Xem mẫu
- Học cách thương thuyết với đối tác
Trước khi thương lượng với một đối tác, ông Lee Jay Good, Tổng Giám đốc công ty
Wooyang -Time Bernin tại Hà Nội thường tìm hiểu về sở thích, thói quen, tính cách, độ
tuổi của họ. Quan niệm của ông trong thương thuyết kinh doanh là "biết mình, biết
người, trăm trận trăm thắng".
Trước mỗi cuộc hẹn đầu tiên với một đối tác, trợ lý của ông Lee phải dành một
khoản thời gian nhất định để tìm hiểu người đó là ai. Những thông tin này sẽ giúp cho
cuộc thương lượng diễn ra trôi chảy hơn. "Phần chuẩn bị này cần đặc biệt chú ý đến
vấn đề tôn giáo để hạn chế thấp nhất những từ ngữ, hành động mạo phạm trong buổi
nói chuyện” - ông Lee nói. Thêm vào đó, giám đốc và trợ lý phải hợp cạ thì mới chiến
thắng được đối tác trong các cuộc thương thuyết, ông nhận xét.
Đối với anh Nguyễn Đức Dương, Giám đốc công ty xây dựng Đông Đô, để thành công
trong công việc, ngoài tính chịu khó, còn cần thêm sự may mắn. “Khả năng giao tiếp
quyết định đến 30% kết quả buổi thương thuyết”, anh nói. Đứng trước một đối tác,
cần phải mạnh dạn, có chính kiến, biết cách mở đầu suôn sẻ. Về công tác chuẩn bị,
anh cho biết luôn có sẵn một số chủ đề nào về thể thao, âm nhạc, chuyện hài hước,
câu danh ngôn... để khi cần có thể "kéo dần khoảng cách giữa 2 bên lại với nhau”.
Đồng tình với quan điểm này, bà Cao Thị Lụa, Giám đốc trung tâm tư vấn kỹ thuật và
đê điều cho rằng, khả năng giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong đàm phán. Bà cho
biết: "Nói cần ngắn gọn, dễ hiểu, nhấn mạnh vào những từ ngữ quan trọng, rành rọt
từng từ một". Cũng theo bà Lụa, khi tiếp đối tác phải xác định được mục đích của
mình là gì, đồng thời hiểu rõ đối tác muốn gì. Sau đó, khi thương thuyết, cần tự tin,
nhìn đối tác một cách chân tình, cởi mở và tỏ thái độ sẵn sàng hợp tác.
Tuy nhiên, không ít giám đốc trẻ cho rằng, để thành công trong giao tiếp, phải có tài
quan sát và vận dụng các giác quan của mình để tìm ra mâu thuẫn trong từng câu nói
của đối phương. Ông Lã Văn Hưng, Giám đốc công ty TNHH Hợp Lực Thành Long
khẳng định: “Trong mười câu nói của đối tác, thế nào cũng có 2 câu mâu thuẫn với
nhau”. Việc phát hiện này không có nghĩa dùng nó để phản biện lại đối tác, mà dựa
vào đó để hướng buổi thương thuyết đi theo hướng có lợi cho mình. Theo ông Hưng,
khả năng quan sát, bao gồm cả chú ý lắng nghe, quyết định đến 40% thành công. "Để
chinh phục được đối tác tốt, bạn không chỉ là một nhà ngoại giao mà còn phải là một
nhà tâm lý giỏi", ông nói.
Giám đốc làm gì để chống stress?
7 giờ tối, một người đàn ông râu xồm, mặc độc quần short, lặng lẽ rời khỏi cổng số 18
Hoàng Quốc Việt, Hà Nội, thong thả đạp xe về phía bể bơi. Ít ai nghĩ rằng, đó là giám
đốc Công ty Netnam, Trần Bá Thái.
1
- Sinh ra bên dòng sông Hương, núi Ngự, với Trần Bá Thái, bơi là một niềm đam mê từ
nhỏ cho đến tận bây giờ, khi đã trở thành một giám đốc bận trăm công nghìn việc.
Ông tâm sự: “Bơi đối với tôi không dễ gì thay thế”.
Nhưng không phải lúc nào giám đốc Thái cũng có được phút giây hiếm hoi ấy để thực
hiện sở thích của mình, mỗi ngày còn biết bao nhiêu công việc đang chờ giải quyết.
Những lúc mệt quá, ông tranh thủ ít phút ngồi thiền để giải tỏa căng thẳng. Xã hội
phát triển, các phương tiện giao thông ngày càng trở nên hiện đại hơn, không ít giám
đốc thi nhau đi sắm các loại ôtô. Song lâu nay, giám đốc Thái vẫn duy trì thói quen đạp
xe đi làm, ông coi xe đạp không chỉ là một người bạn mà còn là một phương tiện tốt
giúp cơ thể khỏe mạnh để bắt đầu một ngày làm việc mới.
Để tìm cho mình những phút giây thư thái, giám đốc điều hành Công ty cổ phần
Internet một nội kết (OCI) Lê Thăng Long tìm đến với bóng đá. Hơn chục năm nay,
ông vẫn duy trì đều đặn mỗi tuần một lần tham gia chơi bóng cùng với nhân viên
trong công ty. Trên sân cỏ, ông là một cầu thủ khá xuất sắc, linh hoạt, có thể bắt gôn,
hậu vệ, đôi khi hứng trí kiêm luôn cả vị trí tiền đạo. “Bóng đá là một món ăn tinh thần
giúp tôi giải tỏa căng thẳng trong công việc. Sau mỗi trận đấu, tôi thấy mình như trẻ
lại yêu đời và làm việc tốt hơn”, giám đốc Long bộc bạch.
