Xem mẫu

  1. KẾ HOẠCH BÁN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ VỚI  HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP  THƯƠNG MẠI Tính tất yếu và bản chất của kế hoạch bán hàng ở doanh nghiệp thương mại. Kế hoạch bán hàng được coi là một văn bản trong đó phác thảo ra những gì sẽ làm trong thời   gian tới: đó là hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm nắm bắt nhu cầu của khách hàng, bán   ra và bán cho ai, các hoạt động hỗ  trợ  cho công tác bán hàng nhằm mục tiêu bán được hàng  để công ty tồn tại và phát triển. Sự  chuyển đổi từ  cơ  chế  kế  hoạch hoá tập trung sang xây dựng cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý vĩ mô của nhà nước đã và đang đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải  nghiên cứu và giải quyết. Một trong những vấn đề đó là lĩnh vực kế hoạch hoá. Trong những  năm chuyển đổi vừa qua có không ít những ý kiến bàn luận về  vai trò và sự  tồn tại khách  quan của công tác này. Có những ý kiến không hoàn toàn thống nhất với nhau mà thậm chí  còn trái ngược nhau. Một số ý kiến cho rằng trong nền kinh tế thị trường, trong cơ chế quản   lý mới này không có chỗ  cho công tác kế hoạch hoá, tức là kế  hoạch hoá không thể  tồn tại  trong nền kinh tế thị trường, công tác này chỉ thích hợp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung   bao cấp. Một số ý kiến khác lại cho rằng giờ đây khi thị trường trực tiếp điều tiết và chỉ dẫn   cho các doanh nghiệp trong các hoạt động nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản, dù  trong điều kiện nào công tác kế  hoạch hoá nói chung và công tác kế  hoạch hoá trong doanh  nghiệp nói riêng vẫn tồn tại như  một khâu, một bộ  phận của hoạt động quản lý và là một  trong những yếu tố cấu thành của cơ  chế  quản lý. Khi môi trường và điều kiện hoạt động  thay đổi, cùng với các bộ  phận khác của cơ  chế  quản lý mới, công tác kế  hoạch hoá cũng  cần được nghiên cứu và đổi mới. Những bài học thực tiễn trong cơ chế cũ không phải ít, với cơ  chế điều hành cứng nhắc từ  trên xuống dưới thể hiện ở các chỉ tiêu pháp lệnh thông qua hệ thống kế hoạch pháp lệnh đã  
  2. để  lại một sự ăn mòn trong công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh của các công ty mà cho   đến nay vẫn chưa xoá nhoà được. Hậu quả  của cơ  chế  cũ đã làm cho các doanh nghiệp  không biết đến thị  trường, đi ngược lại với các quy luật của thị  trường như  quy luật cung   cầu, quy luật giá cả......Và do đó điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh thiếu linh hoạt,   nhà sản xuất không biết đến nhu cầu của người tiêu dùng, sản xuất và kinh doanh không gắn   liền với hiệu quả  kinh tế. Trong giai đoạn này các doanh nghiệp chỉ  quan tâm đến việc có  hoàn thành kế hoạch được giao hay không. Trong khi đó, cơ chế thị trường có sự cạnh tranh   gay gắt giữa các đơn vị kinh tế thì hiệu quả kinh tế là mục tiêu hàng đầu, mục tiêu bao trùm   lên các mục tiêu khác. Kế  hoạch cho phép các doanh nghiệp biết đến hướng đi trong thời   gian sắp tới, nó không chỉ quan tâm tới vấn đề tài chính mà nó còn phải xem xét đến các hoạt  động khác của công ty: Thị trường, khách hàng, sự biến động của môi trường kinh doanh ....  và những thay đổi có thể xảy đến, công ty có cách ứng phó như  thế nào với những thay đổi  đó. Ngoài ra kế hoạch còn là cơ sở để ngân hàng xem xét có nên cho công ty vay vốn để sản   xuất kinh doanh hay không, vì qua bản kế hoạch kinh doanh công ty sẽ  cho ngân hàng thấy   được tương lai của công ty mở mang phát triển đến đâu. Trong trường hợp đó kế hoạch kinh  doanh thực sự có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp. Thực tế hoạt động quản lý của doanh nghiệp trong những năm qua đã đem lại những bài học  kinh nghiệm quý giá rằng nếu coi thường các yêu cầu của công tác kế  hoạch, của phương  thức hạch toán kinh doanh đúng nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ dẫn đến cách làm tuỳ tiện,   thiếu kỷ  cương, mạnh ai nấy làm, không thể  kiểm soát hết được. Thực tế  này đã dẫn đến  một thực trạng thiếu  ổn định trong công tác quản lý và kế  hoạch hóa doanh nghiệp: khi thì  quá dân chủ dẫn đến “dân chủ quá trớn” khi thì quá gò bó cứng nhắc, nguyên tắc làm cho các   hoạt động kém linh hoạt. Những bài học kinh nghiệm thực tế từ những nước có nền kinh tế thị trường phát triển cùng   với những kết quả ban đầu trong những năm đổi mới đã phần nào khẳng định rằng: Sự  tồn   tại của công tác kế  hoạch hoá trong cơ  chế  mới này là một tất yếu khách quan cần phải   được tăng cường và đổi mới bởi lẽ: Xét về mặt bản chất thì kế hoạch hoá là một hoạt động  
  3. chủ quan có ý thức có tổ chức của con người nhằm xác định mục tiêu, phương án, bước đi,  trình tự và cách thức tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó kế hoạch hoá là yêu  cầu của bản thân quá trình lao động của con người và gắn liền với quá trình đó. Thực chất   của kế hoạch hoá là quá trình định hướng và điều khiển các định hướng đối với sự phát triển   sản xuất theo quy luật tái sản xuất mở rộng ở mọi cấp độ của nền kinh tế. Trong thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển họ đều quan tâm đến công tác   kế  hoạch  ở  cấp công ty. Họ  đánh giá đúng vai trò, vị  trí xác định rõ chức năng và tổ  chức   nghiên cứu, thực thi nhiều giải pháp nhằm thực hiện hoàn chỉnh công tác này. Qua những thử  nghiệm và đánh giá các nhà kinh tế học nhận định rằng: hoạt động kế hoạch hoá công ty là   sự  cần thiết nhằm thực hiện hai mục đích là tận dụng các cơ  hội để  tăng khả  năng thành  công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tránh các rủi ro, đe dọa của  môi trường kinh doanh đến các doanh nghiệp. Và thực tế  ngày nay trong các doanh nghiệp   công tác kế hoạch hoá đã được quan tâm hàng đầu bởi lẽ hoạt động này giúp cho các đơn vị  hoạch định các mục tiêu hoạt động, dự báo các khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp, xây   dựng các phương án hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh đề  ra cho  năm kế hoạch. Ra đời từ sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xã hội, doanh nghiệp thương mại  trở  thành một bộ  phận trung gian độc lập giữa sản xuất và tiêu dùng, thực hiện chức năng   phục vụ  nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng về  các loại hàng hoá trong nền kinh tế  quốc dân,   phát hiện nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ trên thị  trường và tìm mọi cách để  thoả  mãn nhu  cầu đó. Không ngừng nâng cao trình độ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng để nâng cao hiệu   quả kinh doanh, giải quyết tốt các mối quan hệ nội bộ doanh nghiệp và quan hệ giữa doanh   nghiệp với bên ngoài. Sự  thành công trong kinh doanh chỉ  đến với doanh nghiệp khi doanh   nghiệp biết phối hợp tốt nhất các yếu tố  bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Kế  hoạch  kinh doanh là một công cụ, một yếu tố để tổ chức và quản trị các hoạt động kinh doanh của   doanh nghiệp sao cho có hiệu quả. Kế hoạch kinh doanh có chức năng chủ  yếu là tính toán   các tiềm năng, dự kiến khai thác các khả năng có thể huy động và phối hợp các nguồn tiềm 
