Xem mẫu
- HIẾN PHÁP HOA KỲ & HỆ THỐNG TƯ PHÁP LIÊN BANG
Bài viết số III của Hiến pháp Hoa kỳ thiết lập nhánh quyền lực Tư pháp riêng biệt và độc lập
với những nhánh quyền lực của chinh quyền liên bang. Hai nhánh kia là lập pháp và hành
pháp.
Các tòa án Liên bang thường được gọi là kẻ bảo dưỡng cho Hiến pháp bởi vì những qui định
của họ là bảo vệ các quyền và tự do đảm bảo bởi hiến pháp. Thông qua sự công bằng và vô
tư, tòa án liên bang giải thích và áp dụng luật pháp để giải quyết những tranh châp. Tòa án
không làm luật. Đó là trách nhiệm của Quốc hội. Tòa án cũng không có quyền lực để thi hành
luật. Đây là vai trò của Tổng thồng và nhiều cơ quan, bộ ngành thuộc phạm vi hành chánh.
Những vị khai quốc công thần đã cân nhắc đến tính thiết yếu cần có một ngành tư pháp liên
bang độc lập để bảo đảm tính phán quyết vô tư và công bằng cho toàn thể công dân của Hợp
chủng quốc Hoa kỳ. Hiến pháp mà họ viết ra hướng tới ngành tư pháp độc lập với hai con
đường chính. Đầu tiên, những vị thẩm phán liên bang được chỉ định cho sự sống, và họ có thể
bị bãi miễn nhiệm sở chỉ qua sự hạ bệ và truy tố bởi quốc hội của “Treason, Bribery, or other
high Crimes and Misdemeanors” [theo giải thích của một tác giả có tên Jon Roland, từ
"high"trong cụm từ được ám chỉ cho siêu quyền lực mà phạm tội, được áp dụng vào những
nhân viên công lực lạm dụng quyền lực.] Thứ hai, Hiến pháp cung cấp rằng chế độ lương
bổng của các thẩm phán liên bang “sẽ không được giảm trong thời gian mà họ còn công tác
tại vị,” có nghĩa là ngay cả tổng thống hoặc Quốc hội cũng không thể giảm bớt lương của
một quan tòa liên bang. [Ngày nay nhiều người than phiền rằng lương bổng của ngành tư
pháp là rất thấp so với các nghành khác]. Hai sự bảo vệ này giúp một nghành tư pháp độc lập
để phán quyết những trường hợp không bị chi phối bởi nguyện vọng chung và ảnh hưởng
chính trị.
Tòa án Liên bang trong Chính quyền Hoa kỳ
Ba nhánh của chính quyền liên bang ‒ Lập pháp, hành pháp, và tư pháp ‒ điều hành trong một
hệ thống hiến pháp được biết như “Sự kiểm tra và cân đối.” Điều này có nghĩa rằng mặc dù
mỗi nghành là riêng biệt một cách nguyên tắc với hai nghành kia, nhưng Hiến pháp vẫn yêu
cầu sự hợp tác giữa các nghành. Luật lệ Liên bang, về nghành tư pháp, lần lượt qui định,
thẩm quyền xét xử để quyết định khả năng hợp hiến của luật lệ liên bang và giải quyết
những tranh chấp pháp luật khác của liên bang, nhưng thẩm phán tuỳ thuộc vào hành pháp để
thực thi bản án của tòa.
Tòa án Liên bang và Quốc hội
- Hiến pháp cho phép Quốc hội có quyền thiết lập tòa án liên bang ngoài phạm vi Tòa Tối cao
và để quyết định thẩm quyền xét xử của chúng. Tòa này là quốc hội, không phải là tư pháp,
để điều khiển thể loại của vụ án nào có thể bị chỉ ra trong tòa liên bang. Quốc hội có ba trách
nhiệm chính để quyết định thế nào một tòa án được điều hành. Thứ nhất, nó quyết định bao
nhiêu quan tòa ở đó sẽ có và họ sẽ làm việc ở nơi nào. Thứ hai, bằng quá trình kiểm định,
Quốc hội quyết định người cuối cùng trong số được tổng thồng đề cử cho vị trí quan tư pháp
để trở thành chánh án liên bang. Thứ ba, Quốc hội chuẩn thuận chi tiêu cho tòa liên bang và
xác định số tiền để cho nghành tư pháp tiêu dùng. Chi phí của nghành tư pháp là một phần rất
nhỏ ‒ nhỏ hơn một phần trăm ‒ toàn bộ chi phí liên bang.
