Xem mẫu

Chương 4 TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ LA MÃ CỔ ĐẠI 1. Khái quát chung Nhà nước La Mã xuất hiện tương đối sớm và trải qua một thời kì phát triển lâu dài. Lịch sử của La Mã cổ đại gắn liền với cuộc đấu tranh gay gắt giữa các tầng lớp xã hội từ khi các quan hệ thị tộc bộ lạc bước vào giai đoạn tan rã hoàn toàn và sự hình thành các quan hệ chiếm hữu nô lệ. Tư tưởng chính trị và pháp lý ở La Mã cổ đại được hình thành trong điều kiện phát triển tột đỉnh của phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ và sau đó là sự sụp đổ của nó. Các mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô đạt đến độ sâu sắc nhất đồng thời diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa các chủ đất lớn và nhỏ, các tộc trưởng và thị dân về vấn đề ruộng đất, vấn đề quyền chính trị. K. Marx nhận xét rằng: "Có thể hoàn toàn coi lịch sử bên trong của nước Cộng hòa La Mã là cuộc đấu tranh của tiểu điền chủ với đại điền chủ, đương nhiên là dưới dạng thay đổi đặc biệt do chế độ nô lệ tạo nên"1. Các mâu thuẫn xã hội sâu sắc càng trầm trọng thêm do có cuộc đấu tranh trong nội bộ thượng tầng giai cấp thống trị - giữa quý tộc thị tộc và quý tộc công nghiệp thương mại. Trong tư tưởng thống trị của La Mã cổ đại, các vấn đề về nhà nước: Nguồn gốc, thiết chế và hình thức của nó; các vấn đề về nô lệ; địa vị pháp lý của các tầng lớp khác nhau của người tự do; việc bảo vệ sở hữu cá nhân... có vị trí quan trọng. Tư tưởng chính trị - pháp lý của La Mã cổ đại có nhiều nét giống với Hi Lạp cổ đại, song so với Hi Lạp, tư duy chính trị của La Mã nghèo nàn hơn nhiều. Theo một số tác giả thì sự tiếp nhận các quan điểm của Plato và của Aristote của người La Mã rất non yếu và hạn chế. Sở dĩ như vậy là vì những lý do sau: Thứ nhất, người La Mã vốn có tinh thần thực tiễn nên nền cộng hòa đã sản sinh ra những con người cầm quyền nhà nước, những cố vấn pháp lí, những nhà hùng biện, những quân lính trung thành với các công việc thực tế và các bài học của họ, lo lắng đến sự kiện hơn là quan tâm soạn thảo các lí thuyết. Thứ hai, người La Mã rất năng động, lại chịu sự tác động của chiến tranh, bởi những cuộc hội nghị chính trường và bởi việc theo đuổi những vinh dự đã làm cho họ xa cách phương hướng nghiên cứu duy lí. Phạm vi lãnh thổ rộng là sản phẩm của những cuộc chinh phục mà La Mã đã tiến hành trên thế giới cũng không thuận lợi cho việc nghiên cứu lý luận. Thứ ba, người La Mã có tính kiêu căng, họ tự tôn sùng họ quá mức nên họ chỉ 1 C.Mác v Ph. ngghen , To n t p, t p 28, Ti ng Nga, Nxb. Chính tr qu c gia, M.1962, tr. 238. 63 quan tâm đến lịch sử của riêng họ mà không quan tâm nghiên cứu các thiết chế của của các dân tộc khác vì họ cho rằng đó chỉ là những dân tộc bị họ đánh bại hoặc phải phụ thuộc vào họ nên không đáng tìm hiểu. Tuy vậy, ở La Mã thời kì này cũng đã xuất hiện nhiều khuynh hướng tư tưởng đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau như tư tưởng của những người nô lệ khởi nghĩa, tư tưởng của nền dân chủ chiếm hữu nô lệ, tư tưởng của các luật gia La Mã… 2. Tư tưởng chính trị của Nô lệ khởi nghĩa Đồng thời với cuộc khởi nghĩa đầu tiên của các nô lệ ở Sicile đã nổ ra