Xem mẫu
- TRƯỜNG CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH TỈNH THÁI NGUYÊN
NguyÔn Thu Hương
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
TINH GIẢN BIÊN CHẾ TRONG CÁC
CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Lớp bồ dưỡng chương trình chuyên viên
THÁI NGUYÊN – 2009
- Đặt vấn đề
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam
đề xướng và lãnh đạo qua mười lăm năm đã đạt được những thành tựu hết
sức to lớn. Trong thành tựu đó, phải kể đến sự đóng góp quan trọng của
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đây là một lực lượng thường trực
trong bộ máy Nhà nước, trực tiếp tiến hành các hoạt động quản lý mọi
mặt của đời sống xã hội.
Hiện nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn liền với nó là việc tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang
đặt ra yêu cầu cấp bách phải tăng cường chất lượng của đội ngũ cán bộ
công chức nhà nước.
Đảng và Nhà nước nhận thức rõ rằng cán bộ, công chức Nhà nước
là yếu tố có tính quyết định đối với sự vận hành và hiệu lực, hiệu quả
quản lý của bộ máy Nhà nước; đồng thời cũng chỉ rõ: “đội ngũ cán bộ
công chức nhìn chung chưa ngang tầm nhiệm vụ, một số bộ phận không
nhỏ thoái hoá biến chất” chưa đáp ứng được các yêu cầu của quản lý Nhà
nước thời kỳ mới.
Để có được đội ngũ công chức trong sạch, vững mạnh, khâu then
chốt là việc đổi mới và hoàn thiện chế độ công chức phù hợp với sự
chuyển đổi cơ chế quản lý, trong đó có vấn đề tinh giản biên chế. Theo
hướng này Chính phủ đã ban hành một số văn bản quan trọng như Nghị
định số 169 - HĐBT ngày 25/5/1991 về công chức Nhà nước, ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức số 01/1998/PL-
UBTVQH10 ngày 26/2/1998 và các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp
lệnh như Nghị định số 95/1998/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
công chức; Nghị định số 96/1998/NĐ-CP về chế độ thôi việc đối với cán
bộ, công chức,... Trong nhiều năm qua, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần
thứ VI, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung sự lãnh đạo và chỉ đạo việc đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, xóa bỏ cơ chế tập trung
2
- quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế quản lý trong lĩnh vực dân
số, lao động và bảo trợ xã hội cũng được chuyển dần sang phương hướng
đó, nhằm quản lý và điều tiết vĩ mô toàn bộ hoạt động về phát triển dân
số, lao động, việc làm, tiền lương và bảo trợ xã hội.
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây còn để lại
nhiều di chứng nặng nề, qua những biểu hiện cơ bản sau:
- Sự quản lý tập trung cao độ của Nhà nước trong lĩnh vực này thông
qua hệ thống kế hoạch hóa xơ cứng mang tính mệnh lệnh hành chính bằng
những chỉ tiêu pháp lệnh như: phân phối và sử dụng nguồn lao động, số
lượng người làm việc, quỹ lương,...
- Nhà nước bảo đảm việc làm cho người lao động, thu hút việc làm
vào các khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ "biên chế Nhà
nước" tràn lan, không khuyến khích tự do tìm việc làm.
- Bao cấp tràn lan từ ngân sách Nhà nước cho chi tiêu tiền lương,
bảo hiểm xã hội, không tính đến hiệu quả lao động và hiệu quả kinh
doanh.
- Từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đẻ ra bộ máy quản
lý cồng kềnh, nhiều tầng nấc, đội ngũ cán bộ, công chức đông đảo nhưng
hiệu quả công việc không cao, các cơ quan quản lý Nhà nước làm cả chức
năng quản lý vi mô của các tổ chức và đơn vị cơ sở (quỹ tiền lương, số
lượng người làm việc, năng suất lao động v.v...)
Để khắc phục hậu quả của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp, nhất là của cơ chế tuyển dụng lao động trước đây, Nhà nước ta đã có
nhiều chính sách giải quyết kịp thời, vừa đảm bảo quyền lợi cho người
lao động, vừa tạo điều kiện để giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu
quả hoạt động của các cơ sở kinh tế và của các cơ quan Nhà nước. Nội
dung chủ trương, chính sách đó được thể hiện qua các văn bản pháp quy
của Nhà nước: quyết định 176/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ
trưởng về sắp xếp lại lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh, Quyết
định 111/HĐBT ngày 12/4/1991 v/v sắp xếp tổ chức biên chế hành chính,
3
- sự nghiệp. Vấn đề biên chế và tinh giản biên chế trong bộ máy hành chính
là vấn đề khó khăn, phức tạp và cấp bách đặt ra cho tất cả các ngành, các
cấp.
