Xem mẫu

  1. CHƯƠNG 5 GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ GIỮA CÁC QUỐC GIA, VÙNG LÃNH THỔ, GIỮA CÁC QUỐC GIA VỚI THƯƠNG NHÂN Tranh chấp thương mại quốc tế giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ thường phát sinh do những bất đồng, mâu thuẫn trong cách hiểu, cách thực hiện các cam kết mà các chủ thể này đã xác lập. Do vậy, về cơ bản các tranh chấp này sẽ được giải quyết trên cơ sở pháp luật quốc tế, căn cứ vào các điều ước quốc tế mà các bên ký kết hoặc gia nhập hoặc căn cứ vào tập quán quốc tế. Chương 5 tập trung làm rõ về cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ của WTO (mục 5.1) và cơ chế giải quyết tranh chấp trong các thỏa thuận thương mại khu vực (mục 5.2) để làm rõ đặc trưng của các cơ chế giải quyết tranh chấp này. Nhiều thoả thuận thương mại khu vực còn xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và quốc gia nước tiếp nhận. Đây là bước tiến mới của Luật Thương mại quốc tế hiện đại so với Luật Thương mại quốc tế truyền thống. 5.1. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KHUÔN KHỔ WTO Trong khuôn khổ của Tổ chức Thương mại thế giới WTO, tranh chấp giữa các thành viên sẽ được giải quyết bởi Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (Dispute Settlement Body, viết tắt là DSB). DSB được thành lập trên cơ sở của thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục về việc giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement Understanding, viết tắt là DSU). Thỏa thuận này là kết quả quan trọng của Vòng đàm phán Uruguay và là một trụ cột quan trọng của WTO. Về cơ bản, đây là cơ chế chung giải quyết tranh chấp giữa các thành viên của WTO liên quan đến các quy định 242
  2. của WTO. Thỏa thuận này quy định không chỉ cơ chế chung về giải quyết tranh chấp, mà còn có những cơ chế giải quyết tranh chấp riêng liên quan đến một số các hiệp định đa phương cụ thể như: Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại,... So với cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ GATT 1947, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được coi là có sự đổi mới toàn diện, thể hiện ở cơ cấu tổ chức, các cấp giải quyết và cơ chế ra quyết định. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT 1947 được coi là một cơ chế không thường trực (ad hoc) với những thủ tục mang tính chính trị nhiều hơn. Mục tiêu của cơ chế này chỉ nhằm tìm ra các giải pháp mang tính thỏa thuận giữa các bên tranh chấp hơn là giải quyết các tranh chấp này theo phương diện pháp lý như cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. 5.1.1. Khái quát về cơ chế giải quyết trong khuôn khổ WTO 5.1.1.1. Cơ cấu tổ chức của Cơ quan giải quyết tranh chấp Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) nằm dưới quyền kiểm soát của Đại hội đồng của WTO. Thực chất, cơ quan này cũng bao gồm tất cả các thành viên của Đại hội đồng. Điểm khác biệt so với Đại hội đồng là DSB có Chủ tịch và quy tắc hoạt động riêng (Điều IV.3 Hiệp định WTO). DSB có thẩm quyền thành lập Ban hội thẩm và thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, duy trì sự giám sát việc thực hiện các phán quyết và khuyến nghị trong giải quyết tranh chấp, cho phép tạm hoãn việc thi hành những nhượng bộ và nghĩa vụ theo các hiệp định có liên quan. Đây là cơ quan điều hành, ra quyết định và thông qua Báo cáo của các cơ quan chuyên trách. Ban hội thẩm là cơ quan trực tiếp giải quyết tranh chấp. Ban hội thẩm do DSB thành lập, bao gồm từ 3 đến 5 thành viên có nhiệm vụ xem xét vụ việc và đưa ra các khuyến nghị trên cơ sở các quy định của WTO. Thành viên của Ban hội thẩm được lựa chọn trong số các quan chức của chính phủ và/hoặc các chuyên gia phi chính phủ. Các thành viên này phải đảm bảo nguyên tắc là không thuộc quốc tịch của các bên tranh chấp hoặc của một quốc gia cùng là thành viên trong một liên minh thuế quan hoặc 243
  3. trong một thị trường chung với một trong các bên tranh chấp. Ban hội thẩm được tổ chức theo quy chế không thường trực, được thành lập trên cơ sở có vụ việc phát sinh và được yêu cầu giải quyết tại DSB. Ban hội thẩm hoạt động độc lập. Kết quả của công việc của Ban hội thẩm là một bản báo cáo. Bản báo cáo này được trình lên DSB để DSB thông qua. Cơ quan Phúc thẩm (Appellate Body, viết tắt là AB) là cơ quan do DSB thành lập. Được coi là cấp xét xử thứ hai trong khuôn khổ giải quyết tranh chấp của WTO. Đây là cơ quan có quy chế thường trực, bao gồm 7 thành viên có nhiệm kỳ 4 năm (có thể được bầu lại 1 lần). Các thành viên này phải là những người có uy tín đã được công nhận và có kinh nghiệm chuyên môn đã được chứng minh trong các lĩnh vực pháp luật, thương mại quốc tế và trong những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của các hiệp định có liên quan. Trong số 7 thành viên này, chỉ có 3 thành viên được xét xử trong các vụ việc cụ thể. Khi có yêu cầu phúc thẩm, AB thành lập Nhóm làm việc (Working groups) gồm 3 thành viên. Các thành viên này được lựa chọn luân phiên theo từng vụ việc. Nhiệm vụ của AB là chỉ xem xét những vấn đề về mặt pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo của Ban hội thẩm, chứ không giải quyết lại nội dung vụ việc. Điều đó cũng có nghĩa là khi có Báo cáo của Ban hội thẩm, các bên tranh chấp chỉ được quyền kháng cáo lên AB khi thấy rằng Báo cáo này có những vấn đề về mặt pháp lý chưa đúng, hoặc chưa giải thích đúng các quy định của các hiệp định có liên quan của Ban hội thẩm. Kết quả của công việc này là một Báo cáo. Báo cáo này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc làm thay đổi các khuyến nghị ở trong Báo cáo của Ban hội thẩm. 5.1.1.2. Cơ chế ra quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp trong WTO Quyết định của DSB được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận phủ định (Điều 2.4, và ghi chú 1 DSU). Với nguyên tắc đồng thuận phủ định này, DSB đã khắc phục được hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp trước đó của GATT 1947. Trước đây, các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ GATT 1947 luôn có nguy cơ không được thông qua do cơ chế thông qua quyết định được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận 244