  4. năng  ấy theo những định hướng chiến lược đã định để  tạo ra một cơ  cấu hợp lý thúc đẩy  tăng trưởng nhanh và giữ cân bằng các yếu tố trên tổng thể. Khái niệm kế hoạch bán hàng trong doanh nghiệp thương mại Doanh nghiệp thương mại khi tiến hành kinh doanh thường phải lập nhiều kế  hoạch hoạt  động kinh doanh trong đó cơ bản nhất là kế hoạch lưu chuyển hàng hoá. Kế  hoạch lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp thương mại là bảng tính toán tổng hợp  những chỉ tiêu bán ra, mua vào và dự trữ hàng hoá đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên cơ sở  khai thác tối đa khả năng có thể có của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch. Trong kế hoạch lưu chuyển hàng hoá thì kế hoạch bán hàng là quan trọng nhất vì bán hàng là   nhiệm vụ  trung tâm, quan trọng nhất của doanh nghiệp thương mại, là mục tiêu hoạt động   kinh doanh. Vì vậy mọi hoạt động của doanh nghiệp thương mại đều phải phục vụ cho bán  hàng được nhiều, được nhanh, thu hút ngày càng nhiều khách hàng, giảm được chi phí bán  hàng để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Cơ  sở  để  đảm bảo khả  năng thành công của bán hàng trước hết là toàn bộ  hoạt động bán   hàng phải được kế hoạch hoá. Vì vậy kế hoạch bán hàng được coi là kế hoạch chủ yếu của   kế hoạch kinh doanh. Vậy kế hoạch bán hàng là một văn bản trong đó người ta làm thời khoá biểu cho những hoạt   động bán hàng, phân bổ tài nguyên, phương tiện vật chất, lao động, tài chính cho sản phẩm   hoặc thị trường hoặc khách hàng. Kế hoạch thường có thời hạn 1 năm. Các loại kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại Căn cứ vào tiêu thức thời gian, kế hoạch kinh doanh bao gồm: Kế  hoạch dài hạn: Nhằm xác định các lĩnh vực mà công ty sẽ  tham gia, đa dạng hoá  hoặc cải thiện hoạt động trên các lĩnh vực hiện tại, xác định các mục tiêu và các giải   pháp dài hạn cho các vấn đề chính, đầu tư nghiên cứu phát triển, con người.
  5. Kế  hoạch trung hạn: thường là 2, 3 năm nhằm phác thảo chương trình trung hạn để  thực hiện kế  hoạch hoá dài hạn, tức là để  đảm bảo tính khả  thi lĩnh vực mục tiêu,  chính sách và giải pháp được hoạch định trong chiến lược đã chọn. Chương trình kế hoạch hàng năm: tuỳ theo cách tiếp cận của kế hoạch dài hạn và kế  hoạch trung hạn, cách cụ thể hoá các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hàng năm có thể  xác định theo chương trình hoặc các phương án kế hoạch năm. Cho dù kế hoạch năm  được xác định như  thế  nào thì bản chất của nó là sự  cụ  thể  hoá nhiệm vụ  sản xuất  kinh doanh căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược và các kế hoạch trung hạn, căn   cứ vào kết quả nghiên cứu điều tra các căn cứ, xây dựng kế hoạch phù hợp với điều   kiện của kế hoạch năm. Kế hoạch tác nghiệp và các dự án: để triển khai các mục tiêu và hoạt động sản xuất  kinh doanh các công ty cần hoạch định kế hoạch tác nghiệp và các phương án. Các kế  hoạch tác nghiệp (có thể  theo sản phẩm, theo lĩnh vực, theo bộ  phận sản xuất hoặc   theo tiến độ thời gian.....) gắn liền với việc triển khai các phương án kế hoạch còn các  dự án về cải tạo hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, đào tạo nghiên cứu phát triển ....   lại gắn liền với việc thực thi các chương trình đồng bộ có mục tiêu. Căn cứ vào mối quan hệ giữa các loại kế hoạch hoá trong phạm vi doanh nghiệp. Kế hoạch kinh doanh ­ kỹ thuật ­ tài chính ­ xã hội ở doanh nghiệp thương mại bao gồm: Kế  hoạch lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ. Đây là kế  hoạch kinh doanh cơ  bản của   doanh nghiệp thương mại. Kế  hoạch này phản ánh chức năng nhiệm vụ  quan trọng   nhất, đặc trưng nhất của doanh nghiệp thương mại là lưu chuyển hàng hoá từ  lĩnh  vực   sản  xuất   đến  lĩnh  vực   tiêu  dùng.   