Mục tiêu của tinh giản biên chế về lâu dài là: Đưa người không đủ
tiêu chuẩn ra khỏi biên chế cơ quan.
Trơớc mắt: đưa được A% (x người) ra khỏi biên chế.
Trong chuyên đề tiểu luận này, chúng tôi xin được nêu vấn đề biên
chế, nhận thức và các giải pháp tinh giản biên chế trong các cơ quan hành
chính hiện nay nhằm giải quyết tốt bài toán tình huống: Vấn đề biên chế
và tinh giản biên chế trong bộ máy hành chính
I. Thực trạng tình hình tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công
chức
Ở nước ta, trong thời kỳ chiến tranh, chúng ta đã sử dụng cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và quan hệ hành chính mệnh lệnh để
điều hành các hoạt động kinh tế-xã hội. Sau khi đất nước thống nhất bước
vào thời bình, trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới, việc tiếp tục duy
trì cơ chế đó đã bộc lộ hạn chế và tác động tiêu cực đến sự phát triển của
nền kinh tế và các mặt khác của đời sống xã hội.
Cơ chế cũ đã tạo ra một bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng nấc
hoạt động kém hiệu lực. Có thể nói, chỉ khi chúng ta thực hiện một bước
chuyển có ý nghĩa cách mạng từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang
cơ chế thị trường thì mới thấy rõ lực lượng cán bộ, công chức nước ta bộc
lộ nhiều mặt yếu kém cả về số lượng và phẩm chất, năng lực.
Và do điều kiện lịch sử để lại, đội ngũ cán bộ, công chức trong các
cơ quan hành chính Nhà nước nước ta khá đông đảo phần lớn được đào
tạo khá cơ bản, song quá trình quen thuộc với cơ chế cũ nên khi chuyển
sang cơ chế thị trường, họ tỏ ra có nhiều bỡ ngỡ. Chúng ta thiếu những
cán bộ có kiến thức về hành chính và tri thức quản lý hành chính hiện đại,
thiếu chuyên gia, thiếu cố vấn hàng đầu, do đó sự vận hành của nền hành
chính công ở nước ta còn nhiều lúng túng, vấp váp, hiệu quả thấp.
4
- Mặt khác, có một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức trong bộ
máy quản lý Nhà nước quan liêu cửa quyền, tham nhũng, trình độ năng lực
hạn chế, và thiếu tính năng động trong hoạt động công vụ. Tình hình đó,
đã ảnh hưởng xấu đến quá trình đổi mới kinh tế, đến sự phát triển của xã
hội. Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tiến hành tinh giản biên chế
trong bộ máy hành chính. Đây cũng là một trong những yêu cầu cấp thiết
của việc cải cách một bước nền hành chính Nhà nước.
Tinh giản biên chế là sàng lọc ra khỏi bộ máy những biên chế không
cần thiết, làm cho đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng hơn, tinh thông
nghiệp vụ hơn. Tinh giản là ra soát lại vị trí của từng cán bộ, công chức
trong bộ máy hành chính, xem vị trí, chức năng, nhiệm vụ của họ có cần
thiết phải bố trí trong dây chuyền lao động thực thi công vụ, nhiệm vụ của
bộ máy hay không. Giả sử cắt bỏ vị trí đó đi mà bộ máy vẫn hoạt động
bình thường thì nên cắt bỏ. Tinh giản biên chế thực chất là giải pháp quan
trọng khắc phục tình trạng đông nhưng không mạnh hiện nay trong đội
ngũ cán bộ, công chức. Mục tiêu của tinh giản biên chế không đơn giản là
để giảm chi phí hành chính, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước,
mà mục tiêu chính của nó là làm cho chất lượng của đội ngũ cán bộ, công
chức được đảm bảo và ngày một nâng cao. Việc tinh giản biên chế không
ảnh hưởng gì đến việc tuyển dụng mới, nếu có nhu cầu tuyển dụng mới
vẫn phải tuyển dụng bình thường. Có điều tuyển dụng mới vào biên chế
Nhà nước phải có yêu cầu cao hơn, chất lượng hơn.