  4. khẳng định. Theo đó, việc thành lập Ban hội thẩm hay thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm chỉ có thể được thông qua khi không có sự phản đối chính thức từ bất kỳ bên tham gia nào của GATT 1947. Đây chính là điểm yếu của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 1947. Do các quyết định thành lập Ban hội thẩm hay thông qua báo cáo đều có thể bị bên bị khiếu kiện cản trở. Dù trong thực tiễn giải quyết tranh chấp của GATT 1947 không luôn trong tình trạng như vậy. Các bên ký kết là bị đơn thường không ngăn cản các quyết định đồng thuận và cho phép tiến hành giải quyết các tranh chấp với sự tham gia của họ, ngay cả khi quyết định đó sẽ có hại cho họ. Họ làm như vậy vì những lợi ích lâu dài của mình vì biết rằng việc sử dụng thái quá quyền phủ quyết sẽ bị các bên khác trả đũa lại tương tự. Vì vậy, các Ban hội thẩm cũng đã được thành lập và các báo cáo của họ thường được thông qua mặc dù cũng bị trì hoãn. Tuy nhiên, cơ chế thông qua quyết định này của GATT 1947 đã làm cản trở các bên đưa tranh chấp ra giải quyết. Thực tế cho thấy có rất nhiều tranh chấp chưa từng được đưa ra trước GATT vì bên khiếu kiện lo ngại rằng bên bị khiếu kiện sẽ dùng quyền phủ quyết. Nguy cơ của việc dùng quyền phủ quyết cũng đã làm suy yếu hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT. Ngoài ra, việc sử dụng quyền phủ quyết đã diễn ra trong thực tiễn, đặc biệt là trong những lĩnh vực nhạy cảm về chính trị hoặc quan trọng về kinh tế, như chống bán phá giá. Hệ quả là vào những năm 1980, hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT đã suy yếu dần, do các bên ký kết, đặc biệt là Cộng đồng châu Âu, Mỹ, thường cản trở việc thành lập Ban hội thẩm và việc thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm. Việc các báo cáo của Ban hội thẩm có nguy cơ bị cản trở, không thông qua cũng làm ảnh hưởng tới nội dung các phán quyết của Ban hội thẩm. Ban hội thẩm biết trước rằng báo cáo của họ cũng phải được bên thua kiện chấp thuận thì mới được thông qua. Vì vậy, động cơ đưa ra phán quyết không chỉ dựa trên cơ sở giá trị pháp lý của vụ kiện, mà còn phải tính đến một giải pháp mang “tính ngoại giao” bằng việc đưa ra một thoả hiệp mà cả hai bên (bên khiếu nại và bên bị khiếu nại) đều có thể chấp nhận được. 245
  5. Những yếu kém về mặt cơ cấu của hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT là rất đáng kể, dù cuối cùng nhiều tranh chấp cũng đã được giải quyết. Trước thực trạng trên, WTO đã thay đổi lại cơ chế thông qua quyết định giải quyết tranh chấp của DSB. Trong Hiệp định về Quy tắc và Thủ tục giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO (DSU), quyền của các bên, nhất là bên có biện pháp bị kiện, trong việc ngăn cản việc thành lập Ban hội thẩm hoặc thông qua báo cáo đã bị loại bỏ. Hiện nay, Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) tự động thành lập Ban hội thẩm và thông qua báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, trừ khi có sự đồng thuận không nhất trí làm như vậy. Đây được gọi là quy tắc “đồng thuận nghịch” hay “đồng thuận phủ định”. Quy tắc này giúp cho các báo cáo của Ban hội thẩm hay của Cơ quan phúc thẩm sẽ luôn được thông qua trừ trường hợp có sự đồng thuận phản đối Báo cáo. Điều đó có nghĩa là khi một Báo cáo được trình lên DSB để xem xét, báo cáo này sẽ luôn được coi là đã được DSB quyết định đồng thuận thông qua, nếu không có Thành viên nào tại cuộc họp của DSB chính thức phản đối quyết định đã được đề xuất. 5.1.1.3. Mục tiêu của cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO đóng vai trò tích cực trong việc bảo vệ hệ thống các quy định mang tính pháp lý của WTO và giúp điều hành một cách hiệu quả hoạt động của tổ chức này. Điều 3 của DSU khẳng định rõ "Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO là một nhân tố trung tâm trong việc tạo ra sự an toàn và khả năng dự đoán trước cho hệ thống thương mại đa phương", nhằm "bảo vệ quyền và nghĩa vụ của tất cả các thành viên". Chính vì vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp được coi là một trong ba yếu tố quan trọng tạo nên thiết chế WTO bên cạnh nguyên tắc có đi có lại và nguyên tắc không phân biệt đối xử. Thiếu một trong ba yếu tố này sẽ có thể dẫn đến sự sụp đổ của WTO. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được thành lập nhằm đạt được một số mục tiêu quan trọng sau: + Bảo đảm sự an toàn và tính dự báo trước cho hệ thống thương mại đa phương. 246