Kế   hoạch  lưu  chuyển  hàng  hoá   của   doanh  nghiệp thương mại phản ánh toàn bộ  khối lượng công việc nghiệp vụ  chủ  yếu của   doanh nghiệp thương mại là mua vào, bán ra và dự trữ hàng hoá. Đây vừa là mục tiêu   vừa là điều kiện để  doanh nghiệp thương mại đạt được mục đích trong hoạt động  kinh doanh. Hơn nữa các chỉ  tiêu kế  hoạch lưu chuyển hàng hoá còn là căn cứ  quan 
  6. trọng để xây dựng các kế hoạch khác (kế hoạch vốn kinh doanh, kế hoạch chi phí lưu  thông,   kế   hoạch   lao   động...).   Kế   hoạch   lưu   chuyển   hàng   hoá   của   doanh   nghiệp  thương mại bao gồm ba bộ phận chủ yếu sau: o Kế  hoạch bán hàng: Bán hàng là nhiệm vụ  trung tâm, quan trọng nhất của  doanh nghiệp thương mại; là mục tiêu của hoạt động kinh doanh. Vì vậy mọi   hoạt động của doanh nghiệp thương mại phải phục vụ cho việc bán hàng được  nhiều, được nhanh, thu hút ngày càng nhiều khách hàng, giảm được chi phí bán  hàng để đạt hiệu quả kinh doanh cao. Kế hoạch bán hàng gồm nhiều chỉ tiêu khác nhau. Theo hình thức bán hàng có các chỉ tiêu bán buôn, bán lẻ. Trong hình thức bán buôn theo các   khâu vận động của hàng hoá từ  nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng lại chia ra: bán buôn thẳng   hàng hoá từ  nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng và bán buôn tại kho, trạm, cửa hàng của doanh   nghiệp. Trong hình thức bán lẻ lại chia ra: bán lẻ ở cửa hàng cố định, bán lẻ ở quầy hàng lưu   động. Theo khách hàng chia ra: Bán cho đơn vị tiêu dùng trực tiếp, bán cho các tổ  chức trung gian,   bán qua đại lý...Ngoài ra trong hệ thống kinh doanh thương mại theo ngành hàng còn có bán   điều chuyển, bán uỷ thác và xuất khẩu. Theo các khâu của kinh doanh: Có bán  ở  tổng công ty, công ty, bán  ở  kho, bán  ở  cửa hàng,  quầy hàng cố định và lưu động. o Kế  hoạch mua hàng: Mua hàng là điều kiện tiên quyết để  thực hiện kế  hoạch  bán ra và dự trữ hàng hoá. Mua hàng đòi hỏi hàng hoá phải phù hợp với nhu cầu   của khách hàng, phải mua hàng kịp thời, đúng với yêu cầu, giá cả hợp lý là yếu  tố  quan trọng quyết định kinh doanh có lãi. Vì vậy trong kế  hoạch mua hàng   phải tính toán, cân nhắc, lựa chọn các loại hàng, nguồn hàng, bạn hàng tin cậy   để  đảm bảo an toàn vốn kinh doanh và đáp ứng yêu cầu kinh doanh của doanh   nghiệp kỳ  kế  hoạch. Trong cơ  chế  thị  trường, doanh nghiệp thương mại có  quyền tự mua, tự bán, tự lựa chọn thị trường, đối tác và các hình thức, phương 
  7. thức   mua   bán.   tuỳ   theo   điều   kiện,   phạm   vi,   yêu   cầu   kinh   doanh   mà   doanh  nghiệp có thể lựa chọn các nguồn hàng sau đây:  Nguồn hàng nhập khẩu  Nguồn hàng sản xuất trong nước  Nguồn hàng tự khai thác chế biến  Nguồn hàng liên doanh, liên kết  Nguồn hàng khác (ngoài các nguồn trên) o + Kế hoạch dự trữ hàng hoá đầu kỳ và cuối kỳ: Một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp  thương mại được liên tục và đạt hiệu quả  cao là có kế  hoạch dự  trữ  hàng hoá phù hợp.   