Những năm qua, biên chế không giảm mà... tăng liên tục(!). Chỉ tính
riêng khối Nhà nước, Đảng, Đoàn thể năm 1993 mới có khoảng 200.000
người, đến năm 2000 đã tăng lên hơn 300.000 người. Khối hành chính sự
nghiệp có 1,2 triệu biên chế, trong đó ngành y tế, giáo dục không giảm mà
tiếp tục tăng với tốc độ 70.000 người/năm. Hiện cả nước có khoảng 7
triệu người (khoảng 1/10 dân số) sống dựa vào ngân sách Nhà nước.
Chúng ta có thể khẳng định: Nếu không thực hiện thành công việc tinh
giản biên chế thì bài toán cải cách hành chính vẫn tiếp tục bị "treo" đáp số.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 khóa VIII đã đề ra nhiệm vụ
về "tích cực chỉ đạo việc giảm biên chế hành chính các cơ quan Đảng, Nhà
5
- nước, đoàn thể, biên chế gián tiếp trong các đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp Nhà nước với mức phấn đấu khoảng 15% và giảm không theo tỷ
lệ bình quân". Tìm lời giải cho tình huống này là một vấn đề không đơn
giản.
Một số vấn đề mang tính nhạy cảm khi thực hiện tinh giảm biên
chế trong tổ chức nói chung và trong các cơ quan nhà nước nói riêng. Mỗi
một người có thể nhận thức khác nhau về vấn đề này. Lý do có nhiều, có
thể thấy một số lý do chủ yếu sau đây:
- Mô hình chức nghiệp cản trở tinh giảm biên chế
- Chế độ bao cấp
- Khác
Vậy làm cách nào để có thể giảm được số lượng cán bộ, công chức
trên, giảm không theo tỷ lệ bình quân, giảm đúng đối tượng, bảo đảm
nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, ổn định chuyên môn
hóa cao, khắc phục vấn đề tư tưởng,... Đây thật sự là vấn đề lớn của đất
nước, một vấn đề vô cùng khó khăn và phức tạp. Để giải quyết tốt tình
huống này, theo chúng tôi việc đầu tiên cần phải làm là:
Phân tích công việc của các thành viên của tổ chức - mỗi người mô
tả công việc.
Mỗi một đơn vị, cá nhân phải triển khai phân tích công việc.
Mô tả công việc của từng ngơời thông qua cá nhân, tập thể nhận
xét.
Đòi hỏi sự ủng hộ của tất cả.
Ai làm?
Khi nào sẽ làm và bao nhiêu lâu?
Nguồn kinh phí, nguồn nhân lực?
Những khó khăn khi thực hiện công việc này?
6
- Trả lời được những câu hỏi đặt ra trên đây, bước đầu chúng ta đã
giải được bài toán về tinh giản biên chế trong các cơ quan, tổ chức.
Gần đây, năm 2008 Luật cán bộ công chức được triển khai trên thực
tế cũng góp phần tích cực vào giải quyết tình huống biên chế cán bộ trong
các cơ quan tổ chức vừa thừa vừa thiếu hiện nay: thiếu những người đủ
tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu công việc, thừa những người không đủ trình
độ, năng lực.
Theo Luật cán bộ công chức 2008 có thể thấy về phân công quản lý
cán bộ, công chức; thẩm quyền quyết định biên chế cán bộ, công chức đã
có một bước tiến quan trọng
Trong hệ thống chính trị ở nước ta, công tác cán bộ, công chức có sự
đan xen, kiêm nhiệm chức vụ lãnh đạo trong Đảng, Nhà nước, tổ chức
chính trị xã hội. Đội ngũ cán bộ, công chức được đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện của Đảng. Việc quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, bố trí sử
dụng, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức được thực hiện theo quy định của
điều lệ, các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Thực tế hiện nay, việc quyết định biên chế đang được giao cho
nhiều tổ chức, cơ quan thực hiện. Công tác quản lý cán bộ, công chức có
nhiều nội dung như xác định biên chế, vị trí công tác, tuyển dụng, bổ
nhiệm, luân chuyển… do đó cần phải quy định cho phù hợp với thực tiễn,
đồng thời góp phần khắc phục từng bước những bất cập do nhiều đầu
mối quản lý. Bởi vậy, Luật đã dành một chương (Chương VI: Quản lý cán
bộ, công chức) để xử lý vấn đề này.
