Xem mẫu

  1. Giảm lãi suất: “Chìa khóa” nằm ở kiềm chế lạm phát? Cập nhật 08:53:48 - 01/10/2010 Trong khi lãi suất ở các nước vẫn duy trì mức thấp nhằm phục hồi kinh tế thì ở Việt Nam, lãi su ất v ẫn cao. Có ý kiến cho rằng mặc dù tỷ giá không phải là nhân tố tác động trực tiếp lên cung cầu của VND, nhưng chúng là nhân tố liên quan nhiều đến lạm phát. Có trường hợp doanh nghiệp nhỏ phải tiếp cận lãi vay ở mức 17,7%/năm, thậm chí cho vay tiêu dùng lên t ới 19%/năm. Một số ý kiến trong giới phân tích cho rằng, muốn giảm lãi suất thì phải "canh chừng" chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Lãi vay tới 19%/năm! Một tuần nay, giám đốc một doanh nghiệp nhỏ ở Đầm Trấu (Hà Nội), chuyên hoạt đ ộng trong ngành quảng cáo tấm biển lớn, đã mất ăn mất ngủ vì lãi suất của món vay 2,7 tỷ đồng để thi công các tấm biển lớn cho khách hàng trên các trục đường Nội Bài và Pháp Vân - Cầu Giẽ. Ông cho biết, từ ngày 25/9/2009, doanh nghiệp này ký hợp đồng tín dụng với một ngân hàng có trụ sở trên phố Bà Triệu (Hà Nội), trị giá 2,7 tỷ đồng, thời hạn 3 năm, 3 tháng điều chỉnh lãi vay một l ần t ừ mức kh ởi đi ểm 10,5%/năm, gốc và lãi trả hàng tháng, phương thức giải ngân theo từng khế ước vay. Toàn bộ 2,7 tỷ đồng được chia thành 4 khế ước vay. Cụ thể, khế ước 1 vay ngày 25/9/2009 có giá trị 1,3 t ỷ đ ồng, khế ước 2 (28/9/2009) 800 triệu đồng, khế ước 3 (1/10/2009) 400 triệu đồng và khế ước 4 vay ngày 18/10/2009 giá trị 200 triệu đồng. Đến nay, doanh nghiệp này đã trả được 900 triệu đồng tiền gốc, lãi thanh toán sòng phẳng và cùng vào ngày 25 hàng tháng.
  2. Từ lúc nhận tiền vay đến nay, ngân hàng nói trên đã điều chỉnh các mức lãi suất tiền vay cụ thể nh ư sau: l ần th ứ nhất, ba khế ước đầu tiên bị điều chỉnh từ 10,5%/năm lên 12%/năm và một khế ước (thứ 4) bị đi ều ch ỉnh t ừ 10,5%/năm lên 15%/năm. Lý do khế ước thứ 4 bị điều chỉnh tăng 3%/năm so với 3 khế ước trên là do b ị áp m ức phí quản lý tài sản đảm bảo 3%/năm. Tuy nhiên, đến 25/6/2010, ba khế ước nói trên đang từ mức 12%/năm đã bị điều chỉnh lên 15,4%, còn khế ước thứ 4 vẫn giữ nguyên 15%/năm. Và cao trào đẩy lãi suất đạt đỉnh khi ngày 25/9/2010, ngân hàng nói trên đã điều chỉnh khế ước thứ 4 t ừ 15%/năm lên 17,7%/năm (3 khế ước trên vẫn 15,4%/năm) với “công thức riêng” của ngân hàng này: lãi suất tiền vay bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm 13 tháng lãi trả cuối kỳ (hiện ở mức 11,2%/năm), cộng với biên đ ộ đi ều ch ỉnh lãi su ất 6,5%/năm. Tất nhiên, người vay không hiểu 6,5%/năm kia ở đâu ra, nhưng vẫn phải trả. Chủ doanh nghiệp trên bức xúc: “Tôi rất ấm ức và muốn trả tống một lần phần nợ còn lại rồi cạch đến già, nhưng cũng không đ ược vì nếu tr ả tr ước hạn sẽ bị phạt nặng”. Mang thực tế này trao đổi với một quan chức ngân hàng, ông cho rằng, rất có thể do ngân hàng đ ịnh giá lãi su ất dựa trên mức độ rủi ro của doanh nghiệp và ông cho biết thêm, có trường hợp cho vay tiêu dùng còn lên t ới 19%/năm! Tuy nhiên, khi kiểm tra, đối chứng với quá trình quan hệ hợp đồng tín dụng trên thì th ời gian đ ầu m ức lãi suất ngân hàng đưa ra là chấp nhận được, nhưng những lần điều chỉnh lãi suất sau đó l ại không liên quan gì đến mức độ tín nhiệm hoặc rủi ro của món vay để áp lãi vay cao ngất như thế. Vậy, lãi suất cao là do đâu? Giữ CPI như giữ đê Có thể nói, lãi suất cao đang là câu chuyện gây nhiều bức xúc hiện nay. Mang băn khoăn “làm sao gi ảm lãi su ất” đến với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu, ông