành chính còn rườm rà, việc thực hiện ở nhiều nơi vẫn còn tuỳ tiện, chưa công khai, minh bạch. Không ít cán bộ, công chức
  3. còn tiêu cực, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho dân. Một số nơi, lãnh đạo chủ chốt chưa quan tâm đúng mức cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án tham nhũng vẫn còn chậm. Phần thứ hai: mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế, xã hội năm 2009 II. Về các giải pháp lớn 7. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng Tiếp tục thực hiện đồng bộ công tác cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, làm cho khâu đột phá này có bước tiến mới về chất. Kiên quyết loại bỏ những giấy phép không cần thiết; công khai minh bạch các thủ tục hành chính; mở rộng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết các việc liên quan đến người dân và doanh nghiệp. Trên cơ sở những cách làm tốt nhất ở các ngành, các địa phương, xây dựng mô hình chuẩn về giải quyết thủ tục hành chính để áp dụng chung cả nước. Triển khai chặt chẽ việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường và nhân dân bầu trực tiếp Chủ tịch ủy ban nhân dân xã. Thực hiện Chương trình Chính phủ điện tử, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý nhà nước; đổi mới phương thức điều hành của cả hệ thống hành chính; từng bước hiện đại hoá nền hành chính. Giảm mạnh hội họp. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm gắn với thực hiện tốt cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong phòng chống tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng các cấp. Đẩy nhanh việc xét xử các vụ việc vi phạm. Thực hiện minh bạch, công khai cơ chế chính sách, quy hoạch phát triển... coi đây là tiền đề quan trọng trong phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với công tác này...”./.
  4. THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRIỂN KHAI NHANH NGHỊ QUYẾT 15 CỦA QUỐC HỘI NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC Uỷ viên Thường vụ Thành uỷ Giám đốc Sở Nội vụ Thành phố Hà Nội N gày 29/5/2008 kỳ họp thứ Ba, Quốc hội khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 15/2008/QH12 về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan. Theo đó, sau khi hợp nhất với tỉnh Hà Tây, tiếp nhận toàn bộ huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã của huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình, thành phố Hà Nội có quy mô 3.344,7 km2; dân số 6.232.940 người; với 29 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 9 quận, 2 thành phố (Hà Đông và Sơn Tây), 18 huyện; có 577 đơn vị hành chính cấp xã gồm: 409 xã, 147 phường và 21 thị trấn. Biên chế hành chính, sự nghiệp khối quận, huyện, thành phố trực thuộc thành phố Hà Nội là 68.032 người, trong đó biên chế hành chính là 4.644 người, biên chế sự nghiệp là 63.388 người; tổng số công chức, cán bộ chuyên trách, cán bộ không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn là 47.363 người, trong đó công chức cấp xã có 4.753 người, cán bộ chuyên trách có 6.031 người, cán bộ không chuyên trách có 36.579 người. Ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 168-QĐ/TW ngày 23/6/2008 về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về sắp xếp tổ chức, cán bộ của thành phố Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính; Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản số 956/TTg-NC về việc triển khai kết luận của Trung ương và Nghị quyết của Quốc hội, Bộ Nội vụ đã chủ trì phối hợp với Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc UBND thành phố Hà Nội và các tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hòa Bình và các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện Nghị quyết 15/2008/QH12 của Quốc hội. Các bộ, ngành có liên quan đã ban hành các văn bản hướng dẫn các cơ quan chuyên môn thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của ngành. Ngày 1/8/2008 Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Chỉ thị số 01/ CT-UBND về thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội. Cùng với Hà Nội, các tỉnh Hà Tây, Hòa Bình, Vĩnh Phúc trên cơ sở các văn bản của Trung ương, các bộ, ngành đã ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về công tác tổ chức, biên chế, công tác