Doanh nghiệp tranh thủ cơ hội bán hàng, giao hàng nhanh, không bị đứt đoạn trong cung ứng   hàng hoá. Dự trữ hàng hoá đầu kỳ và cuối kỳ là chỉ tiêu về số  lượng và chất lượng, là danh   điểm hàng hoá phù hợp với nhu cầu của khách hàng được tính toán và bố  trí ở  địa bàn phù   hợp để xuất bán cho kỳ kế hoạch tiếp theo. Kế hoạch lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ: Kế hoạch này nhằm đảm bảo nguồn nhân  lực cho các hoạt động của doanh nghiệp cũng như xây dựng chế độ đãi ngộ cho người   lao động nhằm khuyến khích họ tích cực làm việc nhằm nâng cao năng suất lao động,  gắn bó với doanh nghiệp vì mục tiêu tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Cơ  sở của kế hoạch này là nhu cầu về cán bộ quản lý các cấp xuất hiện trong mô hình tổ  chức của doanh nghiệp và các nhân viên làm việc trong hệ thống cũng như quyền lợi  của người lao động khi tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp bao gồm quyền lợi   về vật chất, tinh thần được doanh nghiệp đáp ứng từ nhiều cách thức khác nhau. Kế hoạch tài chính ­ tiền tệ: Bao gồm kế hoạch huy động và sử dụng vốn kinh doanh;  kế hoạch chi phí lưu thông; kế hoạch doanh thu và lãi lỗ; kế hoạch giá cả; kế hoạch   nộp ngân sách...
  8. Kế hoạch kỹ thuật bao gồm các chỉ tiêu trang thiết bị kỹ thuật mới, các biện pháp cải  tiến và áp dụng công nghệ  tiên tiến vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh   nghiệp. Kế  hoạch vận chuyển: Bao gồm kế hoạch vận chuyển hàng hoá từ  nơi mua về  đến  kho của doanh nghiệp thương mại và kế  hoạch vận chuyển hàng hoá tới tay khách  hàng của doanh nghiệp. Kế hoạch này xác định xem là doanh nghiệp sẽ thực hiện việc  vận chuyển hàng hoá từ nơi mua về kho hay là do doanh nghiệp cung  ứng làm, doanh   nghiệp thực hiện dịch vụ vận chuyển hàng hoá cho khách hàng hay là khách hàng tự  vận chuyển. Trong trường hợp doanh nghiệp đảm nhận việc vận chuyển thì doanh  nghiệp phải thiên về việc mở rộng bộ phận vận tải hay quyết định thuê vận chuyển. Kế hoạch hoá kho tàng: Tạo ra cơ sở cho các quyết định dự trữ dài và ngắn hạn. Các  quyết định dài hạn đề  cập trước hết đến việc lựa chọn địa điểm kho tàng, vấn đề  hình thành và tổ  chức kho tàng. Các quyết định kho tàng như  thế  mang đặc điểm chỉ  một lần quyết định cho cả  một thời kỳ dài. Các quyết định ngắn hạn đề  cập đến số  lượng lưu kho và thời gian lưu kho trung bình. Vai trò của kế hoạch trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Trong lao động hiệp tác, điều kiện để  phối hợp tốt nhất hành động của mọi bộ  phận, cá   nhân trong doanh nghiệp  ở bất cứ thời điểm nào là phải xác định trước mục tiêu, nhiệm vụ  cụ thể mang tính thống nhất cho toàn doanh nghiệp cũng như  cho mỗi bộ  phận, cá nhân đó.  Như thế xác định trước mục tiêu chính là một điều kiện không thể thiếu của hoạt động hiệp   tác có hiệu quả. Thông thường ở mọi thời kỳ phát triển của mình doanh nghiệp cũng như các   bộ phận, cá nhân bên trong đều đứng trước rất nhiều mục tiêu và cách thức hành động khác   nhau. Vấn đề  được đặt ra là doanh nghiệp sẽ lựa chọn các mục tiêu nào trong số  rất nhiều  mục tiêu cần đạt và doanh nghiệp sẽ chọn con đường đi nào trong số rất nhiều con đường có  thể để đạt tới mục tiêu. Việc xác định trước các mục tiêu và cách thức hành động có thể (thường được gọi là phương   án kế hoạch) để từ đó lựa chọn một phương án kế hoạch tối ưu cho toàn doanh nghiệp cũng  
  9. như  các bộ  phận cá nhân bên trong doanh nghiệp được gọi là công tác xây dựng kế  hoạch   hay công tác hoạch định. Như  thế xây dựng kế hoạch là việc xác định trước mục tiêu cũng   như các giải pháp cần thiết cho doanh nghiệp và mọi bộ phận bên trong doanh nghiệp hướng   theo mục tiêu đã xác định. Với ý nghĩa đó xây dựng kế hoạch là khâu đầu tiên của chu trình   quản trị doanh nghiệp và làm cơ sở để tiến hành các hoạt động quản trị khác như tổ chức lực   lượng phối hợp, điều khiển và kiểm tra. Trong phạm vi doanh nghiệp, kế  hoạch là chức năng đầu tiên và quan trọng của quản lý   doanh nghiệp. Theo Henry Foyol “Doanh nghiệp chỉ  thu được kết quả  khi nó được hướng   dẫn bởi một chương trình hoạt động, một kế  hoạch nhất định nhằm xác định rõ: sản xuất   cái gì? sản xuất bằng cách nào? Bán cho ai? Với nguồn tài chính nào?”. Trước kia trong cơ chế bao cấp, các chỉ tiêu kế hoạch được các cơ quan cấp trên giao xuống   theo nhiệm vụ của từng ngành, do đó thường không sát với thực tế của doanh nghiệp, trong   quá trình thực hiện phải có sự điều chỉnh mới có thể thực hiện được, làm cho vai trò của kế  hoạch bị hạ thấp trong quản lý doanh nghiệp. Từ  khi nền kinh tế nước ta chuyển sang “cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ  nghĩa” (Đại Hội   Đảng toàn quốc lần thứ  VI­ năm 1986) mới thực sự  tạo ra môi trường cho kế  hoạch hoạt   động, nghĩa là kế  hoạch phải xuất phát từ  nhu cầu thị  trường, khả  năng thực tế  của doanh  nghiệp và trong điều kiện pháp luật cho phép. Xuất phát từ những cơ sở này, kế hoạch thực  sự trở  thành công cụ quản lý quan trọng nhằm xác định nhiệm vụ  và mối quan hệ  giữa các  bộ phận và các cá nhân trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Xét một cách cụ thể, với vai trò là công cụ quản lý, vai trò của kế hoạch được thể hiện trên   các mặt cơ bản sau: Thứ nhất: Trong lĩnh vực kinh doanh, kế hoạch tạo ra thế chủ động (tức là tạo ra một  sự định hướng). Chủ động khai thác mọi nguồn khả năng tiềm tàng về vốn, máy móc  thiết bị, lao động hiện có, chủ động trong việc mua sắm hàng hoá, trong việc đổi mới   thiết bị  và công nghệ, chủ  động trong việc liên doanh và hợp tác kinh doanh với các 
  10. đối tác khác, chủ  động trong việc tìm thị  trường tiêu thụ, thị  trường nguyên vật liệu   đầu vào..... Thứ  hai: Kế  hoạch là công cụ  đắc lực trong việc nỗ  lực của các thành viên trong  doanh nghiệp sẽ biết được “con thuyền” đến đích đã định. Nếu thiếu kế hoạch, doanh   nghiệp như một con thuyền không có bánh lái chỉ biết đi lòng vòng. Thứ ba: Kế hoạch có thể giảm được sự chồng chéo và những hoạt động lãng phí. Kế  hoạch không chỉ  đơn thuần là các mục tiêu, là những hướng đi của doanh nghiệp mà   nó còn thể  hiện các cách để  đạt mục tiêu đó. Kế  hoạch chỉ  ra trách nhiệm và nhiệm   vụ của từng cá nhân, từng bộ phận trong việc thực hiện mục tiêu kinh doanh, do vậy   hiện tượng chồng chéo, lãng phí được giảm đến mức thấp nhất góp phần đem lại  hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Thứ tư: Kế hoạch có thể làm giảm tính bất ổn định cho doanh nghiệp. Trong quá trình  xây dựng kế hoạch các nhà quản lý buộc phải nhìn về phía trước, dự đoán những thay  đổi của nội bộ  doanh nghiệp cũng như  của môi trường kinh doanh, cân nhắc những   ảnh hưởng của chúng và đưa ra những ứng phó thích hợp. Thứ  năm: Kế hoạch thiết lập nên những tiêu chuẩn tạo điều kiện cho công tác kiểm   tra, kiểm soát trong doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp mà không biết rõ phải đạt  tới cái gì và đạt được bằng cách nào thì đương nhiên không thể  xác định liệu nó đã   thực hiện được mục tiêu hay chưa và cũng không có những biện pháp điều chỉnh kịp   thời khi có những lệch lạc xảy ra. Vì vậy, không có kế hoạch thì cũng không có kiểm  tra. Tóm lại: Chức năng kế  hoạch là chức năng đầu tiên, là xuất phát điểm của mọi quá trình  quản lý trong doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh, trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh  doanh của doanh nghiệp mà không có kế hoạch hoặc chất lượng của kế hoạch không cao thì   không bao giờ đạt hiệu quả cao. Việc vạch ra các kế hoạch hiệu quả là chiếc chìa khóa vàng   đem lại thành công cho doanh nghiệp.