cuộc khởi nghĩa lớn ở Tiểu Á (132 - 129 tr.CN) dưới sự lãnh đạo của Aristonic, trong đó có tầng lớp nghèo khổ tự do và nô lệ tham gia. Aristonic hứa hẹn thành lập "nhà nước mặt trời" (ông vay mượn tư tưởng này từ tác phẩm không tưởng cùng tên của Yambun), nơi có sự ngự trị của tự do, bình đẳng và bác ái. Nói chung, các cuộc đấu tranh của những người nô lệ đã chỉ rõ mong muốn không gì lay chuyển nổi của họ là xóa bỏ áp bức và nô dịch. Đồng thời, mặc dù những người nô lệ đã không thể tạo nên hệ tư tưởng chính trị hài hòa, nhưng những phong trào của họ đã có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển tư tưởng và học thuyết chính trị được hình thành trong xã hội chiếm hữu nô lệ. 3. Tư tưởng chính trị của nền dân chủ Chiếm hữu Nô lệ Trong thời gian các đội quân lê dương La Mã chiến đấu chống những người nô lệ ở Sicile thì ở chính La Mã cũng không bình yên. Một phong trào dân chủ mạnh mẽ của nông dân phá sản đã được triển khai dựa trên cơ sở cuộc đấu tranh của những người tự do sản xuất nhỏ - tiểu nông với đại điền chủ. Người nông dân bị phá sản bắt đầu cuộc đấu tranh đòi phân chia điền địa, gắn cuộc đấu tranh này với đòi hỏi dân chủ hóa Nhà nước La Mã. Tư tưởng của Tiberi phần nhiều trùng hợp với những tư tưởng chính trị của nền dân chủ chiếm hữu nô lệ Hi Lạp, đã được em trai ông là Gai Grakho phát triển trong cuộc đấu tranh với Viện nguyên lão và đã góp phần tạo lập khối liên minh rộng lớn giữa nhân dân nông thôn và thành thị với các hiệp sĩ. Năm 123 TR.CN, khi được bầu làm người đứng đầu tòa án, Gai Grakho đã đưa ra một số dự luật quan trọng trong đó đáng lưu ý là dự luật giảm 50% giá bánh mì, dự luật cho phép người nghèo được đi xem ở nhà hát, dự luật về quyền được trả tô thuế bằng tiền áp dụng cho dân Tiểu Á, dự luật chuyển giao quyền xét xử trong Viện nguyên lão cho tầng lớp các hiệp sĩ... Ý nghĩa quan trọng của các dự luật trên (dù chúng chưa được thực hiện triệt để) là đã thể hiện đầy đủ tư tưởng pháp luật công bằng, phi bạo lực và nó đã có ảnh hưởng 64 lớn tới quá trình hoàn thiện nhà nước theo khuynh hướng dân chủ nảy sinh trong cuộc đấu tranh gay gắt giữa các thế lực chính trị đối kháng ở La Mã. Đặc biệt, ý nghĩa chính trị của đạo luật bánh mì do Gai đưa ra là ở chỗ: Nhà nước có trách nhiệm giúp đỡ về vật chất cho thị dân. Người ta nói rằng, sau khi đạo luật được thông qua, Gai đã nói: "Bằng một cú đánh, tôi đã tiêu diệt Viện nguyên lão"1. Anh em Grakho đã bảo vệ cả tư tưởng mở rộng các quyền của những người tự do nghèo khó, dân chủ hóa quân đội... Phong trào của anh em Grakho đã bị thất bại vì việc duy trì chế độ tiểu điền chủ cố hữu như là một trong những cơ sở của chế độ cộng hòa là không thể được. Sau khi đàn áp xong phong trào này, giới quý tộc đã được tăng cường và cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng mạnh mẽ bởi vì với sự phát triển của đại điền chủ tư hữu, quyền chính trị của đa số công dân La Mã ngày càng bị cắt xén và mất dần. 4. Tư tưởng chính trị của Marc Tulli Cicero (106 -43tr.CN) Cicero vừa là nhà tư tưởng, vừa là nhà chính trị và nhà luật học. Các quan điểm chính trị của ông là sự trung hòa các quan điểm của Plato, Aristote và một số nhà