  5. cán bộ, kiện toàn sắp xếp bộ máy, công tác kiểm kê, bàn giao… và đã hoàn thành đúng tiến độ về thời gian theo quy định. Trên cơ sở đề án sắp xếp lại tổ chức bộ máy chính quyền của thành phố được Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (mới) thông qua, UBND thành phố đã ban hành các quyết định về việc hợp nhất, thành lập 20 sở, ban, ngành; bổ nhiệm 20 giám đốc và hơn 150 phó giám đốc và tương đương các sở, ban ngành thành phố. Thủ trưởng các sở, ban, ngành đã chủ động tiến hành phân công trong tập thể lãnh đạo và tổ chức sắp xếp lại các phòng, ban chuyên môn theo hướng tinh gọn, không chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Riêng những đơn vị có tính đặc thù thì giữ nguyên để ổn định về tổ chức bộ máy và công tác cán bộ. Tính đến nay, UBND thành phố ban hành Quyết định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và biên chế của 18 đơn vị (trong đó có 14 sở, ngành). Số còn lại 5 đơn vị (trong đó có 4 sở, ngành) đang được UBND thành phố xem xét quyết định và 2 sở, ngành đang được Sở Tư pháp thẩm định. Đồng thời ban hành quyết định thành lập 70 đơn vị cấp 2 trực thuộc các sở, ban, ngành làm cơ sở để các đơn vị này nhanh chóng ổn định đi vào hoạt động. Các tổ chức hội như: Hội chữ thập đỏ, Hội Luật gia, Hội Nhà báo, Hội Người cao tuổi, Liên hiệp Hội văn học nghệ thuật.v.v… phần lớn đã tiến hành xong việc hợp nhất, bầu chủ tịch hội. Công tác sắp xếp, bố trí trụ sở làm việc, chuyển giao, tiếp nhận, quản lý tài sản của các cơ quan, đơn vị và bố trí phương tiện đi lại cho cán bộ, công chức đã được thành phố khẩn trương triển khai thực hiện (20 cơ quan, đơn vị bố trí trụ sở tại Hà Nội, 9 cơ quan, đơn vị đóng trụ sở tại Hà Đông). Tất cả các cơ quan, đơn vị đã công bố công khai địa chỉ trụ sở làm việc; địa điểm tiếp nhận, giải quyết các giao dịch hành chính, dân sự, số fax, số điện thoại, địa chỉ thư điện tử.v.v… để các tổ chức và nhân dân biết và đến giao dịch ngay từ ngày 1/8/2008. Ngay sau khi hoàn thành việc bố trí, sắp xếp trụ sở làm việc của các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể thành phố (đơn vị cấp 1), UBND thành phố đã chỉ đạo thống kê, báo cáo số cán bộ, nhân viên, diện tích nhà, đất của các đơn vị cấp 2 trực thuộc các sở, ban, ngành, đoàn thể để sớm bố trí ổn định nơi làm việc cho các đơn vị này. Về công tác xây dựng chính quyền, thành phố đã tổ chức kỳ họp hợp nhất ngay trong hai ngày đầu tháng 8/2008, tiến hành bầu cử và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn các chức danh của HĐND, UBND thành phố Hà Nội (mới), bảo đảm các hoạt động quản lý, điều hành của thành phố được thực hiện bình thường, đúng các quy định của pháp luật. Tổ chức và hoạt động của UBND huyện Mê Linh chịu sự chỉ đạo của UBND thành phố Hà Nội và
  6. hoạt động theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Trong khi chờ Chính phủ ban hành Nghị định xác định chính thức về địa giới hành chính, trên cơ sở nguyện vọng của cán bộ và nhân dân các xã, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành quyết định tạm thời về mặt hành chính đối với các xã Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung về sinh hoạt ở huyện Thạch Thất và xã Đông Xuân về huyện Quốc Oai thành phố Hà Nội. Đến giữa tháng 9/2008, các sở, ban, ngành của thành phố đã bàn giao xong các nội dung công tác chuyên môn liên quan đến sở, ngành quản lý đối với huyện Mê Linh. Hai huyện Quốc Oai, Thạch Thất cùng với huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình đã hoàn thành việc bàn giao chi tiết đối với 4 xã. Hiện nay việc quản lý hành chính cũng như mọi hoạt động giao dịch hành chính, dân sự của các tổ chức và công dân tại các địa phương nêu trên đã đi vào nền nếp. Nhằm tạo thuận lợi cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong giao dịch hành chính, dân sự, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện, UBND thành phố đã có văn bản chỉ đạo các sở, ban, ngành, quận, huyện, xã, phường, thị trấn tập trung tiến hành rà soát lại các thủ tục hành chính, sớm thống nhất về thủ tục hành chính trong các lĩnh vực. Trước mắt, trước ngày 15/10/2008 hoàn thành rà soát, hợp nhất, ban hành 28 văn bản mới trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách có nội dung liên quan chủ yếu đến các lĩnh vực “nhạy cảm” như giải phóng mặt bằng, đất đai, đầu tư, chính sách xã hội, cán bộ.v.v… Các sở, ban, ngành của thành phố đã nghiêm túc thực hiện bảo đảm đúng tiến độ. Sau gần ba tháng thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội, đến nay mọi công việc chuyển giao, hợp nhất và tổ chức bộ máy của thành ph ố Hà Nội cơ bản đã hoàn thành. Việc hợp nhất các sở, ngành bảo đảm thực hiện theo sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương theo nguyên tắc hợp nhất nguyên trạng, có tính yếu tố đặc thù của từng cơ quan, đơn vị nên tổ chức bộ máy đã nhanh chóng ổn định và đi vào hoạt động. Bên cạnh đó, công tác bố trí sắp xếp cán bộ, bổ nhiệm các chức danh được chuẩn bị chu đáo, khoa học, công khai, thực hiện đúng quy trình về công tác cán bộ; có sự đoàn kết nhất trí trong các cấp, các ngành đã tạo nên sức mạnh tập thể đoàn kết, nhất trí gắn bó trong nội bộ từng cơ quan, đơn vị. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Hà Nội đều nhận thức việc mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội là một chủ trương lớn, đúng đắn của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ, có ý nghĩa lịch sử to lớn nhằm tạo thế và lực mới để Thủ đô Hà Nội phát triển nhanh, ổn định và bền vững, vươn lên xứng tầm với “Hà Nội - Trái tim của cả nước”./.