Tuy nhiên, không phải “sếp” nào cũng có khả năng sắp xếp được một khoảng thời
gian nhất định để thư giãn như vậy. “Công việc của tôi quá bận, tôi không có thời gian
dành riêng cho mình”, ông Nguyễn Văn Thắng, Giám đốc công ty TNHH tư vấn đầu tư
và xây dựng 306, cho VnExpress biết. Với ông, các môn thể thao, giải trí được đặt ở vị
trí thứ 4 sau công việc, tiếp các đối tác, gặp gỡ bạn bè.
Giấc ngủ lại là điều đầu tiên Hoàng Hùng, Giám đốc công ty TNHH Hoàng Nguyễn,
nghĩ đến sau mỗi buổi làm việc. Ông nói: “Cuối giờ làm, tôi luôn trong trạng thái mệt
mỏi rã rời. Tôi chỉ mong một giấc ngủ thật ngon. Thêm vào đó, cũng chẳng biết mình
có phù hợp với môn thể thao nào hay không”. Có thể tới đây ông sẽ dành một vài giờ
mỗi tuần để đi bơi cho thư giãn đầu óc.
Không ít các giám đốc khác thích tìm giây phút thư giãn ngay trong công việc. Giám
đốc công ty cổ phần TNHH tư vấn nội thất, Nguyễn Văn Khang là một ví dụ. Ông
thường xuyên nghe nhạc để thư giãn: “Tôi nghe nhạc trên xe, giờ giải lao, trước lúc đi
ngủ, và ngay tại phòng làm việc…”. Ông Lee Jay Good, Tổng Giám đốc công ty
Wooyang Time Bernin (Hàn Quốc) có trụ sở tại Hà Nội, thì lại tìm thú vui bằng việc
vào mạng đọc các câu chuyện cười chơi game hoặc chat. Ông nói: “Nếu có điều kiện
tôi sẽ nối mạng Internet cho nhân viên, tôi nghĩ ít phút tán gẫu hoặc giải trí trên mạng,
mọi người sẽ thấy thoải mái và làm việc tốt hơn”.
Theo các bác sỹ chuyên nghiên cứu về các chứng bệnh tim mạch, sự căng thẳng thần
kinh (stress) thường xuyên là một trong những yếu tố nguy cơ của các chứng bệnh về
tim mạch. Nếu không có các hình thức nghỉ ngơi, thư giãn phù hợp có thể dẫn đến
những tai biến nguy hiểm, nhất là đối với những người làm việc trí óc.
2
- Vua dầu mỏ Rockefeller
Lịch sử nước Mỹ từng có một nhà công nghiệp vừa được kính nể
và khâm phục bởi tài làm giàu nhanh chóng, nhưng cũng vừa bị
khiếp sợ bởi những tham vọng khôn cùng. Đó chính là John
Davidson Rockefeller, được mệnh danh là người giàu nhất trong
những người giàu nhất.
Rockefeller là người sáng Rockefeller có tham vọng
chi phối cả nước Mỹ, chi phối cả chính
lập tập đoàn Standard trị, xã hội thông qua tiềm
lực và ảnh hưởng kinh tế có một không
Oil.
hai của mình. Từ những đồng đôla đầu tiên, sau 50 năm kinh
doanh, Rockefeller đã tạo cho mình một tài sản trên 900 triệu USD (tính đến thời điểm
những năm cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, tức cách đây đã 100 năm). Số tiền đó
tương đương với 190 tỷ USD bây giờ, một con số kỷ lục, hơn tất cả tài sản của 10 tỷ
phú lớn nhất hiện nay cộng lại.
Rockefeller vốn xuất thân từ một gia đình công nhân Do Thái di cư sang Mỹ. Ngay từ
nhỏ, ông đã phải vừa học vừa kiếm tiền thêm bằng nghề khuân vác và rửa bát thuê.
Ông đã học cách chắt chiu, tiết kiệm từ bé. Trong hồi ký của mình, Rockefeller kể lại
ông ghi chép sổ sách rất cẩn thận từng đồng một khi bỏ ống tiết kiệm và say sưa theo
dõi số tài sản nhỏ mọn ấy lớn dần qua ngày tháng thế nào.
Rockefeller thể hiện khả năng nhạy bén với tài chính của mình như một dấu hiệu bẩm
sinh. Ông kể lại, khi mới 12 tuổi đã biết "mổ lợn" và đem 50 USD tiết kiệm được cho
một người hàng xóm vay với lãi suất 7%/năm. Sau một năm khi nhận lại từ người
hàng xóm cả vốn lẫn tiền lãi thì ông bắt đầu thực sự bộc lộ ham mê làm giàu, kiếm
tiền để rồi tiền phải sinh lãi, lãi mẹ phải đẻ lãi con, càng nhiều càng tốt.
Năm 16 tuổi, Rockefeller phải bỏ học để tập làm nghề kế toán. Khi làm việc, ông
được những người quản lý và ông chủ đánh giá cao về tính thẳng thắn, cẩn thận và
chắc chắn của mình. Lớn lên trong một môi trường gia đình theo đạo Do Thái rất
nghiêm ngặt, Rockefeller có một cuộc sống giản dị đến khắc khổ từ thuở hàn vi. Do
đó, dù mức lương kế toán chỉ có 25 USD mỗi tháng những ông vẫn dành dụm được
phần lớn tiền lương của mình với một quyết tâm được nung nấu là có vốn để kinh
doanh.
Năm 1859, khi mới 19 tuổi và với vẻn vẹn 1.000 USD tiết kiệm được cùng với
1.000 USD vay của cha, ông đã cùng với Clark - người bạn hàng xóm - lập nên
Công ty Clark & Rockefeller chuyên buôn bán ngũ cốc, rau quả, thực phẩm và thức
ăn gia súc.
3
- Mỗi người góp vốn 2.000 USD. Với tài năng quản lý tài chính cộng với bản năng chăm
chỉ, cần mẫn và biết tiết kiệm, Công ty của Rockefeller đã nhanh chóng ăn nên làm ra
ngay từ thời mới thành lập. Ngay trong năm đầu tiên, công ty của ông đã đạt 4.400
USD lợi nhuận và năm thứ hai đạt 17.000 USD lợi nhuận. Đây là những con số rất
đáng nể, thậm chí là một kỳ tích đối với một công ty nhỏ vào thời điểm lúc bấy giờ.
Có một điểm rất đáng chú ý mà mãi về sau khi Rockefeller là một đại gia công nghiệp
thì người ta mới có dịp nhìn lại. Từ lúc mới bước chân vào thương trường, Rockefeller
đã sớm có tư tưởng chinh phục và thống lĩnh thị trường. Ông đã chấp nhận mức chênh
lệch thương mại nhỏ để cạnh tranh và dẫn đầu về doanh thu ngay trong năm đầu tiên
với 450.000 USD, mặc dù lợi nhuận tính trên doanh số là khá thấp.
Năm 1863, khi mới nhận được một vài hợp đồng là nhà thầu phụ liên quan đến
lĩnh vực dầu mỏ, Rockefeller đã nhanh nhạy phát hiện và khẳng định đây sẽ là
một miếng đất màu mỡ để có thể nhanh chóng kiếm tiền. Để cho việc kinh doanh
được hoàn toàn theo ý mình, trước hết ông mua lại công ty ban đầu do ông thành lập
chung với Clark và sau này là một số người bạn nữa với giá 72.500 USD. Khi đã trở
thành người chủ duy nhất, ông bắt đầu lao vào cuộc giành giật những hợp đồng dầu
mỏ dù là nhỏ nhất.
Mong muốn làm giàu không chưa đủ, Rockefeller còn nung nấu quyết tâm phải có
trong tay một cái gì đó thật độc đáo để cạnh tranh và đè bẹp các đối thủ. Năm 1865,
Rockefeller tìm cách lôi kéo bằng được Samuel Andrew về làm cho công ty mình. Đó là
người đang sở hữu một số bằng sáng chế phát minh chế biến dầu thô thành xăng chất
lượng cao. Từ một doanh nhân buôn bán, Rockefeller trở thành một nhà công nghiệp
trong lĩnh vực dầu mỏ với Công ty Rockefeller & Andrrew.
Độc quyền về công nghệ chế biến dầu thô, ông tiếp tục thành lập công ty dầu mỏ
"Standard Oil Company" năm 1870 với số vốn ban đầu là 1 triệu USD. Do nắm giữ
được bí quyết công nghệ, khả năng cạnh tranh của công ty dầu mỏ thuộc quyền
Rockefeller rất lớn và đã đe dọa loại khỏi cuộc chơi không ít doanh nghiệp cùng
ngành. Có thể nói đây là thành công lớn nhất của Rockefeller trong kinh doanh trên cơ
sở biết đầu tư và nắm giữ vào bí quyết công nghệ, phán đoán chính xác vai trò và tầm
quan trọng sống còn của dầu mỏ với quá trình công nghiệp hóa của nền kinh tế.
Những thành công nhanh chóng của Rockefeller trong ngành công nghiệp dầu mỏ còn
non trẻ đã làm cho con người kinh doanh của ông ngày càng trở nên tự tin hơn, đồng
thời tham vọng của ông ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn bao giờ hết. Rockefeller
đã vạch ra cho mình một chiến lược phát triển mang tính bành trướng quyết liệt để
đạt tham vọng dần chi phối và độc quyền trong lĩnh vực chế biến dầu mỏ. Không chỉ
là nhà chiến lược có khả năng phán đoán tài tình, là nhà lãnh đạo quyết đoán có khả
năng quản lý tài chính hoàn hảo và có khả năng lãnh đạo, dùng người một cách tối ưu,
Rockefeller còn có một tính cách mạnh mẽ và quyết liệt, đặc biệt trong cạnh tranh để
loại trừ các đối thủ của mình.
4
- Cho đến nay cũng đã có không ít ý kiến nói Rockefeller đã dùng cả những thủ đoạn,
chiến thuật khó hiểu để đánh gục đối thủ bằng mọi giá. Thậm chí để có thể kiểm
soát và tiến tới thống trị thị trường dầu mỏ đồng thời tránh bị cản trở từ mọi phía, đặc
biệt trong công luận và chính quyền, ông đã kỳ công lên những kế hoạch "cạnh tranh
và gặm dần" hay "thâu tóm từng phần thị trường". Rockefeller từng đạo diễn, lên kế
hoạch để cho một số công ty nhỏ tự sáp nhập vào nhau trước khi bị ông mua lại. Làm
thế là ông đã tránh sự chú ý của dư luận và chính quyền so với trường hợp phải lần
lượt đàm phán mua lại tìm công ty một.
Sau 8 năm liên tục phát triển, bành trướng với một động cơ rất quyết liệt là gây ảnh
hưởng và chi phối ngành công nghiệp dầu lửa, Rockefeller đã loại trừ và mua gần hết
các đối thủ cạnh tranh.
Có thể nói chính Rockefeller là người đầu tiên có tham vọng và ý tưởng về
những tập đoàn khổng lồ, đa quốc gia cho từng lĩnh vực ngành nghề.
Năm 1882, tất cả các công ty dầu mỏ mà Rockefeller nắm giữ được hợp nhất thành
một tổ hợp công nghiệp dầu mỏ khổng lồ nhất trong lịch sử. Đó là Tập đoàn Standard
Oil Trust với số vốn điều lệ 70 triệu USD. Với chừng ấy tiền vào thời điểm đó,
Rockefeller đã là người giàu nhất nước Mỹ. Và ở bang nào của nước Mỹ cũng có mặt
"Standard Oil Trust" - công ty chế biến dầu mỏ gần như duy nhất. Khoảng hơn 90%
thị phần đã nằm gọn trong tay của Rockefeller, ông được gọi là "vua dầu mỏ" từ đấy.
Lo ngại những ảnh hưởng của Rockefeller ngày càng lớn, nhiều hoạt động chính trị xã
hội có thể bị tác động bởi vua dầu lửa thông qua ảnh hưởng của ông đến các ngành
công nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, năm 1890, chính quyền bang
Ohio - nơi đặt trụ sở chính của Tập đoàn Standard Oil Trust - đã ra một sắc lệnh gọi là
"sắc lệnh Trust" bắt chia nhỏ tập đoàn này thành nhiều tập đoàn độc lập, không được
liên kết để độc quyền và kiểm soát thị trường. Nhưng Rockefeller với những quan hệ
gắn bó với nhiều cá nhân, chính khách đã tìm cách lách được sắc lệnh trên. Ông cho
chuyển trụ sở tập đoàn sang bang New Jersey, nơi sắc lệnh này không có hiệu lực và
đổi tên tập đoàn thành "Standard Oil New Jersey".
Thế là Rockefeller lại vẫn tiếp tục đứng đầu tập đoàn công nghiệp dầu mỏ có vị thế
độc quyền và có khả năng chi phối nền kinh tế và cả xã hội Mỹ. Mãi cho đến năm
1911, khi Rockefeller đã 72 tuổi, thôi không trực tiếp điều hành tập đoàn và rút về hậu
trường thì Tòa án hiến pháp Mỹ mới lại ra được quyết đinh chia nhỏ tổ hợp cộng
nghiệp dầu mỏ của Rockefeller thành 38 công ty độc lập. Môi trường cạnh tranh thật
sự lúc này mới được thiết lập lại trong thị trường dầu mỏ tại Mỹ.
Sau khi nghỉ làm, Rockefeller đã để lại rất nhiều tiếng tốt về mình trong xã hội. Hàng
chục quỹ từ thiện do ông bỏ tiền đã được thành lập để cứu trợ người nghèo, phòng
dịch bệnh, thiên tai trên thế giới. Nhiều trường học, viện nghiên cứu, quỹ bảo trợ đào
tạo do ông lập và tài trợ đến nay vẫn được duy trì hoạt động. Ở New York có Trung
tâm thương mại Rockefeller nổi tiếng...
5
- Dù các đánh giá về ông có khác nhau thế nào đi chăng nữa, Rockefeller vẫn được
khẳng định là một doanh nhân, một nhà công nghiệp lớn. Tên tuổi ông đến nay vẫn là
một trong những biểu tượng tiêu biểu của nền kinh tế Mỹ thời kỳ công nghiệp hóa.
Ông vua đồng hồ Thụy Sĩ
Khi gặp Joerg Bucherer, người ta thường thấy ông như cố tình đưa
ra khoe chiếc đồng hồ Rolex nặng trịch nạm đầy vàng và kim
cương trên tay với gương mặt đầy tự hào. Điều này thật dễ hiểu
bởi mỗi năm, công ty của Bucherer có doanh số gần 500 triệu Franc
Thụy Sĩ từ bán đồng hồ.
Bucherer lập nghiệp Không có số liệu thống kê chính xác nào về tổng tài sản của ông
chính xác như những vua này, người ta chỉ dự đoán không dưới 1,5 tỷ Franc Thụy Sĩ
chiếc đồng hồ.
(tương đương 1,2 tỷ USD). Ông không sở hữu nhiều bất động
sản, không nắm giữ nhiều cổ phiếu hay công ty. Tài sản của ông là các loại đồng hồ
cao cấp từ Chopard, Piaget, Audemars Piguet đến Cartier, Tag Heuer, Baum & Mercier
và đặc biệt là Rolex, những chiếc đồng hồ quyền quý mà chỉ các triệu phú và các tay
ăn chơi tài tử mới dám bỏ tiền ra mua. Không hiếm những chiếc có giá tới cả trăm
nghìn USD.
Joerg là thế hệ thứ ba của dòng họ Bucherer, chuyên buôn bán đồng hồ từ năm 1888.
Năm 41 tuổi, ông đã bắt đầu tiếp quản vị trí người quản lý cao nhất của công ty gia
đình danh tiếng với trên 1.200 công nhân, nhân viên. Người ta truyền tai nhau rằng, sự
nghiệp của Joerg Bucherer đã được lên kế hoạch và thực hiện chính xác như những
chiếc đồng hồ Thụy Sĩ cao cấp.
Không hẳn là người có thiên tài gì bẩm sinh, nhưng gia đình và bản thân Bucherer đã
rất ý thức được về việc kế tục và phát triển công ty buôn bán đồng hồ cao cấp truyền
thống của gia đình. Vì vậy, tất cả các quá trình học tập, đào tạo và học nghề của Joerg
Bucherer đều gắn liền với một mục tiêu chiến lược rất cụ thể và rõ ràng: ông phải trở
thành nhà quản lý cao cấp có đủ khả năng kế tục và phát triển của dòng họ Bucherer.
Với quan điểm "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", Bucherer không tiếc thời gian và cả
tiền bạc để nghiên cứu tìm hiểu lĩnh vực kinh doanh đồng hồ một cách bài bản. Ông
nhận thấy mỗi chiếc đồng hồ cao cấp đeo trên tay không chỉ là một cái máy cho biết
thời gian, mà trước hết nó là một đồ trang sức, một tài sản quí giá. Vì vậy, ông cất
công học những kỹ xảo tinh vi của kỹ thuật và nghệ thuật làm đồng hồ, làm đồ trang
sức cao cấp. Ngoài ra, Bucherer rất chú trọng học các kinh nghiệm quản lý và lãnh
đạo. Ông trở thành một nhà lãnh đạo mẫu mực, toàn diện, được đào tạo một cách bài
bản như sách giáo khoa. Ông có một phong cách nghiêm túc và chuẩn xác, đúng như
những chiếc đồng hồ mà ông kinh doanh.
6
- Bản thân tên gọi Bucherer của công ty cũng được xây dựng và duy trì thành
thương hiệu đẳng cấp trên toàn thế giới.
Bucherer đã làm được điều kỳ diệu là tạo ra, truyền cho khách hàng cảm giác sang
trọng, quyền quý, danh giá khi sở hữu và được đeo những chiếc đồng hồ cao cấp. Các
khách hàng đều cảm thấy tự tin hơn, thấy giá trị và vai trò của mình được tôn lên và
được thừa nhận rõ ràng cùng với chiếc đồng hồ đang đeo. Để tiếp nối truyền thống
gia đình, Bucherer chi nhiều tiền cho quảng cáo tiếp thị, đồng thời nghiêm ngặt kiểm
tra, bảo đảm chất lượng sản phẩm. Đồng hồ Thụy Sĩ của ông không chỉ nhất thiết
phải là một chiếc đồng hồ chính xác nhất, bền nhất mà còn là một đồ trang sức quí giá
nhất, đẹp nhất, lịch sự nhất để tôn lên sự sang trọng, quyền quí của đẳng cấp những
người sử dụng nó.
Bucherer cũng khéo léo kết hợp các chiến lược kinh doanh với du lịch. Tất cả 18 khu
du lịch, các điểm nghỉ hè và nghỉ đông nổi tiếng của Thụy Sĩ đều được Bucherer đặt
chi nhánh, trung tâm thương mại và cửa hàng bán đồng hồ. Ông luôn chọn những tòa
nhà đẹp nhất, sang trọng nhất để có thể "môn đăng hộ đối" với những chiếc đồng hồ
rất đắt tiền của ông.
Tất cả các chi nhánh, cửa hàng kinh doanh của Bucherer đều được bố trí hệ thống
chăm sóc, phục vụ khách hàng một cách tận tụy và hoàn hảo. Ở đây khách hàng có thể
được tư vấn và hướng dẫn tận tình chu đáo bằng trên 30 thứ tiếng khác nhau. Dù đến
từ Nhật, dù là một tỷ phú Ảrập, một thương gia Hong Kong hay một chính khách châu
Phi, tất cả đều được giao dịch bằng ngôn ngữ của khách hàng. Và khi ra về, những du
khách này phải mãn nguyện về với những chiếc đồng hồ tuyệt hảo, bảo đảm chính
gốc 100% do Bucherer cung cấp. Đó chính là mục đích và triết lý kinh doanh của
Bucherer trước kia cũng như ngày nay.
'Vua liều' kiếm bạc tỷ từ hai bàn tay trắng
Một nông dân đã liều lĩnh tháo gỡ cả trăm trái đạn pháo, san lấp nhiều hố bom để lập
nên trang trại rộng hơn 10 ha. Không những vậy, anh còn dốc hết tài sản có được để
làm du lịch sinh thái. Dân địa phương gọi người nông dân ấy là “vua liều”, bởi anh có
những việc làm và dự định chẳng giống ai.
Tên thật của “vua liều” là Trần Văn Ngọc, hay còn gọi là Năm Ngọc, sinh năm 1958,
quê xã Phước Long Hội (Long Đất, Bà Rịa - Vũng Tàu). Từ hai bàn tay trắng, anh đã
dựng nên một trang trại rộng hơn 10 ha với hàng ngàn gốc nhãn tiêu, 100 con bò, 40
con nai cùng nhiều vật nuôi và cây trồng khác. Giá trị trang trại của anh đã được một
vài chủ đầu tư định giá đến vài tỷ đồng. Để có được thành quả này, ít ai biết rằng anh
đã trải qua bao nhiêu khó khăn mới có được.
Năm 1982 xuất ngũ, Năm Ngọc cùng gia đình đến thị trấn Long Hải sinh sống bằng
nghề buôn bán. Nhận thấy không hợp với công việc “chạy chợ”, lại cộng với máu nhà
7
- nông truyền thống trong người, Năm Ngọc đã một mình vác rựa vào chân núi Minh
Đạm để tìm đất lập vườn. Khi đó dưới chân núi này còn ngổn ngang hố bom và đạn
pháo. Tuy nhiên, bằng sự kiên trì, anh cần mẫn phát quang cỏ dại và san lấp những hố
bom để tạo mặt bằng canh tác. "Không nhớ tự tay mình đã thu gom bao nhiêu trái nổ
mang đi chôn, chỉ biết rằng ngày ấy thứ đó ở đây nhiều vô kể", anh nói.
Ban đầu, do không có vốn nên anh trồng điều và bạch đàn. Năm 1996, điều xuống giá
thê thảm, anh tức tốc khăn gói về miền Tây học cách trồng cây ăn quả, sau đó trở về
đốn hết điều và bạch đàn để chuyển qua trồng nhãn tiêu. Những năm được mùa, vườn
nhãn của Năm Ngọc thu hoạch trên 50 tấn, thu lợi hàng trăm triệu đồng. Chưa dừng
lại ở đó, anh còn nuôi hơn 100 con bò và 40 con nai lấy nhung, tạo công ăn việc làm ổn
định cho khoảng 10 lao động với mức lương 600.000 đồng/tháng.
Năm Ngọc cho biết, bên cạnh việc phát triển cây ăn trái và đàn gia súc, anh đang
hướng tới chuyện đưa trang trại trở thành một khu du lịch sinh thái của Long Hải,
gồm câu cá giải trí và thưởng thức đặc sản “cây nhà lá vườn” ngay tại chỗ. “Nếu
khách có nhu cầu mình sẽ làm một số nhà sàn kiểu Tây Nguyên để ngắm trăng”, anh
thổ lộ.
Cách trang trại của anh hơn cây số là Suối Tiên và Huỳnh Hổ Động, hai thắng cảnh
nổi tiếng của núi rừng Châu Long - Châu Viên. Xuống phía dưới là Bạch Vân Điện,
chùa Khỉ, và bãi biển Long Hải. Nhằm khai thác những tuyến điểm này khi “trang trại
sinh thái” chính thức đi vào hoạt động, Năm Ngọc đang dốc vốn làm nhà hàng ăn uống
và tàu nuôi ngựa... Bao nhiêu lợi nhuận thu được từ trang trại trong những năm gần
đây anh đều tái đầu tư vào việc phát triển “đề án du lịch sinh thái”, dù từ trước tới nay
chưa một ngày làm du lịch.
Những nông dân triệu phú ở Quảng Ninh
Trong khi những người dân xã Tân Dân (huyện Hoành Bồ - Quảng Ninh) vẫn chỉ loay
hoay với vài sào lúa nương thì ông Triệu Thạch Cao đã có suy nghĩ làm giàu bằng cách
nhận mấy ha đất trống đồi trọc để trồng quế. Cách làm mới lạ này đã nhanh chóng
đưa ông trở thành triệu phú.
Khi những năm mà việc trồng rừng đã thành cả phong trào rộng thì ông Cao lại nhanh
nhạy nắm bắt nhu cầu của người dân cần những giống cây lâm nghiệp đặc sản, có
giá trị kinh tế cao. Vậy là ông tìm tài liệu hướng dẫn cách ươm những giống cây quý
này và mày mò học theo để đến bây giờ ông đã trở thành "vua" nhân giống lâm nghiệp
có tiếng của tỉnh Quảng Ninh.
Còn ở xã Liên Vị, huyện Yên Hưng nhiều người lại biết đến anh Đỗ Hữu Tờ như một
ông vua "đầm". Anh tâm sự: "Quê tôi gần biển nên có tiềm năng về thuỷ sản với 20
chiếc đầm, tổng diện tích gần 2.000 ha. Nhưng trước đây số đầm này do HTX quản lý
và do thiếu vốn, kinh nghiệm nên gần như bị hoang hoá. Năm 1996, địa phương tổ
chức đấu thầu 180ha đầm đầu tiên, không ai trong xã Liên Vị dám "ném tiền" xuống
biển chỉ có mình tôi nhận…". Năm đầu tiên do ít vốn anh Tờ chỉ đầu tư được diện tích
30ha nuôi tôm theo hình thức quảng canh cải tiến nhưng thật bất ngờ đến cuối năm đó
8
- anh được trên 6 tấn tôm, trừ chi phí lãi ròng tới 600 triệu đồng. Kinh nghiệm của anh
thật đơn giản: tôm bột mua về không thả ngay mà thả vào ao ương để tôm thích nghi
dần với điều kiện môi trường rồi mới "bung" ra đầm. Nguồn thức ăn của tôm cũng
được tận dụng từ những loài hải sản tôm cá sẵn trong đầm để hạ giá thành sản xuất
và thu lãi cao nhất. Năm 2002, anh Tờ thả nuôi tới 4 triệu tôm giống, thu hoạch 20 tấn
tôm thịt, tổng trị giá 2 tỷ đồng.
Một trong những nông dân triệu phú ở Quảng Ninh là trang trại sinh thái của gia đình
ông Nguyễn Văn Thơ xã An Sinh, huyện Đông Triều. Là một trong những người dân
khai hoang đầu tiên của địa phương, ông Thơ đã cắm chốt tại dải đồi thuộc khu Khe
Cát thuộc xã An Sinh từ những năm 60. Mọi chuyện bắt đầu từ chủ trương giao khoán
đất dài lâu của địa phương, ông liền nhận 7ha đồi với thời hạn 50 năm để làm trang
trại. Sau một thời gian "tầm sư học đạo" ông đã rút ra một kinh nghiệm quý báu là chỉ
trồng những thứ thị trường cần, theo hướng hàng hoá lớn. Trong khi những nhà xung
quanh vẫn quen trồng cây ăn quả làm quà thì trong vườn nhà ông đã trồng rất nhiều
vải, nhãn, na… Để cho cây ra quả sai và đúng vụ, ông Thơ đã vận dụng các bí quyết
như hạn chế bón phân, vặt lá, tiện gốc. Do vậy, vườn quả nhà ông luôn sai trĩu và bán
rất được giá. Năm 2002, riêng vải và na gia đình ông đã thu được 80 triệu đồng. Dự
tính đến năm 2005 khi mà những loại cây như vải, hồng, nhãn vào thời kỳ thu hoạch
rộ thì số lãi thu được có thể lên tới 100 triệu đồng.
Đó là những tấm gương điển hình của hơn 200 triệu hộ có nguồn thu 50 triệu
đồng/năm của Quảng Ninh. Điều ấn tượng từ những thế hệ nông dân mới này là họ
đã biết tận dụng triệt để kiến thức khoa học kỹ thuật để làm giàu chính trên quê
hương mình.
Richard Branson - tỷ phú bình dân
Nhìn bề ngoài, với vẻ phong trần, hơi "bụi bặm", tóc để bù, luôn chỉ quần
bò, áo sơ mi hở cổ, Richard Branson, 53 tuổi trông không ra dáng một tỷ
phú chút nào. Nhưng ông đang có trong tay tập đoàn Virgin với 250 công ty
lớn, nhỏ và gần 25.000 nhân viên, doanh thu mỗi năm khoảng 5 tỷ USD.
Tài sản của vị tỷ phú có tên trong top 500 người giầu nhất hành tinh này
Tỷ phú hiện vào khoảng 1,6 tỷ USD.
Branson đang
có trong tay tập
đoàn Virgin Virgin được chính thức công nhận là thương hiệu nổi tiếng thứ 3 ở Anh,
hùng mạnh. cung cấp hầu hết các dịch vụ cần thiết trong sinh hoạt, đời sống, vui chơi
giải trí... Nếu bạn cần tiền, Virgin Money sẵn sàng cung cấp mọi dịch vụ tài chính;
muốn gọi điện thoại, ban chỉ cần đăng ký hòa mạng với Virgin Mobile (hiện đã có 1,6
triệu thuê bao); có nhu cầu du lịch, bạn chỉ cần đăng ký tại Virgin Travel; cần phải xê
dịch, đi lại, các loại máy bay hiện đại của Virgin Atlantic Airways (hãng hàng không
lớn thứ 2 ở Anh) sẽ phục vụ bạn bất cứ lúc nào; thậm chí, nếu khát nước mà bạn
không muốn uống Coca Cola thì đã có... Virgin Cola.
9
- Nhiều chuyên gia kinh tế nhận xét, xây dựng được mạng lưới kinh doanh liên hoàn, đa
dạng như thế này đòi hỏi ông chủ phải rất giỏi và có đầu óc. Năm 2002, Virgin được
đánh giá là một trong 5 tập đoàn làm ăn hiệu quả nhất thế giới và không phải ngẫu
nhiên, Challenges, tạp chí chuyên về kinh doanh có tiếng của Pháp đã bầu chọn
Richard Branson là nhà kinh doanh giỏi nhất châu Âu.
Tuy rất giàu có, song lối sống và cách sinh hoạt của Richard Branson lại rất bình dân.
Ông không có máy bay riêng, xe hơi loại sang, để đi lại ông dùng một xe tầm tầm,
thỉnh thoảng ông còn đến văn phòng làm việc của mình ở Sân bay quốc tế Heathrow
(London) bằng tầu điện ngầm công cộng. Rủng rỉnh tiền là vậy mà bất cứ lúc nào
trong người ông cũng không có quá 10 USD tiền mặt. Nhiều nhà phân tích lý giải,
phong cách sống bình dân đã ăn sâu vào con người ông và phần nào do ảnh hưởng của
những năm tuổi thơ không mấy dễ chịu của ông.
Richard Branson sinh năm 1950 tại thành phố nhỏ Surrey (Anh), trong một gia đình
trung lưu, bố làm nghề luật sư. Do bị một vài khiếm khuyết bẩm sinh như chứng khó
đọc (dyslexia)... nên việc tiếp thu kiến thức của ông chậm và kết quả học tập luôn
thua kém chúng bạn. Có lẽ cũng một phần do mặc cảm về sự thiếu hụt này nên ông
“phá ngang”, không học xong cấp phổ thông trung học mà sớm lăn lộn để kiếm sống.
Song đổi lại, trời lại phú cho ông một khả năng kinh doanh bẩm sinh, lao vào đâu
cũng... ra tiền.
