Xem mẫu

  1. Chương 6 THANH TOÁN TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Mục đích nghiên cứu  Tìm hiểu sự phát triển của thanh toán điện tử, các vấn đề liên quan đến việc phát triển các giải pháp thanh toán điện tử trong thương mại nói chung và thương mại điện tử nói riêng.  Mô tả thành phần và quy trình thực hiện trong các giao dịch thanh toán điện tử cơ bản sử dụng các loại thẻ, séc điện tử, lệnh chuyển tiền.  Giới thiệu các công nghệ thanh toán mới như thẻ thông minh, thanh toán ngang hàng, vi thanh toán điện tử và ứng dụng hiện nay trong thực tiễn.  Tìm hiểu về các giải pháp thanh toán điện tử B2B dùng cho các doanh nghiệp và xu hướng phát triển. 6.1. Khái niệm và phân biệt thanh toán điện tử với thanh toán truyền thống 6.1.1. Khái niệm thanh toán điện tử Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc thanh toán dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, trong đó sử dụng máy tính nối mạng để truyền các thông điệp điện tử, chứng từ điện tử giúp cho quá trình thanh toán nhanh chóng an toàn và hiệu quả. Thanh toán điện tử là việc thanh toán qua thông điệp điện tử thay việc thanh toán tiền mặt. Quá trình thanh toán điện tử có sử dụng các phương tiện điện tử và công nghệ thanh toán tài chính (ví dụ như mã hoá số thẻ tín dụng, 189
  2. séc điện tử, hoặc ví điện tử) giữa ngân hàng, trung gian và các bên tham gia hợp pháp. Việc thanh toán được thực hiện qua mạng máy tính kết nối với các đơn vị thành viên tham gia thanh toán. Việc sử dụng mạng để chuyển những chứng từ điện tử, dữ liệu tài chính điện tử giúp cho việc thực hiện thanh toán nhanh chóng, mở rộng khoảng cách và phạm vi thanh toán giữa các ngân hàng, doanh nghiệp và người tiêu dùng trên phạm vi quốc gia và toàn thế giới. 6.1.2. Đặc điểm của thanh toán điện tử Hệ thống thanh toán điện tử được thực hiện trên cơ sở kỹ thuật số, chúng được xây dựng và phát triển để thực hiện các thanh toán trên mạng Internet. Về bản chất, các hệ thống thanh toán điện tử là phiên bản điện tử của các hệ thống thanh toán truyền thống như tiền mặt, séc và các loại thẻ tín dụng. Tuy nhiên, so với thanh toán truyền thống, các hệ thống thanh toán điện tử có hai điểm khác biệt: Thứ nhất, các hệ thống thanh toán điện tử được thiết kế để có thể thực thi việc mua - bán điện tử trên mạng Internet. Việc sử dụng công nghệ thông tin và các phương tiện điện tử với khai thác mạng cho phép quá trình giao dịch và công cụ giao dịch được số hoá và được ảo hoá bằng những chuỗi bit; Thứ hai, trong thanh toán truyền thống, chỉ ngân hàng mới có quyền phát hành tiền và các giấy tờ có giá trị khác. Trong thanh toán điện tử, các công ty và các tập đoàn tài chính cũng được phép phát triển các phần mềm đóng vai trò là các công cụ thanh toán. Vì vậy, trong thanh toán điện tử, khách hàng có thể lựa chọn một trong nhiều cách thức thanh toán khác nhau trên cơ sở phần mềm của các công ty và các tập đoàn tài chính. Về hình thức, các cách thức thanh toán này cơ bản giống nhau, chúng chỉ khác về mặt lôgíc, về quy trình thanh toán và một số dịch vụ đi cùng. 190
  3. 6.1.3. Ưu thế của thanh toán điện tử a) Thanh toán điện tử không bị hạn chế về không gian Đặc điểm thứ nhất của thanh toán điện tử cho phép các bên thanh toán vào bất kì thời điểm nào và trong điều kiện nào miễn là hoạt động thanh toán hợp pháp, có sử dụng các phương tiện thanh toán hợp pháp. Một trong những thành quả mà chúng ta đang hưởng thụ là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ thông tin và việc khai thác, ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực thanh toán cho phép các bên trong thanh toán thu hẹp khoảng cách địa lí, mở rộng phạm vi thanh toán trên toàn cầu. Đây cũng là một trong những điều kiện để đẩy mạnh sự phát triển của thương mại quốc tế và thương mại điện tử. Thanh toán điện tử cũng là nhân tố cấu thành của nền kinh tế số hóa. b) Thanh toán điện tử không hạn chế về thời gian Thanh toán điện tử là hệ thống thanh toán thông qua mạng máy tính và viễn thông đạt được tốc độ thanh toán với thời gian thực. Thông qua các mạng WAN, internet cho phép thực hiện thanh toán trên phạm vi toàn cầu, trong suốt 24/24 giờ trong ngày và 7 ngày/tuần. c) Thanh toán điện tử là phương thức thanh toán có nhiều ưu việt Kỉ nguyên 21 là kỉ nguyên công nghệ thông tin và kinh tế tri thức. Các phương thức thanh toán điện tử ra đời đẩy mạnh xu thế phát triển các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, hạn chế sử dụng tiền mặt trong thanh toán truyền thống và sẽ chiếm ưu thế thể hiện xu hướng tất yếu của thời đại. Các quốc gia văn minh, các nền kinh tế phát triển luôn coi trọng vấn đề này. Thanh toán điện tử mở rộng sang các lĩnh vực mới: trao đổi dữ liệu tài chính điện tử, tiền điện tử, ví tiền số hoá, séc điện tử, thẻ thông minh, các loại thẻ thanh toán. Các hệ thống thanh toán điện tử trong lĩnh vực ngân hàng được khai thác tối đa như: Hệ thống chuyển tiền điện tử trong cùng hệ 191