  7. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH THẤM NHUẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ VÕ THANH BÌNH Trường Chính trị tỉnh Kon Tum B ia Văn Miếu dưới thời Lê Thánh Tông có đoạn viết: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí yếu thì thế nước yếu và càng xuống thấp”. Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi ngày xưa chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí. Đối với nước ta hiện nay, điều này càng có ý nghĩa quan trọng vừa có tính cấp bách, vừa có tính cơ bản lâu dài. Bởi rằng công tác cán bộ là quan trọng nhất, là khâu then chốt của vấn đề xây dựng Đảng. Muốn làm tốt vấn đề này, chúng ta cần luôn luôn quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định thắng lợi đối với sự nghiệp cách mạng và đối với công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đào tạo, huấn luyện cán bộ. Người chỉ thị: “Các cơ quan cần phải chú ý đến việc huấn luyện cán bộ”, “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Trong công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải có phương thức thực hiện đúng đắn, Đảng “phải biết rõ cán bộ” để “tìm thấy những nhân tài mới” để “những người hủ hoá cũng lòi ra”, “phải cất nhắc cán bộ một cách cho đúng” để công việc thành công, “phải khéo dùng cán bộ” để công việc đạt hiệu quả, “phải phân phối cán bộ cho đúng” để lĩnh vực nào cũng có người làm việc, có người chịu trách nhiệm trước công việc, trước nhân dân, “phải giúp cán bộ cho đúng” để họ yên tâm tận tâm, tận lực với công việc, “phải giữ gìn cán bộ” để đội ngũ cán bộ không bị hao mòn đi. Những phương châm, hành động trong công tác cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đúng đắn trong mọi giai đoạn cách mạng và có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay. Vì vậy hơn lúc nào hết, thực hiện đúng phương châm về cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ không chỉ quản lý, sử dụng
  8. có hiệu quả lực lượng cán bộ hiện có mà còn làm cho đội ngũ cán bộ ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng với việc vạch ra phương châm chỉ đạo chung đối với người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra trách nhiệm và những việc làm cụ thể của người cán bộ lãnh đạo quản lý để xây dựng và phát huy khả năng của đội ngũ cán bộ, hạn chế những thiếu sót sai lầm. Bởi không phải ai khác mà chính họ là người trực tiếp thực hiện công tác cán bộ của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn vạch rõ cán bộ lãnh đạo quản lý phải biết “chỉ đạo”, nâng cao năng lực cán bộ, phải biết hết cán bộ, phải khéo dùng cán bộ, cân nhắc cán bộ, yêu thương cán bộ, phê bình cán bộ. Thực hiện tốt nội dung yêu cầu đó sẽ làm cho việc sử dụng, bố trí cán bộ hợp lý, có hiệu quả. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, ở một số cấp, ngành trong nhiều lĩnh vực đang thiếu những cán bộ có khả năng đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ mới. Đó là thực tế trong quá trình phát triển. Do đó phải dày công đào tạo, huấn luyện mới có thể xây dựng đội ngũ cán bộ trung thành, tận tụy, có đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Nếu người cán bộ lãnh đạo, quản lý khéo dùng “biết dùng người đúng chỗ đúng việc” như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn thì “tài nhỏ hoá tài to”, góp phần giảm bớt sự thiếu hụt cán bộ. Nhưng nếu cán bộ lãnh đạo, quản lý mắc các chứng bệnh “ham dùng người bà con, anh em quen biết”, “ham dùng người nịnh hót mình”... không khéo thì “tài to cũng hoá ra tài nhỏ” dẫu có trong tay cả một “mớ cán bộ” thì cũng vẫn cứ thiếu, mở nhiều trường lớp, đào tạo thật nhiều cũng không đủ. Như vậy sự thiếu, đủ cán bộ không chỉ đơn thuần thể hiện ở số lượng của đội ngũ cán bộ, mà còn phụ thuộc vào sự “khéo hay không khéo” dùng người của người lãnh đạo, quản lý và cái tâm, cái tầm ở họ. Vấn đề cán bộ là vấn đề chung của toàn Đảng, nhưng cũng là vấn đề cụ thể trực tiếp của mỗi cán bộ quản lý, lãnh đạo. Đội ngũ cán bộ có lớn hay không, có đủ sức đảm đương các nhiệm vụ mới hay không, vừa phụ thuộc vào chủ trương, đường lối chung, vừa phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ cán bộ quản lý. Vì vậy cùng với việc đổi mới chủ trương, biện pháp, chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ theo tinh thần Hội nghị Trung ương ba khoá VIII của Đảng, chúng ta phải thường xuyên học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ. Đội ngũ cán bộ hiện nay đang bộc lộ một số mặt yếu kém. Không ít cán bộ dao động, giảm sút niềm tin, nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội. Một bộ phận cán bộ thoái hoá, biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công, quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng độc đoán, tham vọng cá nhân, cục bộ, kèn cựa,
  9. địa vị, cơ hội, kém ý thức tổ chức kỷ luật, gây mất đoàn kết nội bộ... Đội ngũ cán bộ không đồng đều, vẫn còn tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu”, trình độ kiến thức, năng lực của một số cán bộ lãnh đạo quản lý chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những yếu kém về công tác cán bộ thời gian qua đã được Đảng ta chỉ rõ: “việc đánh giá, sử dụng cán bộ nhiều khi còn chủ quan, chưa thật công tâm, chưa hợp lý, thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức... Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng cán bộ. Chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp... Nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo quản lý công tác cán bộ và nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được cụ thể hoá...” (Văn kiện Hội nghị Trung ương ba khoá VIII). Từ những khuyết điểm, yếu kém của công tác cán bộ trong thời gian qua, những yêu cầu đặt ra đối với công tác cán bộ trong tình hình hiện nay là rất cấp bách. Hiện nay toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, một sự kiện lớn trong đời sống chính trị của đất nước ta. Một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng về chính trị tư tưởng, tổ chức, trong đó có công tác cán bộ. Những tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ đã được Đảng ta nghiên cứu vận dụng sáng tạo và được bổ sung phát triển trong các Nghị quyết, chính sách của Đảng; những giá trị lý luận và thực tiễn trong các tác phẩm của Người về vấn đề này đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ trở thành kho tàng lý luận vô cùng quý báu đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm thời đại, đáp ứng nhiệm vụ cách mạng hiện nay, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta./.