Công việc kinh doanh đầu tiên và có lãi đậm ngay là việc ông làm chủ bút một tạp chí
dành cho sinh viên, có số lượng phát hành 100.000 bản/kỳ vào năm 1970. Năm 1971,
ông thành lập Virgin Mail, công ty chuyên bán lẻ đĩa hát qua thư đặt hàng và thắng to.
Thế là Công ty Virgin Records, chuyên thu âm các ban nhạc có tiếng ra đời và ông là
bầu sô. Công ty này bành trướng thành tập đoàn âm nhạc lớn Virgin Group và năm
1992, ông đã bán đứt Virgin Group cho Tập đoàn âm nhạc Thorn - EMI với giá 1 tỷ
USD, chuyển sang đầu tư cho ngành hàng không. Hãng hàng không Virgin Atlantic
Airways được Branson thành lập năm 1984 với vẻn vẹn có một máy bay... đi thuê lại
của hãng khác, nay đã lớn mạnh trở thành Hãng hàng không lớn thứ 2 ở Anh (sau
British Airways).
Năm 2001, sau khi Hãng hàng không Ansett (Australia) bị phá sản, thị trường nội địa
nước này chỉ còn trơ lại có Qantas, thế là ông xin thành lập Hãng Virgin Blue và cạnh
tranh khốc liệt với Qantas bằng giá cả và chất lượng phục vụ. Theo số liệu vừa được
công bố, trong năm tài chính 2002 (kết thúc ngày 31/3 vừa qua), Virgin Blue đã thu
được lãi thuần 102 triệu USD, vượt quá sự mong đợi của ông. Ngay lập tức, Branson
đã tung tiền mua đứt hòn đảo Makepeace rộng 10,2 héc ta thuộc bang Queensland
(Australia) và quyết định đầu tư thêm 3,2 triệu USD để xây dựng một trung tâm nghỉ
mát sang trọng để hàng năm các nhân viên của Virgin trên toàn cầu có cơ hội luân
phiên đến đây nghỉ mát, an dưỡng. Riêng cách tiêu xài độc đáo này thì khó có ai dám
bảo ông là... bình dân.
Người đàn bà 'bóp' đá ra tiền
10
- Chị Trần Thị Chuyển là người khởi xướng nghề khai thác đá ở thôn Quang Thừa, xã
Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, Hà Nam. Đây vốn là nơi núi đá bị bỏ quên vì lấy để xây
nhà thì tốn xi măng, đắt tiền; khai thác làm đường thì khó vận chuyển vì quá xa và khó
đi.
Bất chấp những trở ngại đó, chị Chuyển rủ thêm vài người góp vốn, mua một máy xay
đá mini để bắt đầu khai thác. Chị nhớ lại: "Thiếu tiền, phải làm đơn tới Ngân hàng
Nông nghiệp - Phát triển nông thôn huyện Kim Bảng vay thêm 20 triệu đồng thì mới
mua được máy". Số tiền đó lúc bấy giờ (năm 1994) tương đương với 7 cây vàng, theo
giá hiện giờ hơn 42 triệu đồng, song vẫn không đủ để làm đá theo kiểu công nghiệp.
Chị tìm gặp trực tiếp ông Nguyễn Văn Châm, Giám đốc Ngân hàng, đặt vấn đề vay
200 triệu đồng. Sau khi nghe trình bày về cách tính toán đầu ra, đầu vào, lợi tức, doanh
thu từng tháng, từng năm và đích thân kiểm tra cơ sở, ông Châm đã đồng ý cho vay với
lãi suất 0,8%.
Công việc đầu tiên chị làm cho bãi đá là lắp đặt một trạm biến thế điện, một đường
dây điện. Các máy móc chị Chuyển mua ngày ấy giờ trị giá hàng tỷ đồng. Bình quân
mỗi ngày, cơ sở của chị sản xuất khoảng 180 m3 đá loại 1 và 2 với giá khoảng 35.000
đồng/m3. Trừ chi phí cho cơ sở khoảng 69 triệu đồng (bao gồm tiền trả lương cho
100 công nhân, 12 triệu đồng tiền điện và nhiều chi phí lặt vặt khác), mỗi tháng chị
thu về khoảng 100 triệu đồng.
Cơ sở của chị chỉ làm 3 tháng đầu và cuối năm. Chị giải thích: "Đây là vùng nông thôn,
cứ đến mùa vụ là người làm đá thuê lại về gặt hái, cày cuốc, bón phân, cào cỏ... Vì
vậy, làm đá cũng phải có mùa". Năm nay, chị cho biết, sẽ vay thêm của ngân hàng 100
triệu đồng nữa để làm ăn lớn hơn.
Đến nay, ở Tượng Lĩnh đã có 5, 6 cơ sở khai thác đá khác ra đời và đều vay vốn từ
Ngân hàng Nông nghiệp - Phát triển nông thôn huyện. Ông Lê Văn Tâm, Chủ tịch
UBND huyện Kim Bảng, bày tỏ: "May có nghề khai thác đá, nếu không lúc nông nhàn,
số lao động này sẽ phải tự bươn trải rồi không biết sẽ kéo bao nhiêu tệ nạn về". Bãi
đá, với sự khởi đầu quyết liệt của người đàn bà trẻ, nhỏ bé, cách đi đứng, ăn mặc,
tiếp khách đều "đặc sệt" phong thái nông dân, không chỉ là nơi giải quyết vấn đề kinh
tế mà còn giúp đỡ địa phương thực hiện chính sách xã hội.
*****************************
11
nguon tai.lieu . vn