  4. thống ngân hàng, hệ thống thanh toán điện tử đa ngân hàng; hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc tế qua SWIFT. Ngoài ra, các dịch vụ thanh toán điện tử mới được các ngân hàng đưa vào khai thác như: E-Banking, Internet Banking, Phone Banking cũng đang phát triển rất nhanh. 6.1.4. Các yêu cầu của hệ thống thanh toán điện tử Tính độc lập (Independence). Một số phương thức thanh toán điện tử đòi hỏi phần mềm hoặc thiết bị đặc biệt để thanh toán. Hầu như tất cả các phương thức thanh toán điện tử đòi hỏi người bán hàng phải trang bị (cài đặt phần mềm, phần cứng) để có thể thực hiện thanh toán. Yêu cầu là các hệ thống thanh toán mang tính độc lập, không phụ thuộc vào phần cứng và phần mềm chuyên dụng. Tính tương tác và dịch chuyển (Interoperability and Portability). Các hệ thống thương mại điện tử phải được liên kết với nhau và liên kết với các hệ thống thanh toán. Phương thức thanh toán điện tử phải phù hợp với hệ thống thương mại điện tử và hạ tầng công nghệ thông tin. Tính an toàn và bảo mật. An toàn và bảo mật cho các giao dịch tài chính qua các mạng mở như Internet là hết sức quan trọng vì đây sẽ là mục tiêu tấn công của các loại tội phạm công nghệ cao, ăn cắp hoặc sử dụng thẻ tín dụng trái phép. Do các dịch vụ trên Internet hiện nay được cung cấp toàn cầu với mọi tiện ích phục vụ cho mọi khách hàng, mọi thành phần trong xã hội, vì vậy các hệ thống thanh toán điện tử phải đảm bảo tính khả dụng nhưng cũng chống lại được sự tấn công đe dọa tính bí mật thông tin cá nhân, thông tin tài chính của các chủ thể tham gia giao dịch. Tính ẩn danh. Không giống với thẻ tín dụng và séc, nếu người mua dùng tiền mặt, rất khó truy tìm dấu tích người mua sau giao dịch, các hệ thống thanh toán điện tử nếu yêu cầu cung cấp thông tin cá nhân, hình ảnh và những đặc điểm nhận dạng thì đặc điểm nhận dạng hoặc thông tin cá nhân của các chủ thể phải được giữ kín. Phải đảm bảo không làm lộ các thông tin cá nhân của khách hàng. 192
  5. Tính phân đoạn (Divisibility). Hầu như người bán chấp nhận thẻ tín dụng cho các giao dịch có giá trị giới hạn (Min-Max). Nếu giá trị giao dịch quá nhỏ (một vài $) hoặc quá lớn (giá một chiếc máy bay), thẻ tín dụng sẽ không là phương thức thanh toán khả thi. Tính dễ sử dụng cho bất kỳ ai và trong mọi doanh nghiệp, khách hàng có thể sử dụng. Tính tiết kiệm/hiệu quả (phí giao dịch). Chi phí cho mỗi giao dịch nên chỉ là một con số rất nhỏ (gần bằng 0), đặc biệt với những giao dịch giá trị thấp. Ví dụ với thẻ tín dụng có mức phí tối thiểu + 3% giá trị giao dịch, với giao dịch giá trị nhỏ, mức phí là bao nhiêu cho phù hợp. Tính thông dụng. Khả năng sử dụng rộng rãi và tối thiểu hóa hàng rào luật pháp, cạnh tranh - cho phép - chấp nhận. Ví dụ: Paypal phải đấu tranh với những cáo buộc của hệ thống ngân hàng là minh họa về tính thông dụng. Tính hoán đổi, chuyển đổi từ hình thức này sang hình thức khác. Ví dụ: Tiền số có thể chuyển thành các kiểu loại tiền khác. Có thể dễ dàng chuyển từ tiền điện tử sang tiền mặt hay chuyển tiền từ tiền điện tử sang tài khoản cá nhân. Từ tiền điện tử có thể phát hành séc điện tử, séc giấy. Tiền số bằng ngoại tệ này có thể dễ dàng chuyển sang ngoại tệ khác với tỷ giá tốt nhất. Tính linh hoạt. Nên cung cấp nhiều phương thức thanh toán, tiện lợi cho mọi đối tượng. Tính hợp nhất. Để hỗ trợ cho sự tồn tại của các ứng dụng này thì giao diện nên được tạo ra theo sự thống nhất của từng ứng dụng. Khi mua hàng trên bất cứ trang web nào cũng cần có những giao diện với những bước gần giống nhau. Tính co dãn. Cho phép khách hàng và những nhà kinh doanh có thể tham gia vào hệ thống mà không làm hỏng cơ cấu hạ tầng, đảm bảo xử lý tốt dù khi nhu cầu thanh toán trong thương mại điện tử tăng. 193