  10. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO TRIỂN KHAI CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG GIAI ĐOẠN II (2006-2010) TRỊNH QUANG SỬ Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng Đ ể thực hiện tốt Chương trình cải cách hành chính giai đoạn II (2006 -2010), khắc phục những tồn tại, yếu kém đã được chỉ ra, với mục tiêu: tạo chuyển biến mạnh hơn hẳn các năm trước để Hải Phòng đứng trong tốp dẫn đầu các địa phương cả nước về cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính nhà nước của thành phố năng động hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; năm 2006 Thành uỷ và Hội đồng nhân dân (HĐND) thành phố đã thống nhất chọn chủ đề hành động của năm là "Năm cải cách hành chính". Uỷ ban nhân dân (UBND) thành phố xây dựng Đề án số 1187/ĐA-UBND ngày 8/3/2006 về đẩy mạnh cải cách hành chính giai đoạn 2006 - 2010; Ban Thường vụ Thành uỷ đã ra Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 21/3/2006; HĐND thành phố ban hành Nghị quyết số 07/2006/ NQ-HĐND ngày 7/4/2006 về đẩy mạnh cải cách hành chính giai đoạn (2006 - 2010) của thành phố Hải Phòng, nhằm xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ, lộ trình, giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính của thành phố. Tiếp đó, để cụ thể hoá nhiệm vụ cải cách hành chính trong năm 2006, UBND thành phố ban hành Quyết định số 876/2006/QĐ-UBND ngày 26/4/2006 về Danh mục các nhiệm vụ cụ thể triển khai chương trình hành động thực hiện chủ đề: “Năm cải cách hành chính-2006” với mục tiêu: tạo bước chuyển biến rõ nét trong cải cách các thủ tục hành chính; tạo sự thông thoáng, hấp dẫn cho môi trường đầu tư kinh doanh; nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức… Trong cải cách thủ tục hành chính, thành phố Hải Phòng tập trung nâng cao chất lượng của bộ phận "một cửa" để khắc phục tình trạng “một cửa” như “văn thư cải tiến” thông qua thực hiện thí điểm một số mô hình bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế "một cửa" mới: "một cửa" mẫu, hiện đại; "một cửa" liên thông; "một cửa" có phần độc lập, chuyên trách. UBND thành phố đã chọn hai quận Hồng Bàng, Ngô Quyền và Sở Kế hoạch và Đầu tư làm điểm về mô hình
  11. "một cửa" mẫu, hiện đại và "một cửa" liên thông. Đặc biệt, mô hình “một cửa” mẫu, hiện đại, được học tập tiếp thu kinh nghiệm từ thành phố Hồ Chí Minh và được nâng lên một bước về chất bằng việc: làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, công chức, đảng viên; sắp xếp lại nhiệm vụ các phòng chuyên môn để chuyển những nhiệm vụ mang tính dịch vụ công về bộ phận “một cửa” giải quyết tại chỗ; lựa chọn những cán bộ, công chức có phẩm chất và trình độ năng lực bố trí làm việc tại bộ phận “một cửa”; tập huấn dài ngày cho toàn bộ cán bộ, công chức của UBND cấp quận và lãnh đạo UBND cấp phường về cải cách hành chính; kết hợp áp dụng ISO hành chính và công nghệ thông tin; sửa chữa, cải tạo địa điểm làm việc của bộ phận “một cửa” rộng rãi, hiện đại để phục vụ nhân dân… Đồng thời với việc tập trung chỉ đạo thực hiện “một cửa” mẫu, hiện đại; việc nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức cũng được chỉ đạo quyết liệt hơn, cụ thể là: rà soát điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các phòng chuyên môn để tránh chồng chéo, phân công cụ thể nhiệm vụ cho từng cán bộ, công chức; trên cơ sở đó từng cán bộ, công chức viết cam kết thực hiện tốt nhiệm vụ và phòng chống tiêu cực theo Quyết định số 3203/ QĐ-UB của UBND thành phố và tổ chức giám sát thực hiện cụ thể, tránh hình thức. Công tác tập huấn, tuyên truyền cũng được quan tâm chỉ đạo thường xuyên, mở nhiều lớp, theo nhiều đợt và theo hệ thống ngành, đoàn thể đến cấp cơ sở, tập trung vào tập huấn kiến thức, nghiệp vụ về công tác cải cách hành chính của thành phố, nhằm chuyển quyết tâm của lãnh đạo thành phố đến với đội ngũ cán bộ, công chức các ngành, các cấp và nhân dân. Song song với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ đề ra, lãnh đạo UBND thành phố tập trung kiểm tra, hướng dẫn các sở, ngành, UBND các cấp trong lập kế hoạch cụ thể và triển khai nhiệm vụ cải cách hành chính của sở, ngành, địa phương mình. Năm 2007, nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém và phát huy những kết quả công tác cải cách hành chính năm 2006; Thành uỷ, HĐND, UBND thành phố đã tiếp tục chọn chủ đề hành động của năm là “đẩy mạnh cải cách hành chính”. UBND thành phố ra Quyết định số 351/2007/QĐ-UBND ngày 8/3/2007 ban hành kế hoạch thực hiện chủ đề: "Năm đẩy mạnh cải cách hành chính - 2007” của thành phố Hải Phòng, với 17 nhiệm vụ và 5 giải pháp cụ thể: Tập trung đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, chú trọng vào các nội dung quy tắc ứng xử, văn minh công sở, kỹ năng hành chính; tuyên truyền sâu rộng về Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt. Tổ chức