  6. Đây cũng là mục tiêu trọng tâm của hệ thống giải quyết tranh chấp WTO. WTO cần phải có một hệ thống hoạt động trên cơ sở quy định pháp luật, tin cậy, hiệu quả và nhanh chóng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc áp dụng các điều khoản của Hiệp định WTO. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO làm cho hệ thống thương mại trở nên an toàn hơn và có khả năng dự đoán trước. Khi một thành viên bị kết luận là không tuân thủ quy định của WTO, hệ thống giải quyết tranh chấp sẽ đưa ra cách giải quyết tương đối nhanh chóng đối với vấn đề đó bằng một quyết định độc lập buộc phải thi hành ngay. + Bảo đảm việc thực hiện đúng các cam kết, các nghĩa vụ của các thành viên theo các hiệp định của WTO. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có mục tiêu bảo đảm các thành viên của WTO phải thực hiện theo đúng các cam kết của mình đối với các thành viên khác, theo đúng các kết quả của quá trình đàm phán lâu dài mà các thành viên WTO đã rất khó khăn để đạt được. Trong trường hợp một thành viên không rút lại hoặc sửa đổi những biện pháp bị coi là không phù hợp, thành viên đó có thể sẽ bị trừng phạt thương mại bằng việc bị yêu cầu áp dụng biện pháp bồi thường. Biện pháp bồi thường cũng được thực hiện trong trường hợp việc rút lại ngay lập tức các biện pháp bị cho là không phù hợp hoặc không thực tế. Về mặt nguyên tắc, việc áp dụng biện pháp bồi thường sẽ chỉ được thực hiện với danh nghĩa tạm thời. + Giải thích rõ ràng các quy định của các hiệp định trong khuôn khổ WTO. Phạm vi chính xác của quyền và nghĩa vụ được nêu trong Hiệp định WTO không hoàn toàn được rõ ràng ngay nếu chỉ đọc văn bản Hiệp định. Các điều khoản pháp lý thường được viết ra theo ngôn ngữ chung để có thể áp dụng chung và bao trùm một số lượng lớn các trường hợp, tình huống cụ thể. Do đó, việc một số tình tiết nào đó có gây ra vi phạm quy định pháp luật được hàm chứa trong một điều khoản cụ thể nào đó hay không là một câu hỏi mà không dễ gì có được câu trả lời. Trong phần lớn các trường hợp, câu trả lời chỉ có thể được tìm thấy sau khi giải thích được các nội dung của quy định liên quan. Thêm vào đó, các quy định 247
  7. pháp lý trong các hiệp định quốc tế thường thiếu sự rõ ràng bởi câu chữ của chúng là kết quả của sự thỏa hiệp sau các vòng đàm phán đa phương. Những thành viên khác nhau tham gia vào quá trình đàm phán thường phải dung hòa các quan điểm khác nhau thông qua việc thống nhất nội dung của văn kiện sao cho có thể hiểu theo nhiều cách để vẫn thỏa mãn được yêu cầu của các nhóm có quyền lợi kinh tế khác nhau. Các nhà đàm phán cũng có thể nhờ đó mà hiểu những quy định cụ thể theo các cách trái ngược và khác nhau. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO có nhiệm vụ chỉ ra một cách rõ ràng rằng hệ thống giải quyết tranh chấp có mục tiêu làm rõ các quy định của Hiệp định WTO “phù hợp với những quy tắc về tập quán trong giải thích công pháp quốc tế”. + Bảo đảm cho các thành viên được hưởng các lợi ích hợp lý mà mình đáng lẽ được hưởng từ các quy định của WTO. Nếu một thành viên tin rằng một thành viên khác đang áp dụng biện pháp phù hợp với các quy định của WTO nhưng đã triệt tiêu hoặc làm phương hại đến lợi ích hợp lý mà mình đáng lẽ được nhận theo bất kỳ quy định nào của WTO (Điều XXIII GATT 1994), thành viên đó hoàn toàn được quyền sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO yêu cầu bảo đảm các lợi ích hợp pháp của mình. 5.1.2. Đặc trưng của cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO 5.1.2.1. Là cơ chế liên quốc gia Đây là cơ chế chỉ dành cho các chủ thể là Quốc gia, vùng lãnh thổ là thành viên của WTO. Nói một cách khác, các chủ thể tư là thể nhân và pháp nhân sẽ không được sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp này. Hầu hết các quy định của WTO tạo ra quyền và nghĩa vụ của các thành viên WTO. Do vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp được thành lập nhằm bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của họ. Việc cơ chế này không cho phép các chủ thể tư được quyền sử dụng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của họ được cho là không thực sự phù hợp. Bởi các tranh chấp thương mại quốc tế thường là những tranh chấp giữa các chủ thể tư. Mặc dù thương mại quốc tế được hiểu trong 248
  8. WTO như là dòng hàng hóa và dịch vụ lưu chuyển giữa các nước thành viên, nhưng nói chung, các chính phủ không trực tiếp tiến hành các hoạt động thương mại này mà do các đối tác kinh tế tư nhân tiến hành. Ngoài ra, một số hiệp định của WTO còn quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ cho công dân của các thành viên của WTO như Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) hoặc Hiệp định về thương mại dịch vụ (GATS). Rõ ràng, trong các Hiệp định này, tranh chấp có thể xảy ra liên quan đến các chủ thể tư này, hoặc giữa các chủ thể tư này với các Quốc gia có liên quan. Những tranh chấp này khó có thể được coi là những tranh chấp liên quốc gia, liên chính phủ. Thế nhưng, để giải quyết các tranh chấp này, các chủ thể tư buộc phải nhờ đến sự can thiệp của Chính phủ quốc gia. Sự hỗ trợ này có thể được thực hiện dưới hình thức "bảo hộ ngoại giao" (thuật ngữ tiếng Anh là "diplomatic protection") trong pháp luật quốc tế. Hạn chế của biện pháp này là các chủ thể tư sẽ phải phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định của Chính phủ quốc gia có hay không tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ của WTO. 5.1.2.2. Cho phép các bên lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp Khi có tranh chấp liên quan đến các quy định của WTO, các thành viên luôn có quyền được tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp thích hợp nhất. Các thành viên của WTO có thể lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp như môi giới, hòa giải, trung gian, trọng tài hoặc theo thủ tục trong khuôn khổ của DSB. Các phương thức môi giới, hòa giải, trung gian thường được coi là những phương thức giải quyết tranh chấp mang tính chất chính trị hơn so với các phương thức còn lại. Các phương thức này có thể thực hiện một cách độc lập hoặc là những thủ tục trong quá trình giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ DSU.  