Tòa án liên bang và Cộng đồng
Chắn chắn là những ngoại lệ rất giới hạn, mỗi bước của qui trình tư pháp liên bang là mở
rộng với cộng đồng. Nhiều nơi xử án liên bang là những tòa nhà lịch sử và tòan bộ chúng
được thiết kế để tạo cảm hứng cho cộng đồng một sự tôn nghiêm về truyền thống và mục
tiêu của quá trình xét xử của người Mỹ.
Một công dân Mỹ đơn lẽ mà mong muốn quan sát một phiên tòa trong giai đoạn xét sử có thể
đến với phòng xét xử liên bang, kiểm tra lịch trình tòa án, và nhìn mọi sự diễn tiến. Bất kỳ ai
cũng có thể xem qua việc dẫn chứng biện hộ và những giấy tờ khác trong một vụ án bằng
cách tiếp xúc với thư ký tòa và hỏi về thông tin của vụ án đó. Không giống như hầu hết các
tòa tiểu bang, tuy nhiên, tòa liên bang thông lệ không cho phép sự phát sóng của truyền hình và
truyền thanh để thông tin về vụ án.
Những văn kiện và tập tin dữ liệu của một vài vụ án là có sẵn trên mạng thông tin điện tử
thông qua sự truy cập công cộng tới hệ thống lưu trữ báo cáo điện tử của tòa án (được biết
như là “PACER”), tại www.pacer.uscourts.gov. Hơn nữa, gần như mỗi tòa liên bang đều bảo
trì một trang điện tử với thông tin về nguyên tắc tòa án và phương thức tiến hành riêng. Một
danh sách trang điện tử này có sẵn trên trang điện tử chính thống của nghành tư pháp tại
www.uscourts.gov , hoặc tại nơi sau cùng của cuốn sách này.
Quyền của công chúng truy cập đến quá trình xét xử là một phần được bắt nguồn từ Hiến
pháp và một phần nào từ truyền thống của tòa án. Bởi sự kết nối công việc tư pháp của họ
trong sự quan sát của công chúng, quan tòa nâng cao tính tự tin trước công luận trong phiên
tòa, và họ cho phép những công dân của họ học được bài học đầu tay là hệ thống tư pháp làm
việc như thế nào.
Trong một vài tình huống công chúng không thể truy cập toàn bộ những báo cáo và quá trình
diễn tiến vụ án. Trong một vụ án với nhiều tình tiết, ví dụ, có thể không đủ chỗ trong phòng
xử để cho mọi người muốn theo dõi. Lúc đó số người làm khán giả trong phòng xử có thể bị
chận lại vì an ninh và nhiều lý do cá nhân, chẳng hạn sự an toàn của trẻ vị thành niên và tính
tế nhị bảo mật của người cung cấp thông tin. Chung cuộc, các văn kiện chắc chắn được trình
quan tòa duyệt lần chót và niêm phong, có nghĩa rằng chúng không sẵn có cho công chúng.
- Những ví dụ của thông tin niêm phong bao gồm những báo cáo kinh doanh bảo mật, những
báo cáo luật chắc chắn cần thực thi, và những báo cáo của trẻ vị thành niên.
CẤU TRÚC CỦA TÒA LIÊN BANG
Tòa tối cao là tòa án cao nhất trong nghành tư pháp liên bang. Quốc hội có thể thiết lập hai
mức độ của tòa liên bang dưới Tòa án Tối cao: Tòa sơ thẩm (the trial courts) và Tòa phúc
thẩm (the appellate courts).
Tòa sơ thẩm
……………………………………………………………………………………………..
Những tòa án quận hạt của Hoa kỳ là những tòa sơ thẩm trong hệ thống tòa án liên bang.
Trong sự sắp đặc có giới hạn bởi Quốc hội và Hiến pháp, những tòa án quận hạt có thẩm
quyền để tiếp nhận gần như hầu hết mọi loại vụ án xét xử liên bang, bao gồm cả dân sự và
hình sự. Có tất cả là 94 quận hạt tư pháp liên bang, mỗi tiểu bang có ít nhất một cái. Quận
Columbia và Puerto Rico, mỗi quận gồm một tòa Hoa kỳ chuyên giải quyết chuyện phá sản
được xem như là một đơn vị của tòa quận hạt. Ba lãnh thổ của Hoa kỳ―quần đảo Virgin,
Guam, và quần đảo Northern Mariana―có những tòa quận hạt ở đó tiếp nhận những vụ xử
liên bang, bao gồm cả những vụ phá sản.
Có hai tòa sơ thẩm đặc biệt mà ở đó có phạm vi xét xử trên toàn quốc ở một số loại vụ án.
Tòa án thương mại quốc tế chuyên xét những vụ dính dáng đến thương mại quốc tế và
những qui định hải quan. Tòa án Hoa kỳ chuyên về những yêu sách Liên bang có thẩm quyền
giải quyết trên hầu hết những yêu cầu về thiệt hại tiền bạc, những tranh chấp trên những
hợp đồng liên bang, “những chiếm dụng” không hợp pháp tài sản cá nhân bởi chính phủ liên
bang, và một sự đa dạng của nhiều yêu cầu khác đòi hỏi Hoa kỳ bồi hoàn.
Tòa phúc thẩm
……………………………………………………………………………………………
94 quận hạt tư pháp được tổ chức thành 12 khu vực hoạt động, mỗi một khu vực có một tòa
phú thẩm Hoa kỳ. Một tòa phúc thẩm nghe những thỉnh cầu từ các tòa quận hạt nằm trong
phạm vị hoạt động của nó, cũng như các kháng cáo từ các quyết định của các cơ quan công
quyền. Hơn nữa, Tòa phuc thẩm có phạm vi Liên bang có thẩm quyền xét xử trên toàn quốc
để nghe những thỉnh nguyện trong những trường hợp đặc biệt, chẳng hạn những trường hợp
có yếu tố luật bản quyền và những trường hợp đã phán quyết bởi Tòa thương mại quốc tế và
Tòa yêu sách Liên bang.
- Tòa án Tối cao Hoa kỳ
………………………………………………………………………………………….
Tòa án Tối cao Hoa kỳ có Chánh Thượng thẩm và tám vị trợ thẩm. Trong những giới hạn đã
vạch sẵn bởi quốc hội và sự chỉ đạo của chánh thượng thẩm, Tòa án tối cao mỗi năm nghe
một số giới hạn trường hợp được yêu cầu quyết định. Những trường hợp này có thể bắt đầu
trong tòa tiểu bang hoặc liên bang, và chúng thường có những câu hỏi liên hệ quan trọng về
Hiến pháp hoặc luật liên bang.
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN LIÊN BANG
Trước khi một tòa án liên bang có thể tiếp nhận một trường hợp xét xử, hoặc “thực thi quyền
xét xử của nó”, những điều kiện cần và đủ gồm có. Thứ nhất, dưới ánh sang của Hiến pháp,
tòa Liên bang chỉ thực thi sức mạnh “tư pháp”. Có nghĩa là những quan tòa liên bang có thể
giải thích luật thông qua những giải pháp liên quan đến những tranh chấp thực tế, dựa vào cơ
sở lý luận của Điều III Hiến pháp. Một phiên tòa không thể cố gắng chủ động làm đúng một
vấn đề, hoặc để trả lời một câu hỏi có tính giả thuyết về luật.
Thứ nhì, giả sử có một trường hợp hoặc một cuộc tranh cãi thực tế, nguyên đơn trong một vụ
kiện liên bang cũng phải có “lập trường” luật để hỏi tòa về một quyết định. Điều đó có nghĩa
là nguyên đơn phải trãi qua khổ sở, hoặc bị hảm hại thế nào đó, bởi người bị kiện.
Thứ ba, đơn kiện phải trình bày một thể loại tranh chấp mà luật pháp trong phạm vi được
thiết lập để chuyên tâm đến, và nó phải bị trách phiền là tòa án có quyền lực để ra biện pháp
khắc phục. Nói một cách khác, tòa án phải được quyền phép hóa, dưới ánh sang của Hiến
pháp và của một luật liên bang, để tiếp nhận đơn kiện và ban sự xoa dịu xác đáng cho nguyên
đơn. Cuối cùng, đơn kiện không có thể là “một vụ giả định”, mà nó phải trình bày một vấn
đề đang diễn tiễn để tòa giải quyết. Do đó, tòa liên bang là những tòa có thẩm quyền xét xử
“giới hạn” bởi vì họ chỉ có thể quyết định những trường hợp đơn kiện hội đủ những tiêu
chuẩn của Quốc hội và tuân thủ Hiến pháp.
Mặc dù các chi tiết phức tạp của trang thông tin điện tử của ngành tư pháp liên bang mà Quốc
hội đã và đang ủy thác cho các tòa án liên bang là vượt tầm của hướng dẫn ngắn này, thế
nhưng nó là quan trọng để hiểu rằng có hai nguồn gốc chính của các đơn khiếu kiện nạp đến
những tòa án liên bang: đó là “câu hỏi về chính phủ liên bang” thẩm quyền và “tính đa dạng”
thẩm quyền xét xử.
Tổng quát, những đơn kiện mà những tòa liên bang có thể thụ lý đểu có tính liên quan đến
chính phủ Hoa kỳ, Hiến pháp Hoa kỳ hoặc luật lệ liên bang, hoặc có tính tranh luận giữa
những tiểu bang hoặc giữa chính phủ Hoa kỳ và các chính phủ nước ngoài. Một trường hợp
mà tăng tính “câu hỏi về chính phủ liên bang” thì có thể điền đơn kiện tại một tòa liên bang.
- Những ví dụ cho những trường hợp như vậy có lẽ gồm vào một đòi hỏi bởi một cá nhân cho
quyền lợi về một chương trình của chính phủ liên bang chẳng hạn như An sinh Xã hội, một
đòi hỏi của chính phủ mà một vài người đã vi phạm luật lệ liên bang, hoặc một thách thức
làm cho một cơ quan liên bang phải vào nhập cuộc.
Một đơn kiện có thể nộp ở tòa liên bang dựa trên cơ sở “tính đa dạng của tình trạng quốc
tịch” của những người đi kiện, chẳng hạn giữa những công dân của những tiểu bang khác
nhau, hoặc giữa công dân Hoa kỳ và công dân các quốc gia khác. Để bảo đảm tính vô tư với
người đi kiện đến từ bên ngoài, Hiến pháp qui định rằng những trường hợp như vậy sẽ được
một tòa án liên bang thụ lý. Một giới hạn quan trọng với tính đa dạng thẩm quyền xét xử là
chỉ những đơn kiện liên quan tới hơn 75,000 dollars định giá trị những hư hại mới có thể
được một tòa liên bang thụ lý. Đòi hỏi thiệt hại ít hơn con số trên thì chỉ có thể nộp đơn kiện
ở một tòa án tiểu bang. Hơn nữa, bất kỳ đơn kiện nào có tính đa dạng thẩm quyền xét xử thì
không kể số tiền đòi bồi thường là bao nhiêu thì có lẽ đều được mang vào một tòa án tiểu
bang hơn là một tòa liên bang.
Những tòa án liên bang cũng có thẩm quyền thụ lý về mọi vấn đề khai phá sản mà Quốc hội
đã nhận định nên đưa vào trong những tòa liên bang hơn là tòa tiểu bang. Do quá trình khai phá
sản của những cá nhân hay doanh nghiệp là không còn khả năng chi trả nên có lẽ tìm kiêm sự
bán đổ bán tháo tài sản của họ dưới sự giám sát của tòa án, hoặc là họ có thể tổ chức lại
nguồn tài chánh và thiết lập ra một kế hoặch để trả lần những món nợ đó.