Trước đây, Pháp lệnh quy định vừa cô đọng vừa chưa rành mạch;
trong nội dung quản lý cán bộ, công chức lại có cả đào tạo, bồi dưỡng, tổ
chức thực hiện tiền lương và các chế độ, chính sách…, nay các nội dung
đó được đưa về chương “Nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức”. Còn
nội dung quản lý cán bộ, công chức chỉ bao gồm những vấn đề chính là:
- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán
bộ, công chức;
- Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức;
7
- - Quy định chức danh và cơ cấu cán bộ;
- Quy định ngạch, chức danh mã số công chức; mô tả, quy định vị trí
việc làm và cơ cấu công chức để xác định số lượng biên chế…
Về thẩm quyền quyết định biên chế cán bộ, công chức, Luật vừa kế
thừa Pháp lệnh, vừa đổi mới, phân công, phân cấp cho hợp lý hơn, cụ thể
là:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định biên chế công chức của
Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, Toà án nhân dân các cấp, Viện
kiểm sát nhân dân các cấp.
- Chủ tịch nước quyết định biên chế công chức của Văn phòng Chủ
tịch nước.
- Chính phủ quyết định biên chế công chức của bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cấp tỉnh, đơn vị sự nghiệp công lập của Nhà
nước.
- Căn cứ vào quyết định chỉ tiêu biên chế được Chính phủ giao, Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định biên chế công chức trong cơ quan của
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập của Ủy
ban nhân dân các cấp.
- Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định
biên chế công chức trong cơ quan và đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội.
Trong việc thực hiện quản lý cán bộ, công chức, Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về công chức. Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc
quản lý nhà nước về công chức theo phân công, phân cấp của Chính phủ.
Ủy ban nhân dân cấp huyện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
thực hiện việc quản lý nhà nước về công chức theo phân cấp của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh. Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam,
tổ chức chính trị - xã hội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình
thực hiện việc quản lý công chức theo phân cấp của cơ quan có thẩm
quyền và theo quy định của Chính phủ.
8
- II. Nguyên nhân của vấn đề tăng biên chế
Để đưa ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết vấn đề
trên, cần phải chỉ ra được nguyên nhân của sự tăng biên chế trong thời
gian qua. Có rất nhiều nguyên nhân làm tăng biên chế trong bộ máy hành
chính, có thể kể ra một số nguyên nhân khách quan bao gồm:
- Tăng biên chế theo tốc độ tăng tự nhiên của dân số, rõ nét nhất là
trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, và các hoạt động sự nghiệp khác. Do điều
kiện kinh tế - xã hội ngày càng phát triển dẫn đến sự tăng nhanh các nhu
cầu học tập, chữa bệnh và các nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, lẽ đương nhiên dẫn đến việc tăng lực lượng cán bộ, công
chức giải quyết các nhu cầu đó.
- Việc chia tách các đơn vị hành chính các cấp làm tăng nhanh các
đơn vị hành chính, cũng đồng nghĩa với việc làm tăng nhanh bộ máy và các
đầu mối trực thuộc của bộ máy hành chính. Thí dụ: năm 1976, toàn quốc
có 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 287 huyện, quận, thành phố,
thị xã, 5768 xã, phường, thị trấn. Đến tháng 12/1999, toàn quốc có 61 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, 615 cấp huyện, 10.457 xã, phường, thị
trấn. Đến tháng 6/2001, cả nước ta có 622 huyện, quận; 10511 xã, phường,
thị trấn.
- Nhiều nhiệm vụ phát sinh trong quy trình chuyển đổi nền kinh tế -
xã hội đòi hỏi phải có bộ máy và cán bộ công chức phục vụ cho sự phát
sinh đó và làm tăng thêm nhiều tổ chức và cơ quan mới. Thí dụ như các cơ
quan phòng chống AIDS, phòng chống tệ nạn xã hội, cơ quan thực hiện
chương trình xóa đói giảm nghèo, Tòa án hành chính, Tòa án lao động, Thi
hành án, chống buôn lậu, Kiểm toán Nhà nước, ủy ban chứng khoán Nhà
nước.