  11. Ý nghĩa của việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hoá ở doanh nghiệp thương mại. Kinh doanh là quá trình đầu tư tiền của, sức lao động vào lĩnh vực nào đó để kiếm lời. Doanh   nghiệp thương mại chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi nó thực hiện hành vi kinh doanh   thương mại, nó làm cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng, nó thực hiện  chức năng phục vụ  nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng về  các loại hàng hoá và dịch vụ  trong   nền kinh tế quốc dân. Kinh doanh là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp, nó quyết định việc mở rộng  và phát triển của doanh nghiệp. Muốn kinh doanh tốt thì phải làm tốt công tác lập kế hoạch   kinh doanh và thực hiện tốt kế hoạch đó trong đó có kế hoạch bán hàng, có thế doanh nghiệp  mới có thể hoàn thành tốt các chỉ tiêu mà doanh nghiệp đề ra và biết được khả năng của bản   thân: Kế  hoạch kinh doanh bảo đảm cho doanh nghiệp chủ động ứng phó với những biến  động của thị trường. Kế hoạch kinh doanh bảo đảm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực Kế hoạch kinh doanh là một công cụ chủ yếu để quản lý mọi mặt hoạt động sản xuất   kinh doanh, là đòn bẩy quan trọng để khai thác mọi khả năng tiềm tàng nhằm mục tiêu  sử dụng một cách hợp lý nhất toàn bộ  giá trị  tài sản của nhà nước giao để  phát triển   sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả  kinh tế xã hội và cải thiện từng bước đời sống cán bộ công nhân viên. Kế hoạch kinh doanh có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc làm cho quá trình kinh  doanh diễn ra liên tục, có hiệu quả nhờ có kế hoạch kinh doanh mà doanh nghiệp chủ  động mua bán, kí kết các hợp đồng kinh tế. Mặt khác nhờ lập kế hoạch kinh doanh mà   doanh nghiệp mới biết tình hình kinh doanh của mình so với kế hoạch đã được chưa   để có hướng phấn đấu. Lập kế hoạch kinh doanh giúp cho doanh nghiệp tổ chức tốt hoạt động nghiên cứu thị trường   và chiếm lĩnh thị  trường, bằng việc sử  dụng các phương thức thị  trường, giá bán, giá mua   hợp lý, tổ  chức tốt công tác nghiên cứu thị  trường, tìm hiểu nguồn hàng, tổ  chức tốt hoạt  
  12. động xúc tiến, quảng cáo, yểm trợ bán hàng cho doanh nghiệp có thể tạo ra các ưu thế trong  cạnh tranh, mở  rộng thị  trường hiện tại và chiếm lĩnh các thị  trường mới. Thông qua kế  hoạch kinh doanh khuyến khích các nhà lãnh đạo thường xuyên suy nghĩ đến triển vọng của   công ty, nó xây dựng các chỉ  tiêu hoạt động để  sau này làm căn cứ  kiểm tra, đánh giá buộc   công ty phải xác định rõ phương hướng mục tiêu kinh doanh, chiến lược kinh doanh cụ thể,   nó bảo đảm cho công ty có khả năng đối phó với những biến động bất ngờ, nó thể  hiện cụ  thể  hơn mối quan hệ  qua lại giữa chức trách nhiệm vụ  của tất cả  những người có trách   nhiệm trong công ty. Trong thời kỳ bao cấp việc xây dựng kế  hoạch mang tính pháp lệnh cứng nhắc, không linh   hoạt, khó có khả  năng