  12. thi tuyển công chức dự bị, có đổi mới, có cạnh tranh, công bằng, công khai, bước đầu góp phần nâng cao chất lượng “đầu vào” của công chức; triển khai thi tuyển công chức cấp xã… Với mô hình “một cửa” mẫu, hiện đại tại quận Ngô Quyền, Hồng Bàng và theo Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ, tiếp tục hoàn thiện và triển khai mở rộng mô hình “một cửa” liên thông, hiện đại tại quận Kiến An, Hải An, Lê Chân, huyện Thuỷ Nguyên và Bảo hiểm xã hội thành phố; làm điểm bộ phận “một cửa” liên thông, hiện đại tại 5 phường của quận Ngô Quyền, quận Hồng Bàng đối với lĩnh vực cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy phép xây dựng. Coi đây là khâu “bản lề” để các địa phương thực hiện có chất lượng hơn các nội dung cải cách hành chính. Chủ tịch UBND thành phố dành nhiều thời gian hơn để kiểm tra, chỉ đạo quyết liệt công tác cải cách hành chính tại các cơ quan, đơn vị trọng điểm trong thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính; tăng cường việc giám sát của HĐND các cấp, của các tổ chức đoàn thể xã hội đối với công tác cải cách hành chính; tổ chức lấy phiếu thăm dò dư luận đánh giá cán bộ, công chức và 10 cơ quan hành chính nhà nước về thực hiện cải cách hành chính và về tinh thần phục vụ nhân dân. Qua hai năm (2006 và 2007) tập trung chỉ đạo thực hiện sâu nội dung cải cách thể chế, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính và đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, công tác cải cách hành chính của thành phố đã đạt được những kết quả quan trọng. Thời gian giải quyết thủ tục hành chính tại Sở Kế hoạch và Đầu tư, quận Ngô Quyền, Hồng Bàng đã giảm 80%, số lượng thủ tục hành chính được giải quyết tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ trước đó. Kết quả thăm dò cho thấy 94% người dân và tổ chức đã hài lòng với việc giải quyết thủ tục hành chính và tinh thần thái độ phục vụ của cán bộ, công chức bộ phận “một cửa” liên thông, hiện đại. Năm 2008, thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 1/8/2007 của Hội nghị Trung ương 5 (khoá X) về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, Thành uỷ đã tiếp tục chọn chủ đề hành động của năm 2008 là “đẩy mạnh cải cách hành chính và giải phóng mặt bằng”. Ban Thường vụ Thành uỷ đã tổ chức sơ kết 2 năm (2006-2007) thực hiện Nghị quyết chuyên đề về đẩy mạnh cải cách hành chính; ban hành Chương trình hành động số 16-CTr/TU ngày 25/3/2008 thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về đẩy mạnh cải cách hành chính; UBND thành phố tập trung chỉ đạo triển khai cải cách hành chính trên cả 5 nội dung: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công và hiện đại
  13. hoá nền hành chính nhà nước; đã ban hành Quyết định số 613/QĐ-UBND ngày 16/4/2008 về Kế hoạch cải cách hành chính năm 2008, thực hiện chủ đề “đẩy mạnh cải cách hành chính và giải phóng mặt bằng” với một số việc chính là: hoàn thành có chất lượng việc sắp xếp các cơ quan chuyên môn theo Nghị định số 13,14 của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; tiếp tục nhân rộng mô hình “một cửa” liên thông, hiện đại; nâng cao chất lượng trong đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng cán bộ, công chức; cải cách hành chính trong giải phóng mặt bằng; xây dựng cổng thông tin điện tử thành phố đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá nền hành chính, phục vụ tốt tổ chức và nhân dân thành phố. Triển khai thực hiện các Nghị định số 13, 14 của Chính phủ, Ban Thường vụ Thành uỷ đã xây dựng Đề án số 03-ĐA/TU ngày 25/3/2008 về việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X); Ban cán sự Đảng UBND thành phố xây dựng Đề án số 1348/ĐA-BCSĐ ngày 19/3/2008 về việc sắp xếp các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố và UBND quận, huyện. Do có chuẩn bị chu đáo và có bước đi thích hợp nên việc triển khai thực hiện bảo đảm đúng tiến độ quy định và chất lượng; số cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố sau khi sắp xếp còn 18 sở; số phòng chuyên môn thuộc UBND quận, huyện sau sắp xếp lại còn 12 phòng theo quy định. Việc bố trí, sắp xếp cán bộ lãnh đạo (nhất là cấp phó) thuộc các sở đã tương đối hợp lý so với quy định của Chính phủ. Số tạm vượt không nhiều (hiện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có 5 phó giám đốc; Sở Công Thương có 4 phó giám đốc; Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch có 6 phó giám đốc; còn lại các sở đều bảo đảm đúng quy định về số lượng cán bộ lãnh đạo. Ở cấp quận, huyện số cán bộ lãnh đạo phòng ít hơn hoặc đúng quy định). Về sắp xếp tổ chức: đã chủ động thành lập Chi cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình; Ban Thi đua - Khen thưởng và Ban Tôn giáo được tổ chức lại tương đương Chi cục thuộc Sở Nội vụ. Các sở hợp nhất đều thực hiện hợp nhất Văn phòng, Thanh tra, Phòng Kế hoạch- Tài chính (nếu có) để thống nhất điều hành ngay. Vì vậy, không vướng mắc hoặc phải thành lập lại Chi cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, Ban Thi đua - khen thưởng, Ban Tôn giáo… như một số địa phương khác. Tiếp tục nhân rộng mô hình “một cửa” liên thông, hiện đại tại các quận Dương Kinh, Đồ Sơn, huyện Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, An Dương và mở rộng mô hình liên thông, hiện đại xuống 10 phường, xã tại các quận Hồng Bàng, Ngô Quyền, Kiến An, Hải An, Lê Chân và huyện Thuỷ Nguyên (đến nay các địa phương đã cơ bản hoàn thành các khâu chuẩn bị, đang tiếp tục hoàn thiện để đưa