Ngoài ba nguyên nhân khách quan kể trên, còn có những nguyên nhân
chủ quan sau đây dẫn đến việc tăng nhanh biên chế. Đó là:
- Bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, nhiều tầng nấc
trung gian, chức năng, nhiệm vụ chồng chéo. Thời gian gần đây, có sự sắp
9
- xếp, sáp nhập được một số bộ, ngành nhưng đầu mối và đơn vị tổ chức
trong các bộ, ngành và cơ quan giúp việc UBND lại có chiều hướng tăng
lên.
- Việc tiêu chuẩn hóa và chế độ tuyển chọn cán bộ, công chức chưa
được tiến hành chặt chẽ, đều khắp, chưa đảm bảo chất lượng hay trình
độ năng lực; đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhìn
chung vừa thừa vừa thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Số cán
bộ, công chức làm việc có chất lượng cao không nhiều, số cán bộ, công
chức làm công tác phục vụ khá đông ở các cơ quan hành chính sự nghiệp
(chiếm gần 20% tổng biên chế hành chính sự nghiệp). Tình trạng này
chậm được khắc phục. Tuy đã xây dựng được hệ thống các tiêu chuẩn
chức danh nhưng trên thực tế tuyển chọn và bố trí sử dụng không theo các
tiêu chuẩn đó. Bên cạnh đó, không ít các tiêu chuẩn, chức danh đề ra còn
duy ý chí, không sát với thực tế. Về chế độ tuyển dụng, đã bắt đầu áp
dụng hình thức thi tuyển nhưng mới thể hiện các quy phạm có tính hướng
dẫn. Việc thực hiện triển khai chúng ở các ngành, các địa phương cho thấy
còn bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, chưa bảo đảm đầy đủ tính công khai,
dân chủ lựa chọn đúng người có đủ phẩm chất năng lực.
- Cơ chế giao và quản lý biên chế còn mang nặng dấu ấn của thời
bao cấp, cào bằng, bình quân chủ nghĩa. Hạn mức kinh phí cho hoạt động
hành chính của các cơ quan cấp theo số lượng biên chế, không tính đến vị
trí, tầm quan trọng, khối lượng công việc của cơ quan và các yếu tố khác.
Điều này tạo ra khuynh hướng các cơ quan đều muốn tăng chỉ tiêu biên
chế để được cấp thêm kinh phí hoạt động.
- Tổ chức quản lý biên chế quá phân tán, có nhiều cơ quan quyết
định và quản lý biên chế như ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định biên
chế cán bộ, công chức thuộc Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân
dân, số lượng thẩm phán các tòa án, biên chế công chức Văn phòng Quốc
hội, Văn phòng Chủ tịch nước; Chính phủ quyết định biên chế và quản lý
cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp Nhà
nước; biên chế cán bộ làm việc trong các tổ chức chính trị-xã hội do tổ
chức có thẩm quyền quyết định.
10
- - Biên chế tăng còn do nguyên nhân chúng ta không rà soát chặt chẽ
khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức bộ máy. Trong
thực tế, mỗi lần sửa đổi, bổ sung hay ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật mới đều hình thành thêm các tổ chức mới và từ đây dẫn đến việc
tăng biên chế không nhỏ.
- Biên chế tăng còn do tuyển chọn ở đầu vào không chặt chẽ, giải
quyết đầu ra không kiên quyết, nhiều cán bộ, công chức đến tuổi nghỉ hưu
không nghỉ. Việc sàng lọc, tinh giản biên chế không được thực hiện
thường xuyên.
- Một nguyên nhân nữa là tổ chức khoa học lao động của cán bộ,
công chức trong các cơ quan hành chính sự nghiệp chưa được hoàn thiện.
Sự phân công và hợp tác lao động của cán bộ, công chức trong bộ máy
chưa tốt. Bởi lẽ, tổ chức bộ máy hành chính thực chất là được tổ chức dựa
trên cơ sở phân công lao động của cán bộ, công chức giữa các cơ quan
trong hệ thống hành chính, mà tổ chức lao động hành chính hiện nay ở
nước ta hoàn toàn chưa khoa học.
Thực tế cho thấy, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền cũng như mối
liên hệ giữa các cơ quan còn chồng chéo, trùng lắp, không rõ ràng.
Cũng do sự phân công hợp tác lao động quản lý trong bộ máy quản
lý hành chính chưa chặt chẽ nên ngoài hệ thống các cơ quan bộ, ngành, cơ
quan thuộc Chính phủ rất đồ sộ, còn hơn 100 các cơ quan, tổ chức liên
ngành khác nữa.