  6. 6.2. Các hệ thống thanh toán điện tử Cuộc cách mạng trong lĩnh vực thanh toán đã cho ra đời các hệ thống thanh toán hiện đại, tồn tại song hành với các hệ thống thanh toán truyền thống và hỗ trợ đắc lực vào phát triển thương mại điện tử. Những hệ thống thanh toán điện tử đầu tiên như công nghệ chuyển tiền bằng điện EFT (những dịch vụ của Western Union giúp một cá nhân có thể chuyển tiền cho người nào đó ở tại hai địa điểm khác nhau thông qua lệnh chuyển tiền của họ từ một quầy cung cấp dịch vụ của Western Union) đã phát triển từ những năm 1960-1970 và tiếp tục được khai thác trong thương mại điện tử với cấp độ hoàn thiện hơn. 6.2.1. Chuyển tiền điện tử (EFT) Chuyển tiền điện tử (chuyển khoản điện tử) là việc chuyển tiền trực tiếp giữa các tài khoản ngân hàng áp dụng với các nghiệp vụ thanh toán trong ngày hoặc trong một vài ngày, thường được sử dụng khi chuyển các khoản tiền lớn liên ngân hàng. Hệ thống chuyển khoản điện tử là một trong các hệ thống thanh toán điện tử ra đời sớm nhất, mặc dù lúc đầu chúng chỉ mới được thực hiện trên các mạng nội bộ. Hình 6.1. Chuyển tiền điện tử truyền thống 194
  7. Chuyển khoản điện tử qua Internet Hình 6.2. Chuyển khoản điện tử trên Internet 6.2.2. Các thẻ thanh toán điện tử a) Thẻ tín dụng, thẻ trả phí, thẻ ghi nợ * Thẻ tín dụng Thẻ tín dụng cung cấp một khoản tín dụng cố định cho chủ thẻ để mua hàng hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt. Khoản tín dụng được đơn vị phát hành thẻ giới hạn phụ thuộc vào yêu cầu và tài sản thế chấp hoặc tín chấp của chủ thẻ. Các đặc điểm của thẻ tín dụng: Thẻ tín dụng có đặc điểm “chi tiêu trước trả tiền sau”: chủ thẻ sẽ trả những khoản tiền đã thanh toán bằng thẻ tín dụng khi nhận được thông báo của ngân hàng; Chủ thẻ không phải trả bất kỳ một khoản lãi nào nếu việc trả những khoản tiền trên được thực hiện đúng thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được sao kê; Các tài khoản hoặc tài sản thế chấp để phát hành thẻ tín dụng độc lập với việc chi tiêu. Hạn mức tín dụng được xác định dựa trên tài khoản hoặc tài sản thế chấp, nếu tài khoản thế chấp là tiền mặt, chủ thẻ sẽ được hưởng lãi suất ngân hàng với kỳ hạn phụ thuộc vào thời hạn hiệu lực của thẻ; Thẻ tín dụng quốc 195
  8. tế có thể chi tiêu bằng tất cả các loại tiền; Chủ thẻ có thể thanh toán toàn bộ số dư phát sinh trong hóa đơn hoặc một phần số dư trong hóa đơn, tuy nhiên, phần số dư trả chậm sẽ phải chịu lãi suất và cộng dồn vào hóa đơn tháng tiếp theo; Đối với thẻ tín dụng, người bán hàng sẽ phải thanh toán toàn bộ các chi phí thực hiện giao dịch thanh toán. Các khoản phí này không giống nhau trong những trường hợp khác nhau. Nó tuỳ thuộc vào quy định của từng ngân hàng, vào quy mô của người bán hàng, vào độ lớn của các giao dịch, vào khối lượng các giao dịch thẻ tín dụng và từng loại hình kinh doanh cụ thể. Thí dụ, các đơn đặt hàng qua thư tín (mail-order) thường phải thanh toán các khoản phí giao dịch thẻ tín dụng cao hơn so với các đơn đặt hàng tại cửa hàng (mua hàng trực tiếp tại cửa hàng) bởi vì trong trường hợp mua hàng qua thư tín, khách hàng không có mặt để ký nhận các hoá đơn thanh toán. Các giao dịch loại này gọi là giao dịch "thẻ vắng mặt". Giao dịch này có độ rủi ro cao bởi vì nếu thẻ tín dụng đó là thẻ bị người mua đánh cắp thì nó sẽ không được thanh toán. Thanh toán thông qua thẻ tín dụng là hình thức phổ biến trong thanh toán trực tuyến áp dụng với các giao dịch thương mại bán lẻ; đặc biệt là các giao dịch tương tự như giao dịch truyền thống có sử dụng hình thức thanh toán thẻ tín dụng bao gồm các giao dịch như đặt mua báo, tạp chí, bản tin hoặc thanh toán cho các dịch vụ thông tin trực tuyến... Và, vì khi tiến hành các giao dịch thẻ tín dụng phải trả một số khoản phí nhất định nên nó không thích hợp với các giao dịch nhỏ, riêng rẽ, những giao dịch mà phí phải trả cho giao dịch thanh toán thẻ tín dụng bằng, thậm chí lớn hơn một nửa giá trị của toàn bộ giao dịch. Trong những trường hợp này, người ta thường dùng các hình thức vi thanh toán khác sẽ được trình bày ở phần sau. Thẻ tín dụng ảo Mặc dù khối lượng hóa và lượng tiền mua sắm trực tuyến đang tăng đáng kể, một lượng lớn khách hàng vẫn rất không trung thực trong việc sử dụng số thẻ tín dụng trực tuyến của họ. Thẻ tín dụng ảo được thiết kế để giải quyết vấn đề này. Với một thẻ tín dụng ảo, người 196
