Xem mẫu

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 17 (5), 77 – 94

HỆ SINH THÁI HỢP TÁC CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP:
QUAN ĐIỂM CỦA GIẢNG VIÊN
Nguyễn Kim Dung1, Phạm Thị Hương2
Viện Nghiên cứu Giáo dục – Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Tài chính - Marketing

1
2

Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 16/05/2017
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
28/06/2017
Ngày chấp nhận đăng: 10/2017
Title:
Vietnamese university business cooperation
ecosystem: Perspective of
academics
Keywords:
University - business
cooperation, UBC ecosystem,
academics, Vietnam
Từ khóa:
Hợp tác trường đại học –
doanh nghiệp, hệ sinh thái
hợp tác, giảng viên,
Việt Nam

ABSTRACT
Most of higher education institutions in Vietnam are oriented to be institutions
that can meet the employment of society through collaborating with business.
This article examines the state of university – business collaborations in
Vietnam from the perspective of academics. An online survey was employed as
a major research instrument to investigate the state of collaborating between
university and business in Vietnam. A group of 242 research academics joined
the study. The extent of cooperation was found to be at low and medium level
for research academics in eight types of cooperation: collaboration in R&D,
mobility of academics, mobility of students, curriculum development and
delivery, lifelong learning, entrepreneurship, commercialization of research
and development results, and governance. Drivers, barriers, and situational
factors of the cooperation were also identified in this study. The study was
quantitative in nature and was conducted online. This provides an overall view
of the extent of cooperation in Vietnam. It is suggested to investigate the state of
cooperation in depth applying qualitative methods including interviews with
experts. The article discusses the ecosystem of university-business cooperation
(UBC) in Vietnam. Based on the system, the authors offer suggestions to policy
makers on how to keep the UBC ecosystem work.

TÓM TẮT
Trong giai đoạn phát triển hiện nay hầu hết các trường đại học ở Việt Nam đều
xác định là các cơ sở giáo dục có thể đáp ứng được nhu cầu việc làm của xã
hội. Một trong những cách tiếp cận để các trường có thể đào tạo nguồn nhân
lực như vậy là thông qua hợp tác với các doanh nghiệp. Bài viết xem xét thực
trạng hợp tác của các trường đại học và doanh nghiệp tại Việt Nam từ quan
điểm của giảng viên thông qua khảo sát trực tuyến. Khảo sát được thiết kế cho
ba nhóm đối tượng: giảng viên có hợp tác với các doanh nghiệp ở mức rất thấp,
giảng viên có nghiên cứu khoa học và đại diện cơ sở giáo dục đại học. Bài viết
trình bày kết quả nghiên cứu từ góc độ giảng viên có tham gia nghiên cứu (242
người) về mức độ hợp tác trường đại học và doanh nghiệp. Kết quả của nghiên
cứu cho thấy giảng viên hợp tác với doanh nghiệp ở mức độ thấp và trung bình
tương ứng với tám phương thức hợp tác: hợp tác trong nghiên cứu và phát
triển, luân chuyển của giảng viên, luân chuyển của sinh viên, xây dựng và triển
khai chương trình đào tạo, học tập suốt đời, tinh thần khởi nghiệp, thương mại

77

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 17 (5), 77 – 94
hóa, phát triển các kết quả nghiên cứu và quản trị đại học. Thuận lợi, khó khăn
và yếu tố khác của sự hợp tác cũng được phân tích trong nghiên cứu này.
Nhóm tác giả đã áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và đã được thực
hiện trực tuyến. Kết quả nghiên cứu giúp xác định bức tranh tổng thể về hợp tác
giữa doanh nghiệp và trường đại học tại Việt Nam từ quan điểm của giảng viên.
Bài viết cũng thảo luận mô hình sinh thái hợp tác trường đại học – doanh
nghiệp ở Việt Nam. Từ đó, nhóm tác giả đưa ra các khuyến nghị cho các nhà
hoạch định chính sách để hỗ trợ phát triển hợp tác trường đại học và doanh
nghiệp ở Việt Nam.

này, ở tất cả các cấp của trường đại học, được tạo
ra bằng cách kết nối với nhà tuyển dụng, trong khi
các kỹ năng của sinh viên cũng được rèn luyện
qua các hoạt động kết nối với nhà tuyển dụng. Để
có thể kết hợp với các trường đại học tái cấu trúc
chương trình đào tạo và cái tiến thực tập nghề
nghiệp, điều này đòi hỏi phải có cách thức và
phương pháp hợp tác hiệu quả giữa trường đại học
và doanh nghiệp. Sức mạnh, chiều sâu và cường
độ của sự hợp tác trường đại học-doanh nghiệp
(HTTĐH&DN) là những yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng giáo dục, được đo qua tiêu chí khả
năng việc làm.

1. GIỚI THIỆU NGỮ CẢNH VÀ LỊCH SỬ
VẤN ĐỀ
Báo cáo phát triển Việt Nam (2013) của Ngân
hàng Thế giới nhấn mạnh rằng, các nhà tuyển
dụng ở Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong
quá trình tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp. Điều
này phản ánh những thách thức của thị trường lao
động, một khoảng cách lớn giữa yêu cầu của nhà
tuyển dụng và khả năng đáp ứng của sinh viên tốt
nghiệp ở Việt Nam. Các kỹ năng nhà tuyển dụng
yêu cầu là kỹ năng giao tiếp, khả năng làm việc
theo nhóm, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng về công
nghệ thông tin, kỹ năng tư duy phê phán và sáng
tạo (The World Bank, 2012). Truyền thông Việt
Nam và các bên liên quan khác luôn bày tỏ sự
không hài lòng với tỷ lệ việc làm và tình trạng
thất nghiệp của sinh viên tốt nghiệp.

Dự án POHE2 đã bắt đầu từ giả định rằng chất
lượng của sinh viên được đánh giá dựa vào khả
năng làm việc của sinh viên tốt nghiệp trên thị
trường lao động. Dự án POHE2 đã có cơ hội để
thử nghiệm và nghiên cứu trong thực tế với quy
mô 8 trường đại học thí điểm. Nghiên cứu này là
một trong ba nghiên cứu, mỗi nghiên cứu tập
trung vào một trong ba nhóm đối tượng liên quan,
bao gồm: (a) doanh nghiệp, (b) nhà nước, và (c)
các trường đại học. Các nghiên cứu từ quan điểm
của chính phủ và các doanh nghiệp đã được thực
hiện, nghiên cứu này tập trung vào quan điểm
trường đại học.

Để giải quyết tình trạng thất nghiệp của sinh viên
sau khi ra trường và lấp khoảng cách về kỹ năng
sống và tồn tại như báo cáo của Ngân hàng Thế
giới, các bên có liên quan cho rằng, các trường đại
học có chất lượng thì phải đáp ứng các yêu cầu
này của xã hội. Điều này cũng trùng với một kết
quả trong nghiên cứu của Phạm Thị Hương
(2016) về quan điểm chất lượng của giáo dục đại
học ở Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã đưa ra
các sáng kiến khác nhau, bao gồm các thí nghiệm,
các thử nghiệm và nỗ lực điều tiết tiếp xúc giữa
các trường đại học và doanh nghiệp nhằm giúp
các trường đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội.

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Một số tác giả (Coaldrake P & Stedman, 1999; De
Ziwa, 2005) đã bàn về triết lý của trường đại học
và những triết lý này thay đổi như thế nào theo
thời gian. Triết lý đầu tiên là mô hình Humbodt về
các trường đại học định hướng nghiên cứu và kiến
tạo kiến thức thông qua các nghiên cứu khám phá

Giúp sinh viên đạt được kiến thức mà thị trường
lao động yêu cầu trở thành một điều kiện tiên
quyết của các trường đại học. Những kiến thức
78

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 17 (5), 77 – 94

hơn là chỉ truyền tải các kỹ năng trong quá khứ
hay giảng dạy (Anderson, 2010). Có ý kiến cho
rằng, triết lý này đã thúc đẩy hợp tác và nghiên
cứu ứng dụng giữa doanh nghiệp và các trường
đại học theo mô hình Humboldt. Một mô hình
khác, mô hình các trường đại học Anglo - Saxon
của Newman, ngược lại, tập trung vào một nền
giáo dục tự do, ủng hộ sự phân biệt giữa khám
phá và giảng dạy (EU, 2014). Liên minh châu Âu
đề cập đến mô hình thứ ba của các trường đại học,
mô hình Napoleon, đã thống trị ở miền Nam châu
Âu nơi mà nhà nước quy định và kiểm soát giáo
dục đại học, dẫn đến việc giáo dục không gắn với
kinh tế địa phương.