  14. vào hoạt động trong tháng 11-12/2008). Chỉ đạo từng bước nâng cao chất lượng “một cửa” trong từng cơ quan: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường để tiến tới “một cửa” liên thông trong lĩnh vực giải quyết các thủ tục cho dự án đầu tư, xây dựng. Tập trung thực hiện thí điểm việc thi tuyển chọn một số chức danh lãnh đạo cấp phòng, đơn vị sự nghiệp theo Đề án của UBND thành phố. Đến nay, Hải Phòng đã tổ chức thi tuyển chọn chức danh trưởng, phó trưởng phòng của Sở Nội vụ; đang tích cực chuẩn bị thi tuyển chức danh trưởng, phó trưởng phòng hoặc trưởng, phó đơn vị sự nghiệp tại Sở Tư pháp, Sở Công Thương, Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Giáo dục và Đào tạo, quận Lê Chân, huyện Thuỷ Nguyên. Đổi mới cách thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về cải cách hành chính, quản lý nhà nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Triển khai một số đề án xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao… Nhìn chung, với những kết quả đạt được, thành phố đã huy động được cả hệ thống chính trị tham gia vào công tác cải cách hành chính, đóng góp cho việc tuyên truyền, giáo dục về cải cách hành chính, giám sát thực hiện cải cách hành chính và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Tạo chuyển biến lớn trong nhận thức của lãnh đạo các cấp uỷ đảng, chính quyền về công tác cải cách hành chính; tạo ra nhiều điểm sáng về công tác cải cách hành chính. Tuy nhiên, so với yêu cầu vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các cấp, ngành chưa thường xuyên, nghiêm túc và bài bản; công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện của người đứng đầu ở một số sở, ngành, UBND các cấp còn thiếu kiên quyết, chưa thực sự quyết liệt, đồng bộ để tạo sự chuyển biến thực sự đối với công tác cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” nói riêng; chưa đổi mới nhiều trong công tác đào tạo, bồi dưỡng; triển khai “một cửa” liên thông trong lĩnh vực giải quyết các thủ tục cho dự án đầu tư xây dựng còn khó khăn, vướng mắc. Chất lượng cải cách hành chính chưa đồng đều, rộng khắp... Qua gần 3 năm triển khai thực hiện giai đoạn II, UBND thành phố Hải Phòng rút ra một số kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo triển khai công tác cải cách hành chính là: 1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với nhiệm vụ cải cách hành chính theo đúng tư tưởng chỉ đạo của Thành uỷ là: cải cách hành chính gắn với xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, phải thật sự trở thành quyết tâm chính trị của toàn Đảng bộ, quân và dân
  15. thành phố. Gắn cải cách hành chính với đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền; nâng cao chất lượng công tác của các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. 2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, chính quyền trong triển khai các nội dung, nhiệm vụ của cải cách hành chính; đồng thời xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân. Qua kiểm tra giám sát, kịp thời nhân rộng các mô hình thực hiện có hiệu quả; đồng thời phát hiện, xử lý kịp thời những tổ chức, cá nhân có sai phạm. 3. Coi trọng công tác thí điểm, làm điểm trong triển khai cải cách hành chính. Thông qua thí điểm để đánh giá, sơ kết, tổng kết, rút ra những vấn đề cần xử lý tiếp và nhân rộng, bảo đảm cải cách hành chính đạt hiệu quả cao; việc lựa chọn đúng một số lĩnh vực làm khâu đột phá để công tác cải cách hành chính đạt kết quả cao là yếu tố quan trọng bảo đảm sự thành công. 4. Vai trò, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là yếu tố quyết định: qua kiểm tra thực tế các sở, ngành, địa phương triển khai cải cách hành chính đạt kết quả tốt có nguyên nhân quyết định là sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ và đích thân người đứng đầu cơ quan, đơn vị. 5. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và cải cách hành chính. Các cơ quan hành chính nhà nước trước hết phải coi nhân dân và doanh nghiệp là đối tượng để hướng dẫn và phục vụ. Phải tạo cho được sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, trước hết là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp. 6. Vai trò của cơ quan chuyên môn, bộ phận tham mưu của người đứng đầu uỷ ban nhân dân thành phố, các sở, ngành, địa phương là rất quan trọng; nếu năng lực yếu cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả cải cách hành chính. 7. Cần chọn, bố trí cán bộ, công chức có đủ trình độ năng lực chuyên môn, và thái độ phục vụ tốt ở bộ phận “một cửa”; cần đào tạo chuyên sâu cho cán bộ, công chức về cải cách hành chính và cơ chế “một cửa”; có chế độ, chính sách phù hợp cho đội ngũ này. 8. Cải cách hành chính phải triển khai đồng bộ từ trên xuống dưới, gắn cải cách hành chính với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tạo điều kiện cao nhất để nhân dân, tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp giám sát, kiểm tra công tác cải cách hành chính; chú ý lấy ý kiến nhân dân, đối thoại trực tiếp với nhân dân và doanh nghiệp. Tổ chức lấy phiếu đánh giá từ nhân dân và doanh nghiệp về bộ máy
  16. hành chính nhà nước và kết quả thực hiện cải cách hành chính là cần thiết, để tham khảo và chỉnh đốn bộ máy. 9. Cần tăng cường phân cấp và uỷ quyền hợp lý cho các sở, ngành, uỷ ban nhân dân các cấp để tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong cải cách hành chính và thực hiện nhiệm vụ chính trị ở các cơ quan, đơn vị. 10. Cần áp dụng đồng bộ công nghệ thông tin, áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của bộ phận "một cửa" nói riêng và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nói chung. 11. Cần đầu tư kinh phí thích đáng cho công tác cải cách hành chính; và có thể nói công trình phục vụ mô hình “một cửa” liên thông, hiện đại là một trong những công trình hiệu quả nhất./.