  9. mua trực tuyến được công ty phát hành thẻ cung cấp vào thời điểm mua một số thẻ phát hành ngẫu nhiên được ràng buộc với số thẻ thực tế của người mua. Người mua nhập số này chứ không phải nhập số thẻ thực tế để hoàn thành việc mua sắm. Nhìn chung, số này chỉ được dùng một lần. Đó là lý do vì sao thẻ tín dụng ảo cũng được biết đến như số thẻ sử dụng một lần. Mặc dù số thẻ sử dụng một lần ngăn chặn được một số gian lận nhất định, nhưng chúng vẫn có những hạn chế. Việc mua sắm với những số thẻ sử dụng một lần không thể xác định được ở ngày sau đó. Ví dụ, nếu một người đặt trước vé máy bay và khách sạn trực tuyến và cần số thẻ để xác nhận nó vào ngày sau đó, không có cách nào để có thể lưu giữ được số cho những mục đích này. Tương tự, nếu một người mua một món hàng, không có cách nào xác nhận được số thẻ sau đó vì số này sẽ mất đi. Cuối cùng, không có cách nào để trả những hóa đơn định kỳ hoặc thuê bao với những số chỉ sử dụng một lần. * Thẻ trả phí/mua chịu Sự khác biệt giữa thẻ tín dụng và thẻ trả phí là ở chỗ số dư của thẻ trả phí luôn phải được thanh toán toàn bộ hàng tháng, trong khi số dư của thẻ tín dụng có thể được chuyển từ tháng trước sang tháng sau, tuy nhiên khoản tiền lãi của số dư đó sẽ bị cộng dồn lại. * Thẻ ghi nợ Đối với thẻ ghi nợ, việc thanh toán liên quan đến loại thẻ này được kết nối với một tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, chẳng hạn như tài khoản séc (tài khoản tiền gửi phát hành séc) tại ngân hàng. Các thẻ loại này thường mang biểu trưng (logo) của Visa hay MasterCard và được chấp nhận ở bất cứ nơi nào mà Visa và MasterCard được chấp nhận. Thay vì được cấp một khoản tín dụng như các loại thẻ trên, các giao dịch thanh toán đối với loại thẻ này sẽ rút ngay một khoản tiền từ tài khoản được kết nối. Dưới góc độ người bán hàng, quá trình sử dụng loại thẻ này không khác gì đối với các loại thẻ tín dụng. Và các loại thẻ ghi nợ như mô tả ở trên được gọi là thẻ ghi nợ ngoại tuyến, 197
  10. bởi vì không cần bất cứ sự xin cấp phép nào tại thời điểm diễn ra các giao dịch thanh toán. Ngược lại, đối với một thẻ ghi nợ trực tuyến, khi thanh toán đòi hỏi phải được cấp phép tại thời điểm diễn ra giao dịch thông qua việc sử dụng mã số định danh cá nhân (PIN - Personal Identification Number). Các thẻ như vậy thường là các thẻ giao dịch tự động (ATM card - Automated Teller Machine card). Người bán hàng thường chấp nhận loại thẻ này từ các ngân hàng địa phương đối với một vài loại giao dịch. Cũng giống như thẻ ghi nợ ngoại tuyến, khi thanh toán bằng loại thẻ này, số tiền sẽ được chuyển ngay lập tức từ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tương ứng. * Xử lý thẻ tín dụng trực tuyến Xử lý các thẻ thanh toán có hai giai đoạn chính: cấp phép và thanh toán. Xin cấp phép xác định liệu thẻ của người thanh toán còn hiệu lực hay không và liệu số tiền trong tài khoản có đủ để thực hiện giao dịch hay không. Thanh toán liên quan đến việc chuyển tiền từ tài khoản của người mua đến tài khoản của người bán. Những giai đoạn này được thực hiện theo cách thức nào, ở chừng mực nhất định phụ thuộc vào loại thẻ thanh toán. Chúng cũng thay đổi tùy thuộc vào cấu trúc của hệ thống mà người bán sử dụng để xử lý việc thanh toán. Có ba cấu trúc cơ bản cho quá trình xử lý thanh toán trực tuyến. Người bán hàng trong TMĐT có thể sử dụng: - Sở hữu phần mềm thanh toán riêng: Người bán có thể mua một mô đun xử lý thanh toán và tích hợp phần mềm này với những phần mềm TMĐT khác. Mô đun này kết nối với một cổng thanh toán khác của một ngân hàng chấp nhận thanh toán hoặc của bên thứ ba. - Sử dụng hệ thống thiết bị đọc thẻ (POS: point of sale) được vận hành bởi một ngân hàng. Người bán có thể chuyển hướng chủ thẻ tới một POS được vận hành bởi một ngân hàng chấp nhận thanh toán. POS này xử lý toàn bộ quá trình thanh toán và sau đó đưa người chủ thẻ trở về chỗ người bán khi mà quá trình thanh toán đã hoàn tất. 198
  11. Trong trường hợp này, hệ thống người bán chỉ phải xử lý những thông tin đặt hàng. Trong mô hình này, rất quan trọng là tìm được một ngân hàng thanh toán mà có thể xử lý nhiều loại thẻ và công cụ thanh toán. Nếu không, người bán sẽ phải kết nối với nhiều ngân hàng thanh toán. - Sử dụng POS được vận hành bởi nhà cung cấp dịch vụ thanh toán: Người bán có thể tin tưởng vào một bên thứ ba - nhà cung cấp dịch vụ thanh toán (Payment Service Providers - PSPs). Trong trường hợp này, một PSP sẽ kết nối với những ngân hàng thanh toán thích hợp. PSPs phải đăng ký với các tổ chức thẻ mà họ hỗ trợ. Đối với một loại thẻ thanh toán và hệ thống xử lý nhất định, các quá trình và những người tham gia về bản chất là giống nhau giữa mua bán