Khi là những thủ tục trong quá trình giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ DSU: Các bên có thể hạn chế quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng cách thỏa thuận một phương thức giải quyết nhất định trước khi có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn một phương thức khác vào bất kỳ thời điểm nào, trên 249
  9. cơ sở tự nguyện thỏa thuận. Nguyên tắc này được quy định rõ trong Điều 5 Thỏa thuận về các Quy tắc và thủ tục về việc giải quyết tranh chấp. Theo đó, các phương thức như môi giới, hòa giải hoặc trung gian luôn có thể được yêu cầu thực hiện bởi một bên tranh chấp. Nếu bên kia đồng ý, phương thức này sẽ được tiến hành vào bất kỳ lúc nào ngay cả khi Ban hội thẩm đã được thành lập. Trong khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp này, phương thức trọng tài có thể được thực hiện trong các thủ tục như: (1) Xác định thời hạn thực hiện khuyến nghị trong trường hợp Bên thua kiện không thể thực hiện ngay khuyến nghị; (2) Xác định mức độ trả đũa trong trường hợp Bên thua kiện có kiến nghị về vấn đề này. Thành viên của trọng tài là các thành viên của Ban hội thẩm ban đầu, hoặc do một trọng tài viên được Tổng Giám đốc WTO chỉ định.  Khi là phương thức giải quyết tranh chấp độc lập: Các phương thức môi giới, trung gian, hòa giải sẽ trở thành phương thức giải quyết độc lập khi các bên đạt được kết quả và dừng lại ở các thủ tục này khi giải quyết tranh chấp. Đối với phương thức trọng tài, phương thức này có những quy định riêng biệt hơn. Trong trường hợp này, trọng tài chỉ có thể được thực hiện để giải quyết tranh chấp đối với các vấn đề đã được các bên xác định rõ ràng và thống nhất. Các Bên tranh chấp có nghĩa vụ thông báo cho tất cả các thành viên quyết định lựa chọn trọng tài độc lập trước khi thủ tục tố tụng được bắt đầu. Tố tụng trọng tài được tiến hành theo nguyên tắc xử kín, các thành viên khác của WTO chỉ có thể tham gia tố tụng nếu được các Bên tranh chấp đồng ý. Cũng giống như trọng tài thông thường, phán quyết của trọng tài giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO là chung thẩm, các Bên phải nghiêm túc tuân thủ. Các Bên có nghĩa vụ thông báo phán quyết cho các thành viên của WTO và cho Hội đồng của hiệp định có liên quan. Tuy nhiên, phán quyết của trọng tài phải phù hợp với các hiệp định có liên quan và không được gây thiệt hại cho bất kỳ thành viên nào khác của WTO. Các thành viên của WTO có quyền đưa ra các câu hỏi liên quan đến phán quyết này. 5.1.2.3. Là cơ chế giải quyết tranh chấp chung Đây là cơ chế giải quyết tranh chấp áp dụng chung cho tất cả các tranh chấp phát sinh từ các Hiệp định của WTO, ngoại trừ các tranh chấp 250
  10. được quy định tại Điều 1 khoản 2 DSU. Theo điều khoản này, các quy tắc và thủ tục của DSU phải được áp dụng “với điều kiện phải tuân theo những quy tắc và thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung về giải quyết tranh chấp được ghi trong các hiệp định có liên quan được nêu trong Phụ lục 2 của Thỏa thuận này”. Trong trường hợp có sự khác biệt, "những quy tắc và thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung trong Phụ lục 2 phải được ưu tiên áp dụng". Như vậy, với các quy định này, có thể thấy rằng cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong DSU được coi là cơ chế áp dụng chung cho tất cả các tranh chấp, trừ trường hợp đối với một số các hiệp định riêng biệt. Thực ra, nguyên tắc áp dụng này gắn liền với cơ chế phân loại các hiệp định của WTO. Theo đó, các hiệp định này được phân thành 3 loại sau:  Loại thứ nhất là các hiệp định thương mại đa biên được nêu trong Phụ lục 1 các Hiệp định WTO: GATT (Phụ lục 1A), GATS (Phụ lục 1B), TRIPS (Phụ lục 1C). Ngoài ra, cơ chế của DSU còn áp dụng cho các tranh chấp liên quan đến các quy định của Hiệp định WTO, DSU. Tất cả các hiệp định này được quy định trong Phụ lục 1 của DSU. Đối với các hiệp định này, cơ chế giải quyết tranh chấp của DSU được áp dụng một cách toàn diện.  Loại thứ hai là các hiệp định thương mại nhiều bên. Các hiệp định này được quy định tại Phụ lục 1 của DSU. Đối với các hiệp định này, DSU không áp dụng một cách chính thức đối với các hiệp định này. Các thành viên tham gia hiệp định này được quyền quyết định áp dụng hay không cơ chế giải quyết tranh chấp của DSU, hoặc tự mình xác định những thể thức áp dụng riêng cơ chế này đối với hiệp định nhiều bên của mình. Trong trường hợp áp dụng riêng cơ chế giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp phải thông báo với DSB về những thay đổi về thủ tục cũng như về những quy định mà các bên tự tạo ra.  Loại thứ ba là các hiệp định đa bên hoặc nhiều bên có chứa đựng những quy tắc và thủ tục đặc biệt về giải quyết tranh chấp. Các hiệp định này được quy định tại Phụ lục 2 của DSU. Đối với trường hợp này, hai cơ chế giải quyết tranh chấp chung và riêng sẽ cùng tồn tại. Trong trường hợp có sự xung đột giữa hai cơ chế này, cơ chế giải quyết tranh chấp riêng sẽ được ưu tiên áp dụng. Trong trường hợp, một tranh chấp đòi hỏi 251
  11. việc giải thích và áp dụng đồng thời cả hai hiệp định (hiệp định được quy định tại Phụ lục 1 của DSU và tại Phụ lục 2 của DSU), các bên tranh chấp phải thỏa thuận lựa chọn quy tắc và thủ tục áp dụng. Trong trường hợp không thể thỏa thuận được với nhau, các bên có quyền yêu cầu Chủ tịch DSB quyết định những quy tắc và thủ tục phải tuân theo. Việc quyết định những quy tắc và thủ tục này được đưa ra trên nguyên tắc những quy tắc và thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung cần phải được sử dụng khi có thể, và những quy tắc và thủ tục được nêu trong DSU chỉ cần được sử dụng ở mức cần thiết để tránh xảy ra mâu thuẫn. Nói một cách khác, Chủ tịch DSB phải ưu tiên sử dụng các quy tắc và thủ tục riêng biệt. 5.1.3. Các nguyên tắc chung của cơ chế giải quyết tranh chấp 5.1.3.1. Bảo toàn các quyền và nghĩa vụ của các Thành viên WTO Một tranh chấp phát sinh khi một Thành viên WTO thông qua một biện pháp chính sách thương mại mà một hay nhiều thành viên khác coi là không phù hợp với nghĩa vụ theo Hiệp định WTO. Trong trường hợp đó, bất kỳ thành viên nào cảm thấy bị thiệt hại đều được phép viện dẫn đến các điều khoản và thủ tục của hệ thống giải quyết tranh chấp để chính thức phản đối lại biện pháp đó. Nếu các bên tranh chấp không thể đạt được một hoà giải thì bên khiếu kiện được bảo đảm giải quyết bằng một quy trình dựa trên nguyên tắc mà theo đó tính đúng đắn của đơn kiện sẽ được xem xét bởi một cơ quan độc lập (Ban hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm). Nếu bên khiếu kiện thắng kiện thì kết quả mong muốn là việc bên bị kiện rút bỏ biện pháp bị coi là không phù hợp với Hiệp định WTO. Bồi thường và các biện pháp trả đũa chỉ là các biện pháp thứ yếu và có tính tạm thời đối với một sự vi phạm Hiệp định WTO. Như vậy, hệ thống giải quyết tranh chấp cho phép có một cơ chế giải quyết tranh chấp mà nhờ đó các thành viên WTO có thể bảo đảm rằng các quyền của họ theo Hiệp định WTO được thực hiện. Hệ thống này cũng quan trọng đối với cả bên bị khiếu kiện để họ tự bảo vệ mình nếu họ không đồng ý với lời cáo buộc của bên khiếu kiện. Trong trường 252
  12. hợp này, hệ thống giải quyết tranh chấp đóng vai trò bảo vệ quyền và nghĩa vụ của thành viên theo Hiệp định WTO. Các quyết định của các cơ quan liên quan nhằm mục tiêu phản ánh và thực thi một cách đúng đắn các quyền và nghĩa vụ như được quy định tại Hiệp định WTO. Nguyên tắc này còn đòi hỏi các khuyến nghị và phán quyết của DSB không được làm tăng hoặc giảm các quyền và nghĩa vụ được quy định trong các hiệp định có liên quan. Đây là một nguyên tắc quan trọng, mang tính định hướng của DSU. Các giải pháp nêu ra (kể cả các vấn đề liên quan đến tham vấn và trọng tài) phải phù hợp với những hiệp định có liên quan và không được triệt tiêu hay làm giảm những lợi ích mà các thành viên có được theo những hiệp định đó, hoặc không được ngăn cản việc đạt được bất kỳ mục tiêu nào của những hiệp định này. 5.1.3.2. Làm rõ quyền lợi và nghĩa vụ thông qua giải thích Phạm vi chính xác của quyền và nghĩa vụ được nêu trong Hiệp định WTO không hoàn toàn được rõ ràng ngay nếu chỉ đọc văn bản Hiệp định. Các điều khoản pháp lý thường được viết ra theo ngôn ngữ chung để có thể áp dụng chung và bao trùm một số lượng lớn các trường hợp, tình huống cụ thể. Do đó, việc áp dụng vào các tình huống thực tiễn cụ thể sẽ có thể gặp nhiều khó khăn. Trong phần lớn các trường hợp, câu trả lời chỉ có thể được tìm thấy sau khi giải thích được các nội dung của quy định liên quan. Thêm vào đó, các quy định pháp lý trong các hiệp định quốc tế thường thiếu sự rõ ràng bởi câu chữ của chúng là kết quả của sự thỏa hiệp sau các vòng đàm phán đa phương. Những thành viên khác nhau tham gia vào quá trình đàm phán thường phải dung hòa các quan điểm khác nhau thông qua việc thống nhất nội dung của văn kiện sao cho có thể hiểu theo nhiều cách để vẫn thỏa mãn được yêu cầu của các nhóm có quyền lợi kinh tế khác nhau. Chính vì vậy nguyên tắc chung đặt ra cho cơ chế giải quyết tranh chấp DSB là phải làm rõ các quy định của Hiệp định WTO. Việc giải thích, làm rõ các quy định của WTO phải được thực hiện theo đúng quy tắc có tính tập quán quốc tế về giải thích. DSU dẫn chiếu đến các “quy tắc về tập quán trong giải thích công pháp quốc tế (Điều 3.2 của DSU). Tuy nhiên, các quy tắc của pháp luật tập quán quốc tế thường 253
  13. không được viết thành văn bản, nhưng đã có một số công ước quốc tế pháp điển hóa một số quy tắc của pháp luật tập quán về giải thích điều ước quốc tế. Đáng chú ý là các Điều 31 (Quy định chung về giải thích); điều 32 (Phương tiện bổ sung cho giải thích) và Điều 33 (Giải thích điều ước được chứng thực bằng hai hay nhiều ngôn ngữ) của Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế hàm chứa nhiều quy tắc có tính tập quán về giải thích điều ước quốc tế. Các quy định của WTO cần được giải thích phù hợp với nghĩa thông thường của từ ngữ trong quy định liên quan, được cân nhắc trong bối cảnh của chúng và theo mục đích và đối tượng của hiệp định liên quan. Nghĩa thông thường của một thuật ngữ trong một quy định cần được làm rõ trên cơ sở lời văn đơn thuần. Những định nghĩa về thuật ngữ này trong từ điển có thể sử dụng để trợ giúp cho mục tiêu đó. “Bối cảnh” là nói đến các kết luận có thể được đưa ra trên các cơ sở, chẳng hạn như cấu trúc, nội dung hoặc thuật ngữ ở các điều khoản khác cùng trong hiệp định, đặc biệt là những điều khoản có trước và sau quy định cần giải thích. “Đối tượng và mục đích” là nói đến mục đích rõ ràng hay ngụ ý của quy định liên quan hay cả hiệp định nói chung. Trên thực tế, Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm dường như dựa nhiều vào nghĩa thông thường và bối cảnh hơn là vào đối tượng và mục đích của các điều khoản cần giải thích. Lịch sử đàm phán hiệp định chỉ là một công cụ thứ cấp bổ sung cho việc giải thích, công cụ này chỉ được sử dụng để khẳng định sự giải thích theo nghĩa thông thường. Một trong những hệ luận của các nguyên tắc giải thích là ý nghĩa và hiệu lực phải được đưa ra đối với tất cả các thuật ngữ của một hiệp định thay vì làm cho toàn bộ các phần của một hiệp định trở nên thừa và vô dụng. Thêm vào đó, Điều 17.6 của DSU cũng ngầm công nhận rằng các Ban hội thẩm được phép phát triển các giải thích pháp lý. Do đó, “thẩm quyền duy nhất” theo Điều IX:2 của Hiệp định WTO phải được hiểu là khả năng thông qua những giải thích “chính thức”, có hiệu lực chung đối với tất cả các thành viên WTO. Điều này khác với các giải thích của các Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm là chỉ áp dụng cho các bên tranh chấp và cho một tranh chấp cụ thể. 254
  14. 5.1.3.3. Ưu tiên giải pháp thỏa thuận Giống như các hệ thống pháp luật khác, DSU ưu tiên giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng trực tiếp giữa các bên, với mong muốn các bên tự dàn xếp, thỏa thuận và phù hợp với Hiệp định WTO. Việc xét xử chỉ được sử dụng khi các bên không thể đưa ra được giải pháp này. Với tư cách là giai đoạn đầu tiên của mỗi tranh chấp, DSU yêu cầu các bên tham vấn chính thức đưa ra một khuôn khổ mà theo đó các bên tranh chấp phải ít nhất là cố gắng đàm phán để đạt được hòa giải. Ngay cả khi vụ kiện đến giai đoạn xét xử, các bên vẫn có thể tự dàn xếp với nhau và luôn được khuyến khích nỗ lực theo hướng này. 5.1.3.4. Giải quyết tranh chấp nhanh chóng DSU nhấn mạnh rằng giải quyết tranh chấp nhanh chóng là rất quan trọng nếu WTO muốn hoạt động hiệu quả và sự cân bằng các quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên được duy trì. DSU đưa ra các thủ tục tương đối cụ thể và thời gian tương ứng phải tuân thủ trong giải quyết tranh chấp. Thủ tục cụ thể được đưa ra nhằm mục tiêu đạt hiệu quả, bao gồm cả quyền của bên khiếu kiện được đi tiếp theo các bước tố tụng với đơn khiếu kiện ngay cả khi không có sự đồng ý của bên bị khiếu kiện. Các cuộc tranh chấp trong WTO thường rất phức tạp, cả về tình tiết và căn cứ pháp lý. Các bên thường đưa ra một số lượng đáng kể các số liệu và tài liệu liên quan đến biện pháp đang tranh chấp và họ cũng đưa ra những lý lẽ pháp lý rất cụ thể. Các bên cần thời gian để chuẩn bị những lý lẽ về thực tế và về pháp lý để trả lời cho những lập luận mà bên đối lập đưa ra. Ban hội thẩm và/hoặc Cơ quan phúc thẩm được bổ nhiệm để giải quyết vấn đề sẽ cần phải xem xét tất cả các bằng chứng và lý lẽ, có thể phải nghe chuyên gia và đưa ra lập luận chi tiết để giúp đưa ra kết luận. Một vụ kiện được xét xử cần không quá 12 tháng để Ban hội thẩm đưa ra phán quyết và không quá 15 tháng trong trường hợp được phúc thẩm. Nếu tính đến tất cả các khía cạnh này, hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động tương đối nhanh và, trong mọi trường hợp, nhanh hơn nhiều so với các hệ thống tòa án của nước thành viên hoặc hệ thống tài phán quốc tế khác. 255
  15. 5.1.3.5. Cấm quyết định đơn phương Việc thông qua DSU cho thấy các thành viên WTO đã đồng ý sử dụng hệ thống đa phương để giải quyết các tranh chấp thương mại trong WTO của họ thay vì sử dụng đến hành động đơn phương. Điều này có nghĩa là tuân thủ các thủ tục đã được thống nhất và tôn trọng các phán quyết khi được đưa ra, thay vì đơn phương áp dụng pháp luật. Nếu một thành viên khiếu kiện thành viên khác là đã vi phạm các quy tắc WTO và hành động một cách đơn phương là áp dụng biện pháp đối kháng thì có nghĩa thành viên đó cũng vi phạm nghĩa vụ. Để ngăn chặn mâu thuẫn gia tăng như vậy, DSU yêu cầu bắt buộc sử dụng hệ thống đa phương để giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO khi họ muốn một thành viên khác sửa sai trong khuôn khổ Hiệp định WTO. Việc sử dụng cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO được yêu cầu đối với trường hợp một thành viên tin tưởng rằng thành viên khác đã vi phạm Hiệp định WTO, hoặc làm triệt tiêu, hoặc suy giảm các lợi ích theo các hiệp định WTO, hoặc làm cản trở việc đạt mục tiêu của một trong số các hiệp định. Trong các trường hợp như vậy, một thành viên không thể hành động dựa trên các quyết định đơn phương khi xảy ra một trong các tình huống trên mà chỉ có thể hành động sau khi đã sử dụng việc giải quyết tranh chấp theo các thủ tục và quy tắc của DSU. Thành viên đó chỉ có thể được hành động dựa trên các kết luận của Ban hội thẩm được thông qua hoặc báo cáo của Cơ quan phúc thẩm hoặc phán quyết của trọng tài đã được thông qua. Thành viên liên quan cũng phải tuân thủ các thủ tục được đề ra trong DSU đối với việc xác định về thời gian thực hiện và áp dụng các biện pháp trả đũa chỉ trên cơ sở được phép của DSB. 5.1.3.6. Tính chất bắt buộc Hệ thống giải quyết tranh chấp có tính bắt buộc. Tất cả các thành viên WTO đều phải tuân thủ, bởi họ đã ký và phê chuẩn Hiệp định WTO với tư cách là cả gói cam kết chung, mà DSU là một phần trong đó. DSU buộc tất cả các thành viên WTO phải tuân thủ hệ thống giải quyết tranh chấp đối với tất cả các tranh chấp phát sinh trong khuôn khổ 256
  16. Hiệp định WTO. Do đó, không giống các hệ thống giải quyết tranh chấp quốc tế khác, các bên tranh chấp không cần thiết phải có một tuyên bố riêng hay thỏa thuận riêng về việc chấp nhận quyền tài phán của hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO. Việc chấp thuận quyền tài phán của hệ thống giải quyết tranh chấp đã được hàm chứa trong việc thành viên gia nhập vào WTO. Kết quả là từng thành viên WTO được bảo đảm quyền tiếp cận hệ thống giải quyết tranh chấp và không thành viên bị kiện nào có thể trốn tránh được quyền tài phán này. 5.1.4. Các loại tranh chấp trong khuôn khổ của WTO Các tranh chấp này được phân thành 3 loại như sau: + Tranh chấp liên quan đến sự vi phạm quy định của WTO (violation complaint): Tranh chấp này phát sinh khi có sự vi phạm quy định của một hiệp định nào đó của WTO. + Tranh chấp không có vi phạm quy định (non - violation complaint): Tranh chấp xảy ra khi một thành viên nhận thấy rằng lợi ích thu được trực tiếp hoặc gián tiếp từ một hiệp định bị vô hiệu hoặc việc thực hiện một trong những mục tiêu của hiệp định vì thế bị cản trở khi một thành viên áp dụng một biện pháp thương mại nào đó, dù biện pháp này không trái với quy định của hiệp định (xem thêm điều XXIII khoản 1 GATT). + Tranh chấp khi có tình huống xảy đến (situation complaint): Tranh chấp xảy ra khi một thành viên nhận thấy rằng lợi ích thu được trực tiếp hoặc gián tiếp từ một hiệp định bị vô hiệu hoặc việc thực hiện một trong những mục tiêu của hiệp định vì thế bị cản trở khi có sự tồn tại một tình huống bất kỳ. 5.1.5. Trình tự giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có thể phân thành ba giai đoạn: Giai đoạn “tiền xét xử”; Giai đoạn “xét xử”, Giai đoạn thực hiện quyết định. Giai đoạn “tiền xét xử” được hiểu là giai đoạn các bên tự giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng trực tiếp giữa các bên hoặc thông qua một bên thứ ba do các bên tự quyết định (5.1.5.1.). Giai đoạn “xét xử” là khi các bên đưa tranh chấp ra giải quyết tại cơ quan giải 257
  17. quyết tranh chấp của WTO là DSB (5.1.5.2). Sau khi có quyết định giải quyết tranh chấp các bên sẽ chuyển sang giai đoạn thực hiện (5.1.5.3). 5.1.5.1. Giải quyết tranh chấp giữa các bên Giai đoạn này mang tính chất chính trị và có các thủ tục sau: Tham vấn (các bên trực tiếp giải quyết tranh chấp giữa họ); Môi giới, trung gian, hòa giải (các bên giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ 3). a. Tham vấn (Điều 4 DSU) Thủ tục này được thực hiện khi tranh chấp chưa phát sinh. Khi phát hiện có một thành viên áp dụng biện pháp làm ảnh hưởng đến sự vận hành của một hoặc nhiều hiệp định đối với quốc gia, vùng lãnh thổ của mình, thành viên này có quyền đề nghị tham vấn. Bên nhận được yêu cầu tham vấn có nghĩa vụ phải trả lời yêu cầu này trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu và phải tham gia vào tham vấn trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Thời hạn tiến hành tham vấn có thể được rút ngắn trong trường hợp khẩn cấp, kể cả trường hợp liên quan đến hàng hóa dễ hỏng, xuống còn không quá 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Nếu không tuân thủ các thời hạn nêu trên, thành viên yêu cầu tham vấn có thể trực tiếp yêu cầu thành lập Ban hội thẩm. Yêu cầu tham vấn phải được lập bằng văn bản và phải được thông báo cho DSB và các Hội đồng, Ủy ban liên quan. Quá trình tham vấn được giữ bí mật, không làm ảnh hưởng đến các quyền tiếp theo khác của các thành viên trong giải quyết tranh chấp và được thực hiện trên tinh thần thiện chí của các bên. Các thành viên khác (không phải là các bên của tranh chấp) có quyền được tham gia vào quá trình tham vấn nếu thấy rằng họ có lợi ích thương mại đáng kể trong vụ việc được tham vấn này và được thành viên nhận được yêu cầu tham vấn xác nhận. Trong trường hợp này, các thành viên phải thông báo lại cho DSB. Nếu như yêu cầu tham gia tham vấn không được chấp nhận, thành viên muốn tham gia vẫn có quyền yêu cầu tham vấn độc lập như quy trình nêu trên. b. Môi giới, trung gian, hòa giải (Điều 5 DSU) Đây là các thủ tục được tiến hành một cách tự nguyện, bí mật, không làm phương hại đến quyền của bất kỳ bên nào trong những bước 258
  18. tố tụng tiếp theo. Các bên được quyền tự do quyết định áp dụng những thủ tục này vào bất kỳ lúc nào sau khi tranh chấp phát sinh, kể cả khi Ban hội thẩm đã được thành lập và đang tiến hành tố tụng. DSU không quy định rõ cá nhân, tổ chức nào có thể đứng ra đảm nhiệm vai trò môi giới, trung gian, hòa giải. Tuy nhiên, theo khoản 6 Điều 5 DSU, Tổng Giám đốc WTO có thể, trên cương vị công tác chính thức của mình, đưa ra sáng kiến về việc làm người môi giới, hòa giải hoặc trung gian, nhằm giúp các thành viên giải quyết tranh chấp. 5.1.5.2. Giải quyết tranh chấp tại DSB a. Giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm Ban hội thẩm được thành lập trên cơ sở yêu cầu bằng văn bản của Bên đề nghị tham vấn. Sau khi Bên được tham vấn từ chối tham vấn hoặc tham vấn không đạt kết quả, Bên đề nghị tham vấn có quyền yêu cầu thành lập Ban hội thẩm trong vòng 60 ngày kể từ ngày có yêu cầu tham vấn (khoản 7 Điều 4). Trong trường hợp khẩn cấp, mà việc tham vấn không thể giải quyết được tranh chấp trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn, Bên đề nghị tham vấn có thể yêu cầu thành lập Ban hội thẩm. Văn bản yêu cầu thành lập Ban hội thẩm (Panel) phải nêu một số điểm sau: quá trình tham vấn, các biện pháp cụ thể đang được bàn cãi và tóm tắt ngắn gọn về cơ sở pháp lý của đơn kiện. Ban hội thẩm bao gồm 3 hội thẩm viên, trừ khi các bên tranh chấp cùng thỏa thuận về một ban hội thẩm gồm 5 hội thẩm viên trong vòng 10 ngày kể từ ngày thành lập Ban hội thẩm. Các thành viên này do Ban thư ký WTO đề xuất. Trong vòng 20 ngày kể từ khi có quyết định thành lập Ban hội thẩm, nếu các bên tranh chấp không có sự nhất trí về thành viên Ban hội thẩm, Tổng Giám đốc WTO phải bổ nhiệm các hội thẩm mà Tổng Giám đốc cho là thích hợp nhất để giải quyết tranh chấp, theo yêu cầu của bất kỳ bên nào. Chủ tịch DSB phải thông báo cho các bên tranh chấp về thành phần của Ban hội thẩm đã được thành lập không quá 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Khi có hai hoặc nhiều thành viên yêu cầu thành lập Ban hội thẩm để giải quyết cùng một vấn đề, DSB có thể xem xét thành lập một Ban 259
  19. hội thẩm duy nhất. Trường hợp không thể thành lập Ban hội thẩm duy nhất, các ban hội thẩm được thành lập riêng rẽ phải được bố trí có chung hội thẩm viên và phải được sắp xếp thời gian biểu sao cho các hội thẩm viên này hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Bất kỳ thành viên nào của WTO có quyền lợi đáng kể trong vấn đề đang được Ban hội thẩm xem xét, có quyền thông báo cho DSB và tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc với tư cách là Bên thứ ba. Bên thứ ba có quyền được trình bày vấn đề bằng văn bản trước Ban hội thẩm và gửi đến các bên tranh chấp. Nếu Bên thứ ba thấy rằng biện pháp là đối tượng của việc giải quyết tại Ban hội thẩm đã triệt tiêu hoặc làm phương hại đến quyền lợi của mình theo bất kỳ hiệp định có liên quan nào, Bên thứ ba có quyền sử dụng thủ tục giải quyết tranh chấp thông thường với danh nghĩa là một bên của tranh chấp. Ban hội thẩm hoạt động theo các thủ tục được quy định tại Điều 12 DSU. Một cách tóm tắt, Ban hội thẩm sẽ xem xét hai vấn đề sau: + Đánh giá những tình tiết thực tế của vụ việc: Các tình tiết thực tế của vụ việc sẽ được xác định trên cơ sở các văn bản đệ trình của các bên tranh chấp. Ban hội thẩm thiết lập lại các tình tiết của vụ việc một cách khách quan. + Đánh giá sự phù hợp của những tình tiết này với các quy định của hiệp định có liên quan: Dựa trên các tình tiết được thiết lập, Ban hội thẩm đưa ra các đánh giá, nhận định về mức độ phù hợp của các tình tiết này với các quy định của các hiệp định có liên quan, để từ đó làm căn cứ đưa ra các khuyến nghị hoặc quyết nghị phù hợp. Kết quả của các hoạt động này là Bản báo cáo của Ban hội thẩm. Bản báo cáo này phải được lập bằng văn bản có các nội dung sau: trình bày các tình tiết thực tế của vụ việc, khả năng áp dụng các điều khoản có liên quan và lý lẽ đằng sau bất cứ kết luận và khuyến nghị nào được đưa ra. Thời hạn đưa ra Báo cáo là không quá 6 tháng kể từ ngày Ban hội thẩm được thành lập. Trong trường hợp khẩn cấp, kể cả những trường hợp liên quan đến hàng dễ hỏng, thời hạn này được rút ngắn trong vòng 3 260
  20. tháng. Thời hạn này có thể được kéo dài trên cơ sở yêu cầu của Ban hội thẩm. Yêu cầu này phải được lập bằng văn bản có nêu rõ lý do trì hoãn cùng với khoảng thời gian dự kiến đưa ra báo cáo để trình lên DSB. Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp này, thời gian này không vượt quá 9 tháng. DSU có những quy định riêng áp dụng đối với các nước đang phát triển khi các nước này có những biện pháp là đối tượng của vụ việc tranh chấp. Báo cáo của Ban hội thẩm phải được chuyển tới tất cả các thành viên của DSB và được DSB thông qua trong vòng 60 ngày kể từ ngày chuyển tới các thành viên của DSB. Báo cáo sẽ được thông qua tại phiên họp DSB, trừ khi một bên tranh chấp chính thức thông báo cho DSB về quyết định kháng cáo của mình, hoặc DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thông qua bản báo cáo này. Trường hợp có phản đối về Báo cáo của Ban hội thẩm: Thành viên phản đối phải đệ trình văn bản giải thích lý do phản đối của mình tới DSB ít nhất 10 ngày trước ngày DSB tiến hành phiên họp xem xét báo cáo của Ban hội thẩm. Khi nhận được thông báo về quyết định kháng cáo, thủ tục phúc thẩm được tiến hành. Thủ tục này không làm ảnh hưởng đến quyền của các thành viên được thể hiện quan điểm về Bản báo cáo của Ban hội thẩm. b. Giải quyết tại Cơ quan phúc thẩm Trình tự phúc thẩm này được tiến hành khi có thông báo về quyết định kháng cáo của một bên tranh chấp, sau khi nhận được Bản báo cáo của Ban hội thẩm. Quyền kháng cáo được giới hạn trong phạm vi các vấn đề pháp lý hoặc những vấn đề liên quan đến giải thích pháp luật được đưa ra trong Báo cáo của Ban hội thẩm. Hơn nữa, chỉ có các bên tranh chấp mới có quyền kháng cáo Báo cáo của Ban hội thẩm. Các bên thứ ba không có quyền này, dù vẫn được quyền trình bày ý kiến của mình (có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng) trước Cơ quan phúc thẩm. Quá trình làm việc của Cơ quan phúc thẩm được giữ kín. Các báo cáo của Cơ quan phúc 261
nguon tai.lieu . vn