quốc gia đã dẫn đến một loạt các chính sách được
ban hành nhằm khuyến khích các trường đại học
xây dựng liên kết chặt chẽ với các doanh
nghiệp. Theo nhu cầu này, các doanh nghiệp được
cho là nên tham gia vào việc thiết kế chương trình
giảng dạy và học tập, và các trường đại học nên
làm việc chặt chẽ hơn với các đối tác kinh doanh
và công nghiệp để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp,
sự dịch chuyển của các học giả và sinh viên, dịch
chuyển giữa doanh nghiệp và trường đại học
nhằm thúc đẩy quá trình học tập suốt đời. Do đó,
một loạt các nghiên cứu đã tiến hành trong thập
kỷ qua để nghiên cứu về sự hợp tác này. Một
nghiên cứu tổng quan về HTTĐH&DN ở Châu
Âu (SBMRC, 2011) và báo cáo Wilson do chính
phủ Anh tài trợ (Wilson, 2012) là một vài ví dụ.

Vào thế kỷ 19, để đáp ứng yêu cầu của các ngành
công nghiệp đang phát triển, các trường đại học
dân sự ở Anh (Goddard, 2009) và các trường cao
đẳng Land - Grant ở Mỹ (McDowell, 2003) đã
được thành lập. Những trường đại học này chủ
yếu có chức năng cung cấp lực lượng lao động có
tay nghề cao cho các ngành nghề mới phát triển.
Đây là kết quả của cuộc cách mạng công nghiệp
và nông nghiệp (Delanty, 2002). Giáo dục đại học
của các trường đại học này dần dần thoát khỏi mô
hình Newman. Từ giữa thế kỷ 20, chức năng này
của giáo dục đại học ngày càng mờ nhạt do nhiều
nước quản lý giáo dục đại học theo hướng tập
trung (centralism) và tăng ngân sách công cho
nghiên cứu (Goddard, 2009). Các trường đại học
đã không còn phục vụ các mục đích cụ thể nhằm
đáp ứng nhu cầu của địa phương. Ngược lại, việc
phân cấp quản lý của Mỹ và sự phụ thuộc của các
trường đại học cả công lập và ngoài công lập vào
kinh phí địa phương đã ngày càng gắn kết hợp tác
nghiên cứu và mối quan hệ giữa các trường đại
học và ngành công nghiệp (Mowery, 1999).

Bên cạnh đó cũng có các nghiên cứu thực nghiệm
về mặt chính sách giúp phát triển HTTĐH&DN.
Những nghiên cứu này, chủ yếu về các yếu tố
quyết định của sự hợp tác, hoặc là từ quan điểm
của các doanh nghiệp và công ty tham gia vào hợp
tác (Cohen, Nelson và Walsh, 2002; Fontana và
cộng sự, 2006) hoặc từ quan điểm của các trường
đại học và/hoặc khoa (DiGregorio & Shane, 2003;
Friedman & Silberman, 2003; Tornquist &
Kallsen, 1994) đã giúp các bên có liên quan hiểu
biết nhiều hơn về hợp tác.
Đối với các trường đại học và các khoa, Meyer Krahmer và Schmock (1998) cho rằng, các nhà
nghiên cứu tại các trường đại học chọn hợp tác
với các doanh nghiệp vì một số lý do bao gồm: cơ
hội tăng nguồn thu nhập từ kinh phí nghiên cứu,
khả năng ứng dụng của nghiên cứu, tiếp cận với
cơ sở vật chất và kỹ năng của doanh nghiệp, và
cập nhật các vấn đề của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp và ngành công nghiệp,
động lực chính của hợp tác với các trường đại học
bao gồm:

HTTĐH&DN ngày càng được thúc đẩy và phát
triển xuất phát từ các tác động của các bên có liên
quan và lợi ích mà các bên tham gia hợp tác có
được.

• Tiếp cận cơ sở dữ liệu khoa học được các

trường đại học xây dựng thông qua nguồn kinh
phí tài trợ của Nhà nước.

2.1 Động lực và lợi ích của hợp tác
Việc các trường đại học đóng vai trò ngày càng
tăng trong quá trình phát triển kinh tế của một
79

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 17 (5), 77 – 94

Có rất nhiều tác giả đã đưa ra các cách phân loại
phương thức hợp tác khác nhau. Santoro (2000)
phân loại hợp tác trường đại học – doanh nghiệp
thành bốn loại: hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao
công nghệ, chuyển giao kiến thức, và hợp tác
nghiên cứu. Davey, Muros, và Meerman (2011)
đưa ra phân loại chi tiết hơn về phương thức hợp
tác. Đây là kết quả của công trình nghiên cứu về
hợp tác trường đại học – doanh nghiệp tại Châu
Âu năm 2010 - 2011, bao gồm:

• Tiếp cận với kiến thức được phát triển trong

các trung tâm nghiên cứu cũng thông qua
nguồn kinh phí tài trợ của Nhà nước.
• Tiếp cận với các nhà nghiên cứu đẳng cấp thế

giới cả về khoa học và công nghiệp.
• Có được lợi thế cạnh tranh bằng cách tiếp cận

với tiềm năng tốt hơn thông qua các kênh
thông tin nhanh hơn so với đối thủ cạnh tranh
của họ.
• Giảm chi phí vì hợp tác nghiên cứu với các

• Hợp tác trong nghiên cứu và phát triển.

trường đại học có thể hiệu quả hơn về mặt
kinh phí do các trường đại học có thể đã có cơ
sở hạ tầng tại chỗ từ các hoạt động nghiên cứu
được Nhà nước cung cấp kinh phí (Doleey &
Kirk, 2007, tr. 321).

• Luân chuyển của các học giả, giới hàn lâm.
• Luân chuyển của sinh viên.
• Thương mại hóa các kết quả nghiên cứu và

phát triển.

Trong giáo dục, nhiều HTTĐH&DN chủ yếu tập
trung vào các dự án liên quan đến nghiên cứu. Sự
hợp tác này có thể có tác động gián tiếp vào việc
giảng dạy và học tập, chẳng hạn như một học giả
có thể mời một đối tác doanh nghiệp giảng bài
hoặc tổ chức một chuyến đi thực tế (EU,
2014). Ngân hàng Thế giới (2012) đã có một
nghiên cứu nhằm rà soát các hình thức hợp tác
trong thực tế để xác định các phương thức liên kết
chặt chẽ hơn giữa trường đại học và doanh
nghiệp. Báo cáo cho rằng, các phương thức liên
kết mạnh hơn có thể cải thiện dòng luân chuyển
thông tin giữa các trường đại học và doanh
nghiệp. Hợp tác cho phép các trường đại học đáp
ứng nhu cầu kỹ năng và nghiên cứu của doanh
nghiệp để đối phó với quá trình toàn cầu hóa, với
sự thay đổi công nghệ nhanh và cộng tác với các
nhà nghiên cứu khác. Tuy nhiên, những loại hình
hợp tác này lại là một trong những nguyên nhân
dẫn đến việc dừng hợp tác giữa các trường đại học
và xã hội (Ngân hàng Thế giới, 2012).

• Xây dựng và triển khai chương trình đào tạo.
• Thúc đẩy học tập suốt đời.
• Hỗ trợ tinh thần sáng nghiệp và các hoạt động

khởi nghiệp.
• Tham gia quản trị trường đại học.

Nghiên cứu này đã sử dụng 8 phương thức hợp
tác này để khảo sát thực trạng hợp tác ở Việt
Nam.
2.3 Các rào cản và thách thức của hợp tác
trường đại học và doanh nghiệp
HTTĐH&DN cũng đối mặt với những thách thức
lớn (Elmuti, Abebe, và Nicolosi, 2005). Dooley
và Kirk (2007) cho rằng, các nền văn hóa khác
nhau có thể cản trở sự thành công của hợp tác.
Trường đại học và doanh nghiệp với hai lĩnh vực
hoạt động khác nhau, có những mục tiêu khác
nhau và có các hệ thống giá trị khác nhau có thể là
rào cản cho hợp tác trường đại học - doanh nghiệp
(Elmuti và cộng sự, 2005). Thách thức lớn nhất là
làm sao cân bằng được sự khác biệt để thỏa mãn
các bên liên quan. Một thách thức khác là mâu
thuẫn giữa mong muốn của học giả được công bố
công trình nghiên cứu và ngành công nghiệp phải
duy trì bí mật để bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ
(SHTT) và duy trì lợi thế cạnh tranh. Các vấn đề
liên quan đến quyền sở hữu của các sản phẩm