ngoại tuyến (phải trình thẻ - card present) và trực tuyến (không trình thẻ - card not present). Ví dụ, Bảng 6.1 so sánh các bước liên quan đến việc mua sắm bằng thẻ tín dụng trực tuyến và ngoại tuyến. Bảng 6.1 cho thấy có vài sự khác nhau nhỏ giữa hai loại hình này. Bảng 6.1: So sánh thanh toán bằng thẻ tín dụng trong thương mại truyền thống với TMĐT Mua hàng truyền thống Mua hàng trực tuyến Khách hàng xuất trình thẻ tín dụng cho Khách hàng thực hiện việc khai báo nhân viên thu ngân/ bán hàng thông tin về thẻ tín dụng trên trang web của Nhân viên thu ngân kiểm tra các thông người bán tin trên thẻ, cà thẻ của khách hàng và Sau khi người bán nhận được thông truyền các thông tin về giao dịch trên thiết bị tin của khách hàng trên website, người bán đọc thẻ POS (Point of Sale) gửi thông tin về giao dịch đến nhà cung cấp Thiết bị đọc thẻ gửi thông tin đến trung dịch vụ thanh toán (Payment processing tâm xử lý dữ liệu thẻ thông qua kết nối điện transaction - PPS) thoại (dial up) Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán gửi Trung tâm xử lý dữ liệu thẻ gửi thông thông tin đến trung tâm xử lý dữ liệu thẻ tin đến ngân hàng phát hành thẻ Trung tâm xử lý dữ liệu thẻ gửi thông Ngân hàng phát hành thẻ sẽ khước từ tin đến ngân hàng phát hành thẻ hoặc chấp nhận giao dịch và chuyển kết Ngân hàng phát hành thẻ sẽ khước từ 199
  12. quả/mã số giao dịch hợp pháp ngược trở lại hoặc chấp nhận giao dịch và chuyển kết cho trung tâm xử lý dữ liệu thẻ quả/mã số giao dịch hợp pháp ngược trở lại Trung tâm xử lý dữ liệu thẻ gửi kết quả cho trung tâm xử lý dữ liệu thẻ cấp phép đến thiết bị đọc thẻ POS Trung tâm xử lý dữ liệu thẻ gửi kết quả Thiết bị đọc thẻ cho người bán biết có cấp phép đến PPS được phép thực hiện giao dịch hay không PPS chuyển kết quả cấp phép cho Người bán thông báo với chủ thẻ về kết người bán quả giao dịch Người bán chấp nhận hoặc từ chối giao dịch. Trong bảng 6.1, những người tham gia chính trong xử lý thanh toán thẻ tín dụng trực tuyến bao gồm: - Ngân hàng thanh toán: mở một tài khoản đặc biệt gọi là “Tài khoản người bán hàng Internet” cho phép cấp phép thẻ và xử lý thanh toán. - Hiệp hội thẻ tín dụng: Định chế tài chính cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ cho các ngân hàng (ví dụ như Visa và MasterCard). - Khách hàng: Các cá nhân sở hữu thẻ thanh toán. - Ngân hàng phát hành: Định chế tài chính cung cấp cho khách hàng thẻ thanh toán. - Người bán hàng: Một công ty bán sản phẩm và dịch vụ. - Dịch vụ xử lý thanh toán: Dịch vụ cung cấp kết nối người bán, khách hàng và mạng lưới tài chính cấp phép và thanh toán. Dịch vụ này được vận hành bởi các công ty như CyberSource (cybersource.com) và VeriSign (verisign.com). - Bộ xử lý: Trung tâm dữ liệu xử lý các giao dịch thẻ tín dụng và thanh toán các khoản tiền cho người bán. * Các rủi ro trong thanh toán thẻ: - Rủi ro đối với ngân hàng phát hành thẻ: Rủi ro lớn nhất của ngân hàng phát hành thẻ xảy ra khi chủ thẻ có hành vi gian dối. Họ sử dụng thẻ thanh toán ở những điểm tiếp 200
  13. nhận thẻ khác nhau với mức thanh toán thấp hơn hạn mức thanh toán nhưng lại có tổng mức thanh toán cao hơn hạn mức thanh toán cho phép. Thí dụ, một chủ thẻ tín dụng có hạn mức thanh toán ở cửa hàng là 200 USD/1 ngày. Anh ta sử dụng thẻ của mình để mua hàng hoá và dịch vụ tại ba cửa hàng trong cùng một ngày như sau: Điểm bán hàng Hàng hoá và dịch vụ Giá trị giao dịch thanh toán chấp nhận thẻ được thực hiện (USD) 1 Mua mỹ phẩm 60 2 Mua quần áo 100 3 Mua đồ gia dụng 92 Tổng cộng 252 Tại điểm bán hàng chấp nhận thẻ thứ ba, khi chủ thẻ thực hiện giao dịch bằng thẻ, nhân viên bán hàng cho rằng giao dịch có giá trị thanh toán là 92 USD, thấp hơn hạn mức cho phép nên không cần xin cấp phép. Nhưng thực tế, nếu thực hiện giao dịch này, chủ thẻ đã chi vượt quá hạn mức cho phép là 52 USD. Điều đó đã tạo cơ hội cho chủ thẻ thực hiện giao dịch quá khả năng thanh toán, có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng phát hành. Rủi ro do vượt quá hạn mức thanh toán cho phép chỉ bị phát hiện khi ngân hàng phát hành kiểm tra và tổng hợp các hoá đơn do các đại lý thanh toán gửi đến. Trong trường hợp nếu chủ thẻ mất khả năng thanh toán thì ngân hàng phát hành phải chịu toàn bộ rủi ro này. Một rủi ro nữa có thể xảy ra đối với loại thẻ tín dụng quốc tế là lợi dụng tính chất của thẻ để lừa gạt ngân hàng phát hành thẻ. Thẻ tín dụng quốc tế (như Visa hay MasterCard) là loại thẻ được sử dụng để thanh toán các giao dịch ở nhiều nước, nơi có đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế. Vì tính chất này, chủ thẻ có thể thông đồng với người khác, giao thẻ cho người đó sử dụng ở các cơ sở bán hàng 201
  14. chấp nhận thẻ mà không phải là nơi chủ thẻ cư trú (thí dụ ở nước ngoài). Khi có các thương vụ diễn ra, kiểm tra chữ ký trên hoá đơn và chữ ký trên thẻ khó có thể phát hiện sự giả mạo vì không ai có thể đảm bảo rằng tất cả các chữ ký khi ký đều giống hệt như nhau. Khi ngân hàng phát hành đòi tiền, chủ thẻ sẽ đưa ra căn cứ: hộ chiếu không có thị thực nhập cảnh, hoặc xác nhận của nơi chủ thẻ làm việc rằng chủ thẻ hoàn toàn không vắng mặt trong thời điểm diễn ra thương vụ, và từ chối thanh toán. Trước những bằng chứng hoàn toàn hợp lý, ngân hàng phát hành thẻ cũng không thể quy trách nhiệm cho cơ sở chấp nhận thẻ bởi vì việc giao dịch bằng thẻ không đòi hỏi chủ thẻ phải xuất trình giấy tờ để xác minh người sử dụng thẻ có phải là chủ thẻ hay không; Chỉ có thể quy trách nhiệm cho cơ sở chấp nhận thẻ về việc kiểm tra chữ ký, nhưng vấn đề này không đơn giản như đã nêu: không ai đảm bảo rằng các chữ ký đều giống hệt nhau mặc dù là cùng một người ký. Như vậy, ngân hàng phát hành thẻ phải đền bù. Chủ thẻ cũng có thể cố tình lấy tiền của ngân hàng bằng cách báo cho ngân hàng phát hành là thẻ đã bị thất lạc, nhưng sau đó vẫn sử dụng thẻ đó để thanh toán trong thời gian thẻ chưa kịp đưa vào danh sách "đen" (danh sách Bulletin). Chủ thẻ thay băng chữ ký bằng một băng chữ ký trắng và ký lại chữ ký hoàn toàn khác so với chữ ký cũ, khi thanh toán, chủ thẻ sẽ ký vào hoá đơn bằng chữ ký mới. Như vậy, chủ thẻ có thể thoái thác được trách nhiệm thanh toán các thương vụ do chính mình thực hiện. Trường hợp này xảy ra khi cơ sở chấp nhận thẻ không phát hiện ra hoặc thông đồng với chủ thẻ. Như vậy, rủi ro cũng hoàn toàn thuộc về ngân hàng phát hành. Ngoài những nguyên nhân chủ quan nêu trên, còn có những nguyên nhân khách quan khác như: + Việc sử dụng thẻ giả mạo trùng với thẻ đang lưu hành của ngân hàng phát hành thẻ. + Chủ thẻ mất khả năng thanh toán bởi lý do khách quan như tai nạn bất ngờ, không còn khả năng làm việc và mất thu nhập... 202
  15. - Rủi ro tại ngân hàng thanh toán Trong số các bên tham gia thanh toán thì ngân hàng thanh toán là nơi ít gặp rủi ro nhất vì họ chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán giữa cơ sở chấp nhận thẻ và ngân hàng phát hành. Song, cũng có thể xảy ra một số rủi ro: + Ngân hàng thanh toán có sai sót trong việc cấp phép, như chuẩn chi với giá trị thanh toán lớn hơn trị giá cấp phép; + Ngân hàng thanh toán không cung cấp kịp thời danh sách Bulletin cho cơ sở tiếp nhận thẻ, mà trong thời gian đó cơ sở chấp nhận thẻ lại thanh toán thẻ có trong danh sách này. Lúc đó, ngân hàng thanh toán phải chịu rủi ro khi ngân hàng phát hành từ chối thanh toán. - Rủi ro cho cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ Rủi ro đối với cơ sở chấp nhận thẻ là rủi ro khi họ bị ngân hàng phát hành từ chối thanh toán toàn bộ số tiền hàng hoá hoặc dịch vụ đã cung ứng. Các rủi ro này hoàn toàn có thể khắc phục nếu cơ sở chấp nhận thẻ kiểm tra kỹ và không chủ quan khi chấp nhận thẻ. Các rủi ro có thể xảy ra là: + Thẻ hết thời hạn hiệu lực mà cơ sở chấp nhận thẻ không phát hiện ra. + Cơ sở chấp nhận thẻ có quan niệm sai cho rằng, mình chỉ chịu rủi ro ở phần vượt hạn mức cho phép nên đã thanh toán nhiều thương vụ vượt hạn mức ở một tỷ lệ nhỏ mà không xin cấp phép hoặc xin cấp phép đã bị từ chối nhưng vẫn cứ chấp nhận thanh toán. Thực tế, ngân hàng thanh toán sẽ từ chối toàn bộ số tiền của thương vụ chứ không chỉ từ chối phần vượt hạn mức. + Cơ sở chấp nhận thẻ cố tình tách thương vụ thành nhiều thương vụ nhỏ để không cần phải xin phép, nếu ngân hàng phát hành phát hiện ra sẽ từ chối thanh toán. + Sửa chữa số tiền trên hoá đơn do ghi nhầm hoặc cố ý mà quên rằng phía chủ thẻ cũng giữ một hoá đơn nguyên vẹn, ngân hàng phát 203