Tuy nhiên, loại hình các cơ quan, tổ chức liên ngành này được lập ra
như vậy lại không hề phản ánh sự hợp tác lao động cao trong bộ máy hành
chính Nhà nước. Sự phân công hợp tác lao động ngay trong nội bộ các bộ,
ngành cũng không hợp lý, vẫn còn nhiều việc chồng chéo nhau, nhiều đơn
vị cùng làm, nhiều người cùng phụ trách.
Có thể nói rằng toàn bộ nội dung của tổ chức khoa học lao động của
cán bộ, công chức từ khâu phân công hợp tác lao động, lựa chọn, bố trí cán
bộ, tổ chức quy trình lao động, bảo đảm trang thiết bị kỹ thuật và điều
kiện làm việc, định mức và tiêu chuẩn hóa lao động cho đến các giải pháp
11
- kích thích lao động chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cải cách hành
chính.
Đây cũng là nguyên nhân không kém phần quan trọng làm tăng biên
chế hành chính Nhà nước bởi lẽ cải cách, hoàn thiện bộ máy hành chính
xét cho cùng là cải cách phân công tổ chức lại lao động quản lý một cách
hợp lý, khoa học.
Thực tế cho thấy, nếu sáp nhập các bộ thành bộ mới mà không phân
công lại lao động của cán bộ, công chức trong bộ mới đó thì mới ở mức độ
"góp gạo thổi cơm chung", khó lòng nói đến tinh giản biên chế cũng như
thay đổi về chất sự hoạt động của mô hình tổ chức mới.
Chúng tôi cho rằng, các nguyên nhân trên, đặc biệt là các nguyên
nhân chủ quan là cội nguồn dẫn đến việc tăng nhanh biên chế cần phải
triệt để khắc phục, nhằm giải quyết vấn đề biên chế đông đúc, vừa thừa
lại vừa thiếu như hiện nay.
III. Các giải pháp tinh giản biên chế trong các cơ quan hành
chính hiện nay
Xác định chính sách cần thiết để đưa người sai lệch tiêu chuẩn ra
khỏi danh sách.
Tất cả những ai không phù hợp đều thuộc diện đưa ra khỏi biên
chế?
Tất cả những ai thiếu những tiêu chuẩn không thuộc về chuyên
môn đơợc chiếu cố?
Phần chính sách này sẽ được nghiên cứu qua hội thảo, hội nghị cơ
quan,...
1. Giải pháp đầu tiên nhằm tinh giản biên chế hiện nay, cần phải
tiến hành theo chúng tôi là:
- Tiến hành rà soát, xác định rõ chức năng, thẩm quyền của từng cơ
quan, tổ chức.
- Khắc phục tình trạng hiện nay, cả quyền và trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức đều không rõ ràng.
12
- - Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền để xác
định cơ cấu tổ chức và biên chế.
Có thể khẳng định rằng, thực hiện việc sắp xếp lại bộ máy trong
các bộ, cơ quan ngang bộ là giải pháp quan trọng hàng đầu để tinh giản
biên chế. Rà soát, sắp xếp lại tổ chức sẽ dẫn đến việc giải thể một số cơ
quan, tổ chức. Còn việc giải thể cơ quan, tổ chức nào thì cần phải xem xét
cơ quan, tổ chức đó có cần thiết tồn tại trong bộ máy hành chính Nhà nước
hay không. Giả sử quan niệm hệ thống các cơ quan hành pháp là một bộ
máy trong đó mỗi cơ quan, tổ chức là một bộ phận cấu thành, nếu loại bỏ
bộ phận đó mà bộ máy vẫn hoạt động bình thường thì nên loại bỏ, giải
thể.
2. Xác định biên chế của từng cơ quan trên cơ sở vị trí, tầm quan
trọng, khối lượng và độ phức tạp của công việc, cơ cấu, tiêu chuẩn chức
danh, định mức lao động của các cán bộ, công chức. Đây là những cơ sở
quan trọng để xác định biên chế. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này cần
xây dựng một phương án phân loại thống nhất về:
- Tầm quan trọng, độ phức tạp và khối lượng công việc quản lý
hành chính Nhà nước.
- Phân loại cơ quan, tổ chức, đơn vị hành chính.
-Xác định cơ cấu cán bộ, công chức.
- Hoàn thiện, