Xem mẫu
- Chương 3: công nghệ chuyển mạch
Hệ tổng đài dùng nhân công gọi là loại dùng điện từ
được xây dựng ở New Haven của Mỹ nǎm 1878 là tổng
đài thương mại thành công đầu tiên trên thế giới. Để đáp
ứng yêu cầu ngày càng tǎng về các dịch vụ điện thoại
một cách thoả đáng và để kết nối nhanh cán cuộc nối
chuyện và vì mục đích an toàn cho các cuộc gọi, hệ tổng
đài tự động không cần có nhân công được A.B Strowger
của Mỹ phát minh 1889. Version cải tiến của mô hình
này, gọi là hệ tổng đài kiểu Strowger trở thành phổ biến
vào các nǎm 20. Trong hệ tổng đài Strowger, các cuộc
gọi được kết nối liên tiếp tuỳ theo các số điện thoại trong
hệ thập phân và do đó được gọi là hệ thống gọi theo
từng bước. EMD (Edelmatall-Drehwahler) do công ty
Siemens của Đức phát triển cũng thuộc loại này; hệ
thống này còn được gọi là hệ tổng đài cơ vì các chuyển
mạch của nó được vận hành theo nguyên tắc cơ điện.
Do đại chiến thế giới thứ II bùng nổ, sự cố gắng lập nên
các hệ tổng đài mới bị tạm thời đình chỉ. Sau chiến tranh,
nhu cầu về các hệ tổng đài có khả nǎng xử lý các cuộc
gọi đường dài tự động và nhanh chóng đã tǎng lên. Phát
triển loại hệ tổng đài này yêu cầu phải có sự tiếp cận mới
hoàn toàn bởi vì cần phải giải quyết các vấn đề phức tạp
về tính cước và việc truyền cuộc gọi tái sinh yêu cầu phải
có xử lý nhiều khâu. Ericsson của Thuỵ Điển đã có khả
nǎng xử lý vấn đề này bằng cách phát triển thành công
hệ tổng đài có các thanh cheó (Cross bar). Hệ tổng đài
có các thanh chéo được đặc điểm hoá bởi việc tách hoàn
toàn việc chuyển mạch cuộc goị và các mạch điều khiển
được phát triển đồng thời ở Mỹ. Đối với mạch chuyển
mạch chéo, loại thanh chéo kiểu mở /đóng được sử
dụng; bằng cách sử dụng loại chuyển mạch này có một
bộ phận mở/đóng với điểm tiếp xúc được giáp vàng, các
- đặc tính của cuộc gọi được cải tiến rất nhiều. Hơn nữa,
một hệ điều khiển chung để điều khiển một số các
chuyển mạch vào cùng một thời điểm được sử dụng. Đó
là các xung quay số được dồn lại vào các mạch nhớ và
sau đó được xác định kết hợp trên cơ sở của các số đã
quay được ghi lại để lựa chọn mạch tái sinh.
Nǎm 1965, Một hệ tổng đài điện tử thương mại có dung
lượng lớn gọi là hệ ESS số 1 được thương mại hoá
thành công ở Mỹ do vậy đã mở ra một kỷ nguyên mới
cho các hệ tổng đài điện tử. Không giống với các hệ tổng
đài thông thường sử dụng các chuyển mạch cơ, hệ thống
ESS số 1 là hệ tổng đài sử dụng các mạch điện tử. Việc
nghiên cứu loại hệ tổng đài này đã được khởi đầu từ đầu
những nǎm 40 và được xúc tiến nhanh sau khi có phát
minh ra đèn ba cực vào những nǎm 50. Hệ tổng đài điện
tử mới được phát triển khác về cơ bản với các hệ thông
thường ở điểm là trong khi hệ sau này sử dụng mạch
điều khiển chuyển mạch dùng các lô-gíc kiểu dây thì hệ
trước đây dùng các thao tác logic bằng các phương tiện
phần mềm lắp đặt trong hệ thống. Ngoài ra, hệ tổng đài
điện tử mới triển khai tạo được sự điều khiển một cách
linh hoạt bằng cách thay thế phần mềm cho phép người
sử dụng có dịch vụ mới. Đồng thời, để vận hành và bảo
dưỡng tốt hơn, tổng đài này được trang bị chức nǎng rự
chẩn đoán. Tầm quan trọng việc trao đổi thông tin và số
liệu một cách kịp thời và có hiệu quả đang trở nên quan
trọng hơn khi xã hội tiến đến thế kỷ 21. Để đáp ứng đầy
đủ một phạm vi rộng các nhu cầu của con người sống
trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên thông tin, các dịch vụ
mới như dịch vụ truyền số liệu, dịch vụ truyền hình bao
gồm cả dịch vụ điện thoại truyền hình, các dịch vụ truyền
thông di động đang được phát triển và thực hiện. Nhằm
thực hiện có hiệu quả các dịch vụ này, IDN (mạng lưới số
tích hợp) có khả nǎng kết hợp công nghệ chuyển mạch
- và truyền dẫn thông qua qui trình sử lý số là một điều
kiện tiên quyết. Ngoài ra, việc điều chế xung mã (PCM)
được dùng trong các hệ thống truyền dẫn đã được áp
dụng cho các hệ thống chuyển mạch để thực hiện việc
chuyển mạch số. Dựa vào công nghệ PCM này, một
mạng đa dịch vụ số (ISDN) có thể xử lý nhiều luồng với
các dịch vụ khác nhau đang được phát triển hiện nay.
2.1.3 Các chức nǎng của hệ thống tổng đài
Mặc dù các hệ thống tổng đài đã được nâng cấp rất
nhiều từ khi nó được phát minh ra, các chức nǎng cơ
bản của nó như xác định các cuộc gọi của thuê bao, kết
nối với thuê bao bị gọi và sau đó tiến hành việc phục hồi
lại khi các cuộc gọi đã hoàn thành, hầu như vẫn như cũ.
Hệ tổng đài dùng nhân công tiến hành các quá trình này
bằng tay trong khi hệ tổng dài tự động tiến hành các việc
này bằng các thiết bị điện.
Trong trường hợp đầu, khi một thuê bao gửi đi một tín
hiệu thoại tới một tổng đài, nhân viên cắm nút trả lời của
đường dây bị gọi vào ổ cắm của dây chủ gọi để thiết lập
cuộc gọi với phía bên kia. Khi cuộc gọi đã hoàn thành,
người vận hành rút dây nối ra và đqa nó về trạng thái ban
đầu. Hệ tổng đài nhân công được phân loại thành lloại
điện từ và hệ dùng ǎc-qui chung. Đối với loại dùng điện
từ, thì thuê bao lắp thêm cho mỗi ǎc-qui một nguồn cấp
điện. Các tín hiệu gọi và tín hiệu hoàn thành cuộc gọi
được gửi đến người thao tác viên bằng cách sử dụng từ
trường. Đối với hệ dùng ắc qui chung, nguồn điện được
cung cấp chung và các tín hiệu gọi và tín hiệu hoàn thành
cuộc gọi được đơn giản chuyển đến người thao tác viên
thông qua các đèn. Đối với hệ tổng đài tự động, các cuộc
gọi được phát ra và hoàn thành thông qua các bước sau:
- 1) Nhận dạng thuê bao chủ gọi: Xác định khi thuê bao
nhấc ống nghe và sau đó cuộc gọi được nối với mạch
điều khiển.
2) Tiếp nhận số được quay: Khi đã được nối với mạch
điều khiển, thuê bao chủ gọi bắt đàu nghe thấy tín hiệu
mời quay số và sau đó chuyển số điện thoại của thuê
bao bị gọi. hệ tổng đài thực hiện các chức nǎng này.
3) Kết nối cuộc gọi: Khi các số quay được ghi lại, thuê
bao bị gọi đã được xác định, thì hệ tổng đài sẽ chọn một
bộ các đường trung kế đến tổng đài của thuê bao bị gọi
và sau đó chọn một đường rỗi trong số đó. Khi thuê bao
bị gọi nằm trong tổng đài nội hạt, thì một đường gọi nội
hạt được sử dụng.
4) Chuyển thông tin điều khiển: Khi được nối đến tổng
đài của thuê bao bị gọi hay tổng đài trung chuyển, cả hai
tổng đài trao đổi với nhau các thông tin cần thiết như số
thuê bao bị gọi.
5) Kết nối trung chuyển: Trong trường hợp tổng đài được
nối đến là tổng đài trung chuyển, mục 3) và 4) trên đây
được nhắc lại để nối với trạm cuối và sau đó thông tin
như số thuê bao bị gọi đưọc truyền đi.
6) Kết nối tại trạm cuối: Khi trạm cuối được đánh giá là
trạm nội hạt dựa trên số của thuê bao bị gọi được truyền
đi, thì bộ điều khiển trạng thái máy bận của thuê bao bị
gọi được tiến hành. Nếu máy không ở trạng thái bận, thì
một đường nối được nối với các đường trung kế được
chọn để kết nối cuộc gọi.
7) Truyền tín hiệu chuông: Để kết nối cuộc gọi tín hiệu
chuông được truyền và chờ cho đến khi có trả lời từ thuê
- bao bị gọi. Khi trả lời, tín hiệu chuông bị ngắt và trạng
thái được chuyển thành trạng thái máy bận.
8) Tính cước: Tổng đài chủ gọi xác định câu trả lời của
thuê bao bị gọi và nếu cần thiết, bắt đầu tính toán giá trị
cước phải trả theo khoảng cách gọi và theo thời gian gọi.
9) Truyền tín hiệu báo bận: Khi tất cả các đường trung kế
đều đã bị chiếm theo các bước trên đây hoặc thuê bao bị
gọi bận, thì tín hiệu bận được truyền đến cho thuê bao
chủ gọi.
10) Hồi phục hệ thống: Trạng thái này được xác định khi
cuộc gọi kết thúc. Sau đó, tất cả các đường nối đều được
giải phóng.
Như vậy, các bước cơ bản do hệ thống tổng đài tiến
hành để xử lý các cuộc gọi đã dược trình bày ngắn gọn.
Trong hệ thống tổng đài điện tử, nhiều đặc tính dịch vụ
mới được thêm vào cùng với các chức nǎng trên. Những
điều này sẽ được bàn thêm sau này.
Các điểm cơ bản sau đây phải được xem xét khi thiết kế
các chức nǎng này.
1) Tiêu chuẩn truyền dẫn: mục đích đầu tiên của việc đấu
nối điện thoại là truyền tiếng nói và theo đó là một chỉ tiêu
của việc truyền dẫn để đáp ứng chất lượng gọi phải
được xác định bằng cách xem xét sự mất mát khi truyền,
độ rộng dải tần số truyền dẫn, và tạp âm.
2) Tiêu chuẩn kết nối: điều này liên quan đến vấn đề duy
trì dịch vụ đấu nối cho các thuê bao. Nghĩa là, đó là chỉ
tiêu về các yêu cầu đối với các thiết bị tổng đài và số các
đường truyền dẫn nhằm bảo đảm chất lượng kết nối tốt.
Nhằm mục đích này, một nạng lưới tuyến linh hoạt có
- khả nǎng xử lý đường thông có hiệu quả với tỷ lệ cuộc
gọi bị mất ít nhất phải được lập ra.
3) Độ tin cậy: các thao tác điều khiển phải được tiến
hành phù hợp, đặc biệt các lỗi xuất hiện trong hệ thống
với các chức nǎng điều khiển tập trung có thể gặp phải
hậu quả nghiêm trọng trong thao tác hệ thống. Theo đó,
hệ thống phải có được chức nǎng sửa chữa và bảo
dưỡng hữu hiệu bao gồm việc chẩn đoán lỗi, tìm và sửa
chữa.
4) Độ linh hoạt: số lượng các cuộc gọi có thể xử lý thông
qua các hệ thống tổng đài đã tǎng lên rất nhiều và nhu
cầu nâng cấp các chức nǎng hiện nay đã tǎng lên. Do
đó, hệ thống phải đủ linh hoạt để mở rộng và sửa đổi
được.
5) Tính kinh tế: Do các hệ tổng đài điện thoại là cơ sở
cho việc truyền thông đại chúng, chúng phải có hiệu quả
về chi phí và có khả nǎng cung cấp các dịch vụ thoại chất
lượng cao. Cǎn cứ vào các xem xét trên đây, một số loại
tổng đài tự động đã được triển khai và lắp đặt kể từ khi
nó được đưa vào lần đầu tiên.
nguon tai.lieu . vn