  16. hành có thể căn cứ vào sự sai phạm này để từ chối thanh toán toàn bộ số tiền trên hoá đơn. - Rủi ro đối với chủ thẻ: Thông thường, các loại thẻ tín dụng quốc tế đều có hai công dụng là thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt. Chủ thẻ là người duy nhất biết mã số định danh cá nhân (PIN). Trong trường hợp chủ thẻ do vô tình để lộ mã số này và đồng thời bị mất thẻ mà chưa kịp báo cho ngân hàng phát hành. Do một sự trùng hợp nào đó, người lấy được thẻ cũng biết được số PIN và họ có thể dùng thẻ để rút tiền mặt tại máy giao dịch tự động (ATM). Do việc rút tiền qua máy chỉ hoàn toàn dựa trên số PIN nên không thể kiểm tra được người rút tiền có phải là chủ thẻ thực sự hay không. Trường hợp này chủ thẻ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về số tiền bị mất. Ở một số quốc gia, như Mỹ, có quy định về trách nhiệm của chủ thẻ khi sử dụng thẻ tín dụng. Cụ thể, khi chủ thẻ sử dụng thẻ hay mã số thẻ tín dụng của mình vào những hành vi gian lận, nếu bị phát hiện sẽ phải chịu khoản tiền phạt lên tới 50 USD. Trường hợp chủ thẻ làm mất thẻ nhưng chưa kịp báo với ngân hàng phát hành, trong thời gian đó, người lấy được thẻ sử dụng thẻ này vào những mục đích gian lận thì trách nhiệm sẽ hoàn toàn thuộc về chủ thẻ. * Các biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán thẻ Trong thanh toán trực tuyến, người bán vẫn có thể là nạn nhân của các giao dịch gian lận. Bên cạnh việc mất hàng hóa và chi phí vận chuyển, người bán còn phải gánh chịu thêm phí và tiền phạt của các tổ chức thẻ tín dụng. Tuy nhiên, không phải chỉ có những chi phí đó. Còn có những chi phí liên quan đến việc đối phó với những giao dịch gian lận. Những chi phí này bao gồm chi phí công cụ và hệ thống để xem xét lại những đơn đặt hàng, chi phí xem xét những đơn đặt hàng một cách thủ công và doanh thu mất đi do từ chối những đơn đặt hàng còn hiệu lực. Giao dịch thẻ tín dụng gian lận là một vấn đề ngày càng lớn đối với những người bán hàng trực tuyến dù họ đã có những nỗ lực để ngăn chặn gian lận. 204
  17. Các công cụ chủ yếu được sử đụng để ngăn chặn gian lận là: - Hệ thống xác nhận địa chỉ (Address Verification System- AVS): Phương pháp này được 82% người bán sử dụng. Dịch vụ này so sánh địa chỉ khách hàng nhập vào trang Web với thông tin về địa chỉ của chủ thẻ trong cơ sở dữ liệu khách hàng lưu trữ tại ngân hàng phát hành. Phương pháp này có thể dẫn đến một loạt các hệ quả không mong muốn, ví dụ người bán từ chối các đơn đặt hàng đích thực. Chủ thẻ thường có những địa chỉ mới hoặc đơn giản chỉ là ghi sai địa chỉ số hoặc mã số điện thoại. AVS chỉ thực sự hữu ích ở Mỹ và Canada. - Rà soát thủ công: Phương pháp này được 73% người bán hàng sử dụng. Trong trường hợp này, đội ngũ nhân viên rà soát thủ công những đơn đặt hàng nghi ngờ. Đối với những người bán hàng nhỏ, với khối lượng đơn đặt hàng không lớn, phương pháp này là hợp lý. Đối với người bán hàng lớn thì phương pháp này không phù hợp lắm, chi phí quá cao và ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của khách hàng. Mặc dù có những hạn chế như vậy, tỷ lệ phần trăm người bán hàng sử dụng phương pháp này đang tăng lên cùng với tỷ lệ phần trăm các mặt hàng đang được rà soát lại. - Số kiểm tra trên thẻ (Card Verification Number - CVN): Phương pháp này được 56% người bán hàng dùng, được thực hiện dựa trên việc so sánh số kiểm tra trên thẻ đã được in ở dải chữ ký phía sau của thẻ với thông tin trong cơ sở dữ liệu lưu trong hồ sơ tại ngân hàng phát hành thẻ. Tuy nhiên, căn cứ vào những số này không cho phép phân biệt kẻ gian lận sử dụng thẻ bị đánh cắp. - Kiểm tra gian lận và mô hình quyết định: Phương pháp này được 53% người bán hàng sử dụng. Phương pháp dựa trên các quy tắc tự động xác định xem liệu một giao dịch có nên được chấp nhận, từ chối hay nghi ngờ. Yếu tố chủ chốt của phương pháp này là người bán hàng có thể thay đổi dễ dàng những quy tắc để phản ánh xu hướng thay đổi trong những gian lận chống lại công ty. - Hồ sơ phủ định: Phương pháp này được 45% người bán hàng sử dụng. Dữ liệu phủ định bao gồm những thông tin về khách hàng 205
  18. (địa chỉ IP, tên, địa chỉ gửi hàng, số điện thoại liên hệ, v.v…) và trạng thái của khách hàng đó. Giao dịch của khách hàng được so sánh với dữ liệu này trên cơ sở đó người bán hàng quyết định việc tiến hành giao dịch. - Dịch vụ xác nhận người thanh toán của các hiệp hội thẻ: Dịch vụ này được 25% người bán hàng sử dụng. Hai năm gần đây, các hiệp hội thẻ đã triển khai một hệ thống mới các dịch vụ xác nhận người thanh toán (ví dụ hệ thống Verified được Visa và MasterCard SecureCode triển khai). Dịch vụ này đòi hỏi người chủ thẻ đăng ký với hệ thống và với người bán để chấp nhận và hỗ trợ cả hệ thống đang tồn tại và hệ thống mới. Tác động chung của những công cụ này là sẽ giúp người bán hàng loại bỏ được số lượng đáng kể những đơn đặt hàng