cũng cho rằng, hiện đó là một bài toán khó. Theo Thống đốc, Ngân hàng Nhà nước đã “làm tất cả những gì cần phải làm”, mà đầu tiên là tháo gỡ trở ngại t ại Thông tư 13, thông qua việc ban hành Thông tư 19. Trên thực tế, nhiều ngân hàng đã vui mừng khi Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 19. Nhờ đó, ngu ồn v ốn của các ngân hàng được tăng thêm. Có ngân hàng, con số này lên tới cả nghìn t ỷ đ ồng, vì khi vay mượn l ẫn nhau, họ không bị vướng rào “vay mượn trên thị trường 2 không được quá 20% so với thị trường 1”; đ ược s ử d ụng
  3. “25% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng)”; tiền vay của t ổ chức trong nước, ti ền vay tổ chức tín dụng khác có kỳ hạn 3 tháng trở lên (trừ tiền vay của tổ chức tín dụng khác trong nước để bù đắp thiếu hụt tạm thời đối với các tỷ lệ về khả năng chi trả theo quy định tại khoản 1, đi ều 14) và tiền vay c ủa t ổ chức tín dụng nước ngoài”; phần bảo lãnh thanh toán không bị tính vào tỷ lệ an toàn… Đ ặc biệt, ngân hàng cũng được tăng thêm quyền tự chủ trong sử dụng nguồn vốn tự có như vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ, lợi nhuận ch ưa chia… Tiếp theo, ngày 29/9, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 20/2010/TT-NHNN, áp tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp hơn trước đó đối với các tổ chức tín dụng có dư nợ lớn ở khu vực “tam nông”. Vì thế, những ngân hàng th ương mại có thị phần ở khu vực nông thôn được hỗ trợ một lượng vốn khá lớn từ phía Ngân hàng Nhà nước… Song, “mặc dù đó là những động thái cần thiết của Ngân hàng Nhà nước để giảm mặt bằng lãi su ất, nh ưng giá như CPI tháng 9/2010 không tăng vọt như thế”, chuyên gia tài chính Vũ Đình Ánh nhận xét. Theo ông Ánh, việc CPI tháng 9 tăng ở mức 1,31%, đưa CPI của 9 tháng đầu năm tăng 8,64% so với cùng kỳ đã tạo ra sự kỳ vọng không tốt về lạm phát, bởi dù ở đâu, ở thời điểm nào thì “lạm phát là bào thai của lãi suất”. Vì thế, vào lúc này, các bộ ngành cần đưa CPI tháng 9 ra “mổ xẻ”, để tìm ra các nguyên nhân nội tại cũng như sự tác động bên ngoài. Với sự đồng thuận của các tổ chức tín dụng, sự linh hoạt trong điều hành của Ngân hàng Nhà nước, thì việc kiểm soát tốt lạm phát sẽ là các yếu tố then chốt để đưa mặt bằng lãi suất giảm xuống. Ngoài ra, tổng giám đốc của một ngân hàng cổ phần phân tích thêm, có một yếu t ố khác cũng tác đ ộng m ạnh lên CPI, đó là tỷ giá hối đoái, nhất là khi trong hai ngày gần đây, giá USD tự do đã tăng lên mức 19.680 đồng/USD. Ông phân tích, mặc dù tỷ giá không phải là nhân tố tác động trực tiếp lên cung cầu của VND, nhưng chúng là nhân tố liên quan nhiều đến lạm phát. Bởi, nếu giữ được kỳ vọng ổn định tỷ giá, sẽ khơi thông một l ượng ngo ại t ệ được sử dụng (vay thay vì mua) với mức lãi suất thấp hơn VND, t ừ đó gián tiếp t ạo ra s ự “pha loãng” c ầu ti ền đồng, nhờ đó mà lãi suất có thể giảm theo. Thứ hai, trong bối cảnh các đồng tiền châu Á đang tăng giá so với USD thì VND lại giảm giá so với USD. Nghịch lý này tạo ra sự tác động luân chuyển và làm cho CPI tăng, ở chỗ: các đồng tiền châu Á cũng tăng giá mạnh so với VND, nếu Việt Nam nhập khẩu nhiều trong khu vực thì yếu tố này sẽ truyền dẫn vào giá hàng hóa. Do đó, theo vị tổng giám đốc này, việc giữ tỷ giá ổn định từ nay đến cuối năm là việc làm cần thiết, nếu muốn góp phần ổn định CPI, và qua đó, có thể gián tiếp tạo ra kỳ vọng giảm lãi suất trên thị trường. Thực hiện: / Nguồn: VnEconomy
nguon tai.lieu . vn