Mặc dầu tòa liên bang tọa lạc ở mỗi tiểu bang, chúng không chỉ là diễn đàn sẵn có để tạo
tiềm năng cho những người thích kiện cáo. Trong thực tế, nhóm tuyệt đại đa số của những
vụ khiếu kiện trong những tòa án Hoa kỳ là được nhằm vào những hệ thống tòa án tiểu bang
riêng rẻ. Ví dụ, những tòa tiểu bang có thẩm quyền xét xử trên tất cả những vụ liên quan đến
đạo lý như ly dị và những vấn nạn trẻ phạm tội, di chúc và những vấn đề di sản thừa kế,
những bất động sản có dấu hỏi, và những vấn đề trẻ vị thành niên phạm tội, và hầu hết họ
xử lý các vụ án hình sự, những tranh chấp hợp đồng, vi phạm giao thông, và những vụ thương
tích cá nhân. Mặt khác, một số chuyên mục của luật pháp đã giải quyết tranh chấp trong
những tòa án đặc biệt hoặc những tổ chức mà là bộ phận của hành pháp và tư pháp liên bang,
và bởi những cơ quan công quyền tiểu bang và liên bang.
CÁC QUAN TÒA HOA KỲ
Công việc của những tòa án liên bang đụng chạm đến nhiều nguồn lợi ích quan trọng nhất
ảnh hưởng đến người dân Mỹ, và những quan tòa liên bang thực thi quyền hạn trên phạm vi
rộng và sự tự do trong những công tác xét xử mà họ chủ trì. Phần này thảo luận cách thức mà
thẩm phán liên bang được lựa chọn, và cung cấp các thông tin cơ bản về tư pháp, bồi thường
thiệt hại, đạo đức, và vai trò của người cao niên và các thẩm phán được hồi nhiệm.
Lịch Hẹn và Bồi thường thiệt hại
……………………………………………………………………………………………
- Công lý của Tòa án tối cao, các thẩm phán của tòa kháng cáo, tòa án trên địa bàn quận huyện,
và các thẩm phán của Toà án Thương mại Quốc tế, được Tổng thống Hoa kỳ bổ nhiệm theo
Điều III Hiến pháp với sự cố vấn và chấp thuận của Thượng viện. Theo Điều III các thẩm
phán được bổ trách nhiệm nắm vận mệnh sự sống, các thẩm phán chỉ có thể bị truất nhiệm
thông qua qui trình luận tội. Mặc dù không có tiêu chuẩn đặc biệt để trở thành một thẩm phán
của các tòa án, nhưng người được đề cử thường là rất riêng tư hoặc là những công tố viên,
thẩm phán từ các tòa án của tiểu bang, những quan tòa hành chánh địa phương hoặc quan tòa
khai phá sản, hoặc những giáo sư luật. Bộ máy tư pháp không diễn vai trò nào trong bổ nhiệm
hoặc chứng thực.
Những Thẩm phán chuyên xử phá sản là những nhân viên nghành tư pháp của những tòa án
quận huyện và được chỉ định bởi những tòa phúc thẩm cho nhiệm kỳ là 14 năm. Những thẩm
phán hành chánh cũng là những nhân viên nghành tư pháp bởi những thẩm phán của tòa quận
huyện cho nhiệm kỳ tám năm. Tổng thống và Thượng viện không trình diễn vai trò gì trong
việc chọn lựa các thẩm phán hành chánh và chuyên giải quyết phá sản. Những thẩm phán của
Tòa án Yêu sách Liên bang được chỉ định cho nhiệm kỳ 15 năm bởi Tổng thống có sự cố vấn
và chấp thuận của Thượng viện.
Mỗi tòa án trong hệ thống liên bang có một chánh thẩm phán là người, ngoài việc thụ lý các
trường hợp xét sử, còn có trách nhiệm quản trị hành chánh những hoạt động liên quan đến
điều hành tòa án. Chánh thẩm phán thông thường là thẩm phán người đã phục vụ lâu năm
nhất cho tòa án. Chánh thẩm phán của tòa quận và tòa kháng án phải nhỏ hơn 65 tuổi. Họ có
thể phục vụ nhiều nhất là 7 năm và không có thể phục vụ như chánh thẩm phán ở tuổi ngoài
70.
Tòan bộ thẩm phán liên bang nhận những khoản lương và lợi ích được thiết lập bởi Quốc
hội. Lương của ngành tư pháp là gần như tương đương với lương của các Thành viên Quốc
hội.
Đạo đức ngành tư pháp
………………………………………………………………………………………………
Các thẩm phán liên bang tuân thủ một Bộ mã Dẫn giãi dành cho giới thẩm phán Hoa kỳ, một
tập hợp các nguyên tắc đạo đức và qui định được chấp nhận bởi Hội đồng Tư pháp Hoa kỳ.
Bộ mã Dẫn giãi cung cấp chỉ dẫn cho những thẩm phán những phát hành của quyền tự do và
độc lập xét xử, tính cần củ và tính vô tư, những hoạt động có thể chấp nhận ngoài phạm vi
quyền xét xử, và tránh xa thói bất lịch sự hoặc ngay ở vẻ bên ngoài của nó.
Những thẩm phán không có thể thụ lý những vụ án mà ở đó họ cũng có kiến thức cá nhân về
những thực tế tranh chấp, một sự thiên vị cá nhân quan tâm một bên của vụ án, sự liên quan
sớm trong vụ án như một luật sư, hoặc một lợi ích tài chánh trong bất kỳ bên nào hoặc vấn
đề chủ thể của vụ án.
Nhiều thẩm phán liên bang dành thời gian cho phục vụ cộng đồng và những hoạt động giáo
dục. Họ có một lịch sử đặc sắc phục vụ bằng sự chuyên nghiệp về luật lệ thông qua bài viết,
- bài nói chuyện, và giảng dạy của họ. Vai trò quan trọng này là được nhận biết trong Bộ mã
của Dẫn Giãi, trong đó khuyến khích những thẩm phán tham gia vào những hoạt động để cải
thiện quy định của pháp luật, hệ thống luật lệ, và quản trị công lý.
Cao niên và những Thẩm phán về hưu được tái nhiệm
…………………………………………………………………………………………………….
Tòa án của những thỉnh nguyện, tòa quận huyện, và Tòa án Thương mại Quốc tế thẩm phán
có đời sống bổ nhiệm, và họ có thể nghỉ hưu ở tuổi 65 nếu họ hội đủ số năm yêu cầu phục
vụ. Hầu hết thẩm phán theo Điều III là những người đủ tư cách để nghỉ hưu nhưng quyết
định tiếp tục công việc thẩm lý xét xử bằng toàn thời gian hoặc bán thời gian cơ bản như
“những thẩm phán lớn tuổi”. Những thẩm phán về phá sản, hành chánh, và Tòa án Yêu sách
Liên bang đã được nghỉ hưu cũng có thể “bị gọi lại” để phục nhiệm xét xử. Với sự vắng
bóng những cố gắng của những thẩm phán cao tuổi và phục nhiệm, thì phạm vi quyền xét xử
cần có thêm nhiều thẩm phán để đủ giải quyết hết công việc của nó. Những thẩm phán cao
tuôi, ví dụ, theo tiêu chuẩn giải quyết khoảng 15 – 20% đơn chống án và số lượng công việc
của tòa quận.
Tài liệu tham khảo:
1. Jon Roland, ‘Meaning of “High Crimes and Misdemeanors”‘_ Constitution Society.
(http://www.constitution.org/cmt/high_crimes.htm)
2. Understanding the federal courts. Địa chỉ trang điện tử:
http://www.uscourts.gov/understand03/
Để lại phản hồi
Chưa có phản hồi.
RSS của phản hồi TrackBack
nguon tai.lieu . vn