nghi ngờ là gian lận. Tuy nhiên, trong số các đơn đặt hàng bị từ chối có một số lượng lớn các đơn đặt hàng thực sự, và như vậy làm giảm doanh thu. Thẻ thông minh Thẻ thông minh thường được sử dụng bên cạnh thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ truyền thống. Chúng cũng được sử dụng rộng rãi để hỗ trợ các ứng dụng phi tài chính và phi bán lẻ. Một thẻ thông minh trông như một thẻ thanh toán nhựa, nhưng được phân biệt ở chỗ là trên thẻ thông minh có gắn vi mạch điện tử (microchip). Con chip được gắn có thể là mạch vi xử lý kết hợp với con chip lưu giữ thông tin hoặc chỉ có con chip lưu giữ thông tin với logic phi chương trình. Thông tin trong thẻ có thể được thêm, bớt hoặc chịu các xử lý khác. Thẻ có con chip lưu giữ thông tin thường là thẻ “chỉ đọc” tương tự như thẻ tín dụng. Mặc dù bộ vi xử lý có khả năng chạy chương trình giống như một máy tính, nhưng nó không phải là máy tính độc lập. Các chương trình và dữ liệu phải được tải về và kích hoạt từ một số thiết bị khác (như một máy ATM). 206
  19. Hình 6.3: Thẻ thông minh * Các loại thẻ thông minh Có hai loại thẻ thông minh. Loại thứ nhất là thẻ tiếp xúc, loại thẻ này sẽ được kích hoạt khi đưa thẻ này vào thiết bị đọc thẻ. Loại thứ hai là thẻ phi tiếp xúc, có nghĩa là thẻ chỉ phải đưa tới một khoảng cách nhất định so với thiết bị đọc thẻ để xử lý giao dịch. Các thẻ lai là sự kết hợp của hai loại trên thành một. Thẻ tiếp xúc có một tấm kim loại màu vàng có đường kính khoảng một inch rưỡi được bố trí ở mặt trước. Khi đưa thẻ vào thiết bị đọc thẻ, tấm kim loại tạo ra sự tiếp xúc điện tử và dữ liệu được truyền đến và lấy ra từ con chip. Thẻ tiếp xúc có thể có bộ nhớ chỉ đọc được (Electronically Programmable Read-Only Memory - EPROM) hoặc bộ nhớ chỉ đọc có thể xóa bỏ điện tử (Electronically Erasable Programmable Read-Only Memory - EEPROM). Thẻ EPROM có thể không bao giờ bị xóa bỏ. Thay vào đó, dữ liệu được viết vào khoảng trống trong thẻ. Khi thẻ đầy, nó sẽ bị bỏ đi. Thẻ EEPROM có thể xóa bỏ hoặc sửa đổi. Chúng có thể được sử dụng cho đến khi quá cũ hoặc hư hỏng. Hầu hết thẻ tiếp xúc là EEPROM. Bên cạnh con chip, thẻ không tiếp xúc còn có một ăng ten được gắn vào. Dữ liệu và các ứng dụng được truyền vào và lấy ra khỏi thẻ 207
  20. thông qua ăng ten của thẻ tới một ăng ten khác rồi đến thiết bị đọc thẻ hoặc thiết bị khác. Thẻ không tiếp xúc được sử dụng trong những ứng dụng mà dữ liệu phải được xử lý thật nhanh (ví dụ như trả tiền xe buýt hoặc tàu) hoặc khi khó tiếp xúc (ví dụ do cơ chế an ninh khi đi vào các toà nhà). Thẻ này hoạt động ở khoảng cách gần, chỉ vài inch. Đối với một số ứng dụng như thanh toán ở trạm thu tiền trên đường cao tốc, những thẻ này có thể hoạt động ở khoảng cách xa đáng kể. Đối với các thẻ thông minh hai giao diện hoặc lai thì hai loại giao diện thẻ được kết hợp thành một. Thẻ thông minh lai có hai con chip tách rời nhau gắn ở trên thẻ. Ngược lại, thẻ kết hợp hoặc thẻ hai giao diện có một con chip đơn hỗ trợ cho cả hai giao diện. Lợi ích của cả hai loại thẻ này là loại bỏ sự cần thiết phải mang nhiều thẻ để hỗ trợ cho những ứng dụng và thiết bị đọc thẻ khác nhau. Đối với tất cả các loại thẻ, thiết bị đọc thẻ là rất quan trọng trong sự hoạt động của hệ thống. Thiết bị đọc thẻ bản chất là một thiết bị đọc và ghi. Mục đích chủ yếu của thiết bị đọc thẻ là hoạt động như thiết bị liên kết giữa thẻ và hệ thống chủ lưu giữ dữ liệu ứng dụng và xử lý dữ liệu. Có hai loại thẻ cơ bản nên có hai loại thiết bị đọc thẻ (tiếp xúc và phi tiếp xúc) phù hợp với các loại thẻ riêng. Việc sử dụng rộng rãi các thẻ thông minh cho những ứng dụng phức tạp đòi hỏi sự tiêu chuẩn hóa và khả năng tương tác của các loại thẻ và các công nghệ đọc thẻ khác nhau. Nếu không như vậy, những người sử dụng cuối cùng sẽ phải mang những thẻ riêng cho mỗi thiết bị đọc thẻ và ứng dụng. Global Platform (globalplatform.org) là một hiệp hội thẻ thông minh quốc tế và phi lợi nhuận. Mục đích chính của Hiệp hội là tạo ra và thúc đẩy các ứng dụng kỹ thuật tương tác cho thẻ tín dụng, thiết bị tiếp nhận và cơ sở hạ tầng của hệ thống. Nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật về thẻ thông minh được thiết lập bởi tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO; iso.org). ISO/IEC 7816 và ISO/IEC 14443 là những tiêu chuẩn chính liên quan đến thẻ tiếp xúc và phi tiếp xúc. Những tiêu chuẩn này là cơ sở cho những tiêu chuẩn khác. 208
nguon tai.lieu . vn