thực thi hoặc không hiệu quả. Còn kế hoạch trong thời kỳ này là kế  hoạch phát triển rất linh hoạt, mềm dẻo không mang tính cưỡng chế  mà chủ  yếu là mang  tính thuyết phục. Vì vậy kế hoạch kinh doanh thích ứng được với những biến động của môi  trường kinh doanh. Kế hoạch kinh doanh là công cụ quản lý có hiệu quả của doanh nghiệp,   là công cụ  đắc lực trong việc phối hợp nỗ  lực của các thành viên công ty, có tác dụng làm   giảm tính bất ổn trong doanh nghiệp, giảm sự chồng chéo và những hoạt động lãng phí, lập  kế hoạch thiết lập lên các chỉ tiêu chuẩn tạo điều kiện cho công tác kiểm tra. Như vậy việc  lập kế hoạch có khả năng thực thi luôn là chìa khoá vàng cho việc thực hiện một cách hiệu   quả những mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới. Tóm lại kế  hoạch kinh doanh có ý nghĩa quan trọng, nó ảnh hưởng đến thành công hay thất   bại trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, có lập kế  hoạch kinh doanh   thì doanh nghiệp mới có khả  năng nắm bắt nhu cầu thị  trường và chủ  động đối phó với   những diễn biến phức tạp để chuẩn bị  kế hoạch kinh doanh hợp lý nhằm phục vụ nhu cầu  khách hàng một cách hợp lý, đem lại lợi nhuận kinh tế  cao. Vì vậy mỗi doanh nghiệp cần   chú trọng hơn công tác lập kế  hoạch, có thể  thành lập riêng một đội ngũ chuyên lập kế  hoạch sao cho hợp lý và chính xác, tạo tiền đề  vững chắc thực sự  cho công tác kế  hoạch  hàng hoá dịch vụ.
  13. Kế hoạch bán hàng với tư cách là một khâu trong kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp nên  nó có đầy đủ tất cả các vai trò của kế hoạch kinh doanh mặt khác do “bán hàng là một bước   nhảy nguy hiểm chết người” nên làm thế nào để bán được hàng là một vấn đề mà các doanh   nghiệp đặc biệt quan tâm. Kế hoạch bán hàng được xây dựng nhằm thực hiện hoạt động bán  hàng một cách hiệu quả do đó kế hoạch bán hàng có một vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ  thống các kế hoạch kinh doanh mà doanh nghiệp thương mại phải lập. Kế hoạch bán hàng   nếu được xây dựng đầy đủ, khả thi thì các mục tiêu đề  ra cho hoạt động bán hàng trong kỳ  kế hoạch sẽ được thực hiện. Nếu kế hoạch mua hàng, dự trữ được lập đúng, đủ nhưng việc  lập kế hoạch bán hàng không bám sát các nhu cầu của khách hàng, không phù hợp với tiềm  lực của doanh nghiệp thì các kế  hoạch kia dù có chuẩn xác đến bao nhiêu thì mục tiêu cuối  cùng là doanh thu và lợi nhuận cũng không đạt được. Kết quả  bán hàng phản ánh kết quả  hoạt động kinh doanh, phản ánh sự đúng đắn về mục tiêu của chiến lược kinh doanh, phản   ánh sự nỗ lực cố gắng của doanh nghiệp trên thương trường đồng thời thể hiện trình độ  tổ  chức, năng lực điều hành, tỏ rõ thế và lực của doanh nghiệp thương mại trên thị trường Vì vậy kế hoạch bán hàng được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm và đây là kế hoạch quan  trọng nhất trong hệ thống các kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
nguon tai.lieu . vn