  17. QUẢN LÝ HỒ SƠ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TS. VŨ ĐĂNG MINH Vụ Tổng hợp, Bộ Nội vụ 1. Hồ sơ và công tác xây dựng, quản lý hồ sơ cán bộ, công chức a. Vị trí, vai trò của hồ sơ cán bộ, công chức Hồ sơ cán bộ, công chức là một trong những tài liệu không thể thiếu trong công tác quản lý cán bộ, công chức. Hồ sơ cán bộ, công chức là tài liệu quan trọng có tính pháp lý phản ánh trung thực về nguồn gốc, quá trình trưởng thành, phẩm chất, năng lực, phong cách, các hoạt động và mối quan hệ gia đình - xã hội của người cán bộ, công chức. Hồ sơ cán bộ, công chức là cơ sở giúp cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức nghiên cứu nắm được một cách đầy đủ nhất về bản thân người cán bộ, công chức, cung cấp những thông tin tin cậy để phân biệt được phẩm chất chính trị, năng lực công tác, đạo đức tác phong, hoàn cảnh gia đình, quan hệ xã hội của cán bộ, công chức phục vụ cho công tác sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí cán bộ, công chức. Hồ sơ cán bộ, công chức còn là căn cứ để cơ quan quản lý và sử dụng theo dõi và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức được đầy đủ và chính xác hơn; làm cơ sở để đánh giá, tuyển chọn, khen thưởng những cán bộ, công chức tận tuỵ, gương mẫu và thực hiện chế độ bảo hiểm đối với cán bộ, công chức. b. Một số nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng và quản lý hồ sơ cán bộ, công chức Xuất phát từ vị trí, vai trò của hồ sơ cán bộ, công chức nêu trên, yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng và quản lý hồ sơ cán bộ, công chức phải bảo đảm những nội dung cơ bản sau: - Trước hết, cần khẳng định hồ sơ cán bộ, công chức là tài sản của cơ quan nhà nước, là một phần di sản quan trọng của cơ quan không ai có quyền phát tán, mua bán và trao đổi. Do đó, hồ sơ cán bộ, công chức cần được quản lý, giám sát và bổ sung thường xuyên để phục vụ cho công tác nhân sự của cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước. - Hai là, công tác xây dựng và quản lý hồ sơ cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan quản lý cán bộ, công chức. Hồ sơ gắn liền với hoạt động của cán bộ, công chức từ khi được tuyển dụng đến khi
  18. rời khỏi cơ quan nhà nước. Do vậy, ngay từ đầu cơ quan có trách nhiệm hướng dẫn người mới được tuyển dụng kê khai lý lịch và nộp văn bằng, chứng chỉ cùng các loại giấy tờ có liên quan khác để thẩm tra, xác minh và hoàn thiện thủ tục lập hồ sơ ban đầu (hồ sơ gốc) đưa vào theo dõi, quản lý. - Ba là, cấp nào quản lý cán bộ, công chức thì cấp đó trực tiếp quản lý hồ sơ của người đó. Khi cán bộ, công chức được điều động, luân chuyển thì hồ sơ sẽ chuyển cho cơ quan mới quản lý và theo dõi. Việc chuyển giao hồ sơ phải do cơ quan tiếp nhận cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện mà không để cán bộ, công chức tự chuyển hồ sơ của mình, đồng thời phải kiểm tra và lập biên bản bàn giao theo đúng quy định. Trường hợp làm mất hồ sơ cán bộ, công chức được coi là làm mất tài sản của nhà nước. - Bốn là, hồ sơ cán bộ, công chức được quản lý, sử dụng theo chế độ tài liệu mật, chỉ những người có thẩm quyền hoặc cơ quan có thẩm quyền quản lý hồ sơ cán bộ, công chức cho phép mới được nghiên cứu, khai thác hồ sơ. - Năm là, mỗi tiêu chí thông tin trong các thành phần tài liệu của hồ sơ cán bộ, công chức là cơ sở quan trọng để phục vụ công tác nghiên cứu, nhận xét, đánh giá cá nhân cán bộ, công chức và tổng hợp, thống kê đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, hồ sơ cán bộ, công chức phải được quản lý khoa học và thống nhất. - Sáu là, cán bộ, công chức được giao quản lý hồ sơ phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường chính trị vững vàng; có nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm và tận tuỵ với công việc được giao. Nếu để hư hỏng, mối mọt làm chất lượng hồ sơ giảm sút phải chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ chức, đơn vị và phải bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật. c. Ý nghĩa của công tác quản lý hồ sơ cán bộ, công chức Quản lý cán bộ, công chức là việc làm chủ động, thường xuyên của các cơ quan có thẩm quyền theo phân cấp quản lý. Do vậy, để nắm bắt thông tin về cán bộ, công chức ngoài việc tiếp xúc trực tiếp hoặc thông qua các kênh thông tin khác như: nhận xét đánh giá của cấp quản lý trực tiếp về cán bộ, kết quả công việc mà cán bộ, công chức được giao, phản ánh của dư luận quần chúng... thì nhất thiết phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ cán bộ, công chức. Vì hồ sơ là tài liệu tập hợp thông tin đầy đủ, chính xác, toàn diện, tin cậy, có tính pháp lý về quá trình hoạt động và trưởng thành của cán bộ, công chức và qua đó cũng có thể hiểu thêm những vấn đề liên quan khác. Trong công tác quản lý cán bộ, công chức việc xây dựng và quản lý hồ sơ là một nhiệm vụ quan trọng. Làm tốt công tác hồ sơ cán bộ, công chức cũng sẽ góp phần đắc lực cho công tác thống kê, tổng hợp phục vụ nghiên cứu, tổng kết, đánh