tư tưởng khắc kỉ. Ông trực tiếp làm chính trị trong 25 năm, đã từng giữ các chức vụ như pháp quan, quản lí viên thị chính, quan án đô thị, Chấp chính viên tối cao, Tổng đốc Sicile. Giữa những năm 70 - 60 tr.CN, ông lập ra cái gọi là một đảng cộng hòa trung tâm. Ông tập hợp một liên minh gồm những tư nhân tài chính giàu có từ tầng lớp trung lưu, bộ phận ôn hòa của tầng lớp quý tộc và bộ phận ôn hòa của những người bình dân, chính liên minh này đã giúp ông vào được viện chấp chính năm 63. Sau khi xảy ra vụ ám sát Cesar, ông đứng đầu phe đối lập và bị ám sát ngày 12/12/43 tr.CN, đầu rời khỏi thân, tay bị chặt gửi về La Mã và bày ở mũi tàu. Nhận xét về Cicero, Graston Borrissier đã viết: "Cicero đôi khi do dự và quá mềm yếu thì cuối cùng bao giờ cũng là để bảo vệ điều mà ông coi như lợi ích của công lí và pháp quyền... Khi lợi ích đó luôn bị thất bại, ông đã làm tròn sự phục vụ cuối cùng cho lợi ích đó mà nó có thể đòi hỏi những người bảo vệ, ông đã làm vẻ vang nó bằng cái chết của ông”2. Tác phẩm Nước cộng hòa gồm 6 quyển: + Quyển 1: Về những hình thức khác nhau của chính phủ; + Quyển 2: Các thiết chế La Mã; + Quyển 3: Về bản chất con người và công lí trong tất cả các chính phủ; + Quyển 4: Về giáo dục và đời sống gia đình; + Quyển 5: Về các phong tục khắc khổ của thời cổ đại; 1 Xem: “L ch s các h c thuy t chính tr trên th gi i”, sđd, tr. 94. 2 L ch s các t t ng chính tr , S d, tr.142. 65 + Quyển 6: Về những quan hệ của tôn giáo và hạnh phúc của các xã hội. Sau khi nghiên cứu về nhà nước trong Nước cộng hòa, ông lại khảo cứu các luật thích hợp nhất với các nhà nước trong tác phẩm Luật pháp. Tác phẩm này gồm 3 quyền: + Quyển 1: Nghiên cứu nguồn gốc của pháp quyền; + Quyển 2: Các luật tôn giáo; + Quyển 3: Tổ chức chính quyền, đoàn pháp quan và các quy tắc chính trị thực hành. Hai tác phẩm này của Cicero là sự hỗn hợp từ Nền cộng hòa và Luật pháp của Plato, theo sự luận giải của Cicero thì đó là lí tưởng về chính phủ tốt nhất và công dân tốt nhất, được rút ra đồng thời trong mối quan hệ tất yếu của chúng. Vì thế, có người đã chỉ trích ông là ăn cắp văn của Plato, song lại có người nhận xét: "Nước cộng hòa của Cicero không phải là sự ăn cắp văn của Plato, cũng không phải sự biện hộ có dự tính trước cho ngôi hoàng đế mà là một bức vẽ rất tốt về lí tưởng con người nhà nước, do Cicero lấy ở tư duy Hi Lạp với kinh nghiệm cá nhân chín muồi của ông và do đó đã thích ứng với tư duy La Mã và với khuôn khổ chính trị của thành bang cộng hòa"1. Theo Cicero, điều bât hạnh nhất đối với người tốt là bị buộc phải tuân theo người xấu. Nhưng những người ác sẽ thắng lợi một cách tất yếu nếu những người tốt không tham dự vào các công việc chung và nước cộng hòa sẽ bị phân thành nhiều mảnh. Đối với những người tốt thì sẽ là không đủ nếu chỉ quan tâm đến mình mà bỏ qua các việc công cộng. Họ cần phải theo dõi bước đi của việc công hàng ngày và chấp nhận các quy tắc của nó. Chính trị học La Mã bao hàm một con đường đi lớn, nó làm cho người ta liên tiếp phải trải qua các chức pháp quan khác nhau để cuối cùng đi đến việc chấp chính. Theo ông, người công dân tốt nhất là người có văn hóa, có tài năng và quyền uy. Người đó