Dường như là không có bất cứ hình thức hợp tác
duy nhất nào có thể đáp ứng tất cả động lực để
thúc đẩy HTTĐH&DN. Phần sau đây trình bày
tổng quan về các phương thức hợp tác.
2.2 Phương thức hợp tác

80

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 17 (5), 77 – 94

SHTT và phân chia doanh thu giữa các bên
thường dẫn đến tranh luận mạnh mẽ giữa các bên
tham gia hợp tác. Bất đồng là rất phổ biến trong
lĩnh vực này, với các doanh nghiệp và ngành công
nghiệp, các yêu cầu về giá cả của các trường đại
học đối với SHTT thường quá cao và các trường
đã bỏ qua rủi ro ngành công nghiệp phải đương
đầu khi thương mại hóa sản phẩm. Ngược lại, các
trường đại học lo ngại rằng ngành công nghiệp có
thể ăn cắp những khám phá của họ và tạo ra
nguồn doanh thu mà đúng ra phải thuộc về các
trường đại học. Những thách thức như thế này chỉ
có thể được khắc phục thông qua một qui trình cụ
thể và tin tưởng lẫn nhau. Các bên phải thay đổi
chiến lược để đáp ứng với môi trường bên
ngoài. Những thay đổi này có thể dẫn đến mức độ
tương tác giữa các trường đại học và doanh
nghiệp theo hướng tăng hoặc giảm. Vì hầu hết các
nghiên cứu học thuật về bản chất là lâu dài
(Chiesa & Piccaluga, 2000), sự bất ổn trong hỗ trợ
của ngành công nghiệp có thể dẫn đến những khó
khăn cho các trường đại học trong việc lập kế
hoạch.

tạo ngành công nghệ phần mềm cho sinh viên
cũng như các hoạt động phát triển chuyên
môn. Họ phát hiện ra rằng, hợp tác đáp ứng một
cách đáng kể các yêu cầu đào tạo và bồi dưỡng
chuyên môn cho các kỹ sư phần mềm, bao gồm
nâng cao nhận thức và đánh giá cao
HTTĐH&DN, dẫn đến mối quan hệ tốt hơn và tin
cậy lẫn nhau, tăng doanh thu tiềm năng giữa các
đối tác, mở rộng quan hệ và các nguồn lực từ cả
hai phía, danh tiếng nâng cao cho tất cả các bên
tham gia hợp tác và tăng cơ hội phát triển kinh
doanh với các chương trình tương tự và liên kết
khác. Họ cũng nhận thấy rằng đối với giảng viên,
hợp tác đã giúp giảng viên tiếp cận với các ứng
dụng thực tế, giúp phát triển chuyên môn, mua
sắm trang thiết bị, và các nguồn lực khác để
nghiên cứu và tư vấn. Đối với sinh viên từ các
ngành công nghiệp, các hợp tác cung cấp các khóa
học có liên quan ở các địa điểm, thời gian và hình
thức triển khai rất thực tế nhằm đáp ứng nhu cầu
của họ tại nơi làm việc.

2.4 Kết quả của hợp tác trường đại học và
doanh nghiệp

Hình 1 mô tả mô hình hệ sinh thái HTTĐH&DN
của Davey, Muros, và Meerman (2016). Mô hình
là sản phẩm của công trình nghiên cứu về hợp tác
trường đại học – doanh nghiệp năm 2010 - 2011
tại Châu Âu.

2.5 Hệ sinh thái hợp tác trường đại học và
doanh nghiệp

Mead và cộng sự (1999) đã tiến hành khảo sát
hình thức hợp tác chính thức giữa các trường đại
học và doanh nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu đào

Hình 1. Hệ sinh thái hợp tác trường đại học và doanh nghiệp của Davey, Muros, và Meerman (2016)

81

nguon tai.lieu . vn