  19. giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức về phương diện số lượng, cơ cấu, trình độ trong từng giai đoạn cách mạng, qua đó đánh giá hiệu quả các chủ trương, đường lối công tác cán bộ của Đảng. Công tác xây dựng và quản lý hồ sơ cùng với công tác thống kê, tổng hợp về cán bộ, công chức góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu, hoạch định chính sách, tuyển chọn, bố trí sử dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ. 2. Đánh giá thực trạng thể chế quản lý hồ sơ cán bộ, công chức Từ ngày thành lập đến nay, tuỳ theo đòi hỏi của từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn và tổ chức cho cán bộ, đảng viên viết lý lịch, cụ thể: Thông tri số 297-TT/TW ngày 20-4-1974 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá III) về việc viết lý lịch và quản lý hồ sơ, lý lịch đảng viên nhận xét: ''... việc quản lý hồ sơ, lý lịch đảng viên vẫn chưa có nền nếp, chưa quy định rõ trách nhiệm quản lý hồ sơ, lý lịch đảng viên''. Theo đó, Ban Bí thư quy định: “mỗi đảng viên phải có lý lịch và sơ yếu lý lịch (theo mẫu thống nhất do Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn)... việc quản lý hồ sơ lý lịch cán bộ thực hiện theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ. Về các tiêu chí trong hồ sơ và mẫu biểu quản lý hồ sơ cán bộ: từ trước đến nay, đã bốn lần ban hành mẫu lý lịch và hướng dẫn kê khai lý lịch; các mẫu lý lịch cán bộ, sơ yếu lý lịch, bổ sung lý lịch... và hướng dẫn do Ban Tổ chức Trung ương xây dựng và được thực hiện thống nhất trong hệ thống chính trị. Sau nhiều lần rút kinh nghiệm, chỉnh lý, đến nay về cơ bản các mẫu biểu quản lý hồ sơ do Ban Tổ chức Trung ương ban hành đều tiếp thu những ưu điểm của các mẫu trước đây, phân định rõ ràng hơn các nhóm thông tin như: sơ yếu lý lịch; quá trình đào tạo; quá trình công tác; quan hệ gia đình; khen thưởng kỷ luật; hoàn cảnh kinh tế bản thân và gia đình; kê khai tài sản nhà, đất, các tài sản có giá trị lớn; quá trình lương. Đặc biệt chú ý đến quan hệ với nước ngoài (bản thân đi nước ngoài, vợ con đi nước ngoài); tham gia các hội, tổ chức khác trong và ngoài nước của bản thân và gia đình. Đối với việc quản lý hồ sơ công chức, Điều 13 Sắc lệnh số 76-SL ngày 20/5/1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Quy chế công chức Việt Nam đã quy định “mỗi bộ giữ danh sách và hồ sơ lý lịch công chức thuộc quyền. Cấp được sử dụng công chức giữ một bản thứ hai. Bộ Nội vụ giữ danh sách và phiếu cá nhân công chức toàn quốc.'' Như vậy, ngay từ thời kỳ đầu đã quy định mỗi công chức Việt Nam có hồ sơ lý lịch công chức, phiếu cá nhân. Nhưng sau đó, do hoàn cảnh kháng chiến nên chưa thực hiện được việc cụ thể hoá các tiêu chí, mẫu biểu... trong hồ sơ lý lịch công chức.
  20. Kết quả điều tra thực trạng công tác quản lý hồ sơ cán bộ, công chức tại 22 cơ quan, đơn vị thuộc khối đảng, đoàn thể chính trị ở Trung ương, 5 bộ, ngành và 15 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tháng 9/2005 cho thấy: 77,72% cơ quan không đủ trang bị, thiết bị và cơ sở vật chất để quản lý hồ sơ; 81,82% người trực tiếp làm công tác quản lý hồ sơ cán bộ, công chức không được tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ... Như vậy, trên thực tế Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác hồ sơ công chức, công nhân viên chức. Song do còn thiếu các quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc lập, lưu giữ, bảo quản, khai thác, bổ sung và theo dõi hồ sơ một cách cụ thể; chưa có quy định thống nhất về thành phần và mẫu biểu quản lý hồ sơ và đặc biệt là chưa có chính sách bố trí và sử dụng đối với những người trực tiếp làm công tác quản lý hồ sơ nên trên thực tế công tác này ở các bộ, ngành và địa phương triển khai thiếu đồng bộ và thống nhất. Ngày 6/11/2006, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký Quyết định số 14/2006/QĐ- BNV ban hành Quy chế quản lý hồ sơ cán bộ, công chức. Đây là lần đầu trong lịch sử hành chính nước nhà hồ sơ của cán bộ, công chức (chủ thể của nền hành chính) đã được cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức ban hành riêng một văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện thống nhất trong cả nước. Ngoài những khái niệm, nguyên tắc chung, Quy chế này đã cụ thể hoá các nội dung như: quy định thành phần tài liệu trong bộ hồ sơ cán bộ, công chức gồm có những loại tài liệu nào; các biểu mẫu làm công cụ phục vụ công tác quản lý hồ sơ; quy định về lập hồ sơ, về bổ sung, chuyển giao, tiếp nhận, nghiên cứu, sử dụng hồ sơ; về lưu giữ, sắp xếp hồ sơ; về bảo quản, bảo mật hồ sơ; chế độ báo cáo tình hình quản lý hồ sơ; quản lý hồ sơ điện tử và đặc biệt là quy định về chế độ bồi dưỡng nghiệp vụ đối với những người trực tiếp làm công tác quản lý hồ sơ cán bộ, công chức. Mặt khác, để làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các chủ thể trong công tác quản lý hồ sơ cán bộ, công chức, Quy chế đã quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, cơ quan trực tiếp quản lý hồ sơ; cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác quản lý hồ sơ, trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ, công chức đối với chính hồ sơ cá nhân của mình, đồng thời, phân công cụ thể trách nhiệm tổ chức thực hiện Quy chế này. Trong đó, quy định rõ thẩm quyền của bộ, ngành và tỉnh trong việc quản lý hồ sơ cán bộ, công chức; thẩm quyền và trách nhiệm của Bộ Nội vụ và trách nhiệm của Vụ Tổ chức cán bộ và Sở Nội vụ trong việc tham mưu cho Chính phủ, bộ, ngành và địa phương những nội dung cụ thể trong việc quản lý hồ sơ cán bộ, công chức.
nguon tai.lieu . vn