có phẩm chất của người công dân mà Plato gọi là các nhà triết học chấp chính, còn Cicero gọi họ là con người có uy thế tinh thần. Quan niệm của Cicero về quyền lực là quan niệm của một quyền uy tốt bụng, theo ông nhà chính trị tác động tới những người bị cai trị với chức năng phụ trợ và tiết chế, điều hòa. Khi quyền uy thuộc về một vài người được lựa chọn thì người ta nói rằng thành bang được cai trị bởi nhóm ưu tú hay chế độ quý tộc. Cuối cùng, chính phủ nhân dân là chính phủ ở đó tất cả quyền lực thuộc về nhân dân"2. 1 L ch s các t t ng chính tr , S d, tr.143. 2 L ch s các t t ng chính tr , S d, tr.150. 66 Như vậy, Cicero khẳng định rằng: - Bản chất nhân loại, lí tính chính nghĩa công bằng phát ra những mệnh lệnh phải được tôn trọng bởi người nghe những mệnh lệnh ấy. - Những mệnh lệnh ấy của lí tính công bằng không thể bị thay đổi bởi pháp quyền thực chứng và các quyền lực công cộng phải bất lực ngay trong môi trường của chúng. - Những biểu hiện của lí tính công bằng đó phải có một tính chất vĩnh hằng và phổ biến. Người nào không biết đến ba nguyên tắc đó sẽ không biết đến bản chất con người trong bản thân mình. Nói chung, Cicero đã viện dẫn đến pháp luật tự nhiên để chống lại luật pháp thành văn của nhà nước lúc đó, đó là thứ pháp luật tồn tại trước những văn bản, trước pháp luật của pháp quan, trước những lời nghị án của các quan tòa. 5. Tư tưởng chính trị của Thiên chúa giáo Sự khủng hoảng của chế độ chiếm hữu nô lệ ngày càng tăng đã dẫn tới sự cùng cực của quần chúng lao động. Những người nông dân và thợ thủ công bị phá sản và biến thành "những người nghèo khổ tự do" không còn phương tiện sinh sống. Đặc biệt là tình cảnh khốn cùng của những người nô lệ bị chủ nô bóc lột tàn nhẫn. ở nhiều nơi của đế quốc La Mã đã bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của nô lệ và nhân dân bị áp bức, nhưng tất cả họ đều bị nhà nước chiếm hữu nô lệ đàn áp dã man. Sự bất lực của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh với bọn bóc lột đã dẫn tới sự gia tăng tâm lí tín ngưỡng, sự tìm kiếm "niềm an ủi tinh thần" trong tôn giáo. Sứ mệnh của quyền lực là làm cho công bằng ngự trị, chính trong mục đích đó mà uy lực đã được đem lại cho ông vua. Công bằng bản thân nó có trước quyền lực, không thay đổi, vĩnh hằng, tối thượng chung trong không gian và trong thời gian, nó áp đặt cho tất cả các ý thức. Theo Augustin, uy lực không phải là một điều xấu mà so với công bằng, nó không phải là cái thứ nhất mà là cái thứ hai. Quyền lực, bản thân nó có tất cả cái phải sợ nếu tách xa sự công bằng. Ông viết: "Các vương quốc không có công bằng là gì nếu không phải là những việc tham nhũng, cướp bóc". Vậy công bằng nằm ở đâu? Nó cốt ở chỗ làm bổn phận của mình với sự đúng đắn nhất, trả lại cho mỗi người cái mà mình mắc nợ. Nhiệm vụ thứ ba của người thủ lĩnh là phải cố vấn cho nhân dân mình. Họ phải đặt quyền uy của họ vào việc phục vụ nhân dân họ. Có thể thấy các quan điểm của kinh phúc âm thể hiện khá rõ trong lập luận của Augustin. Theo ông, chỉ huy là một mặt của lòng từ thiện; thần dân là những người anh em nên việc áp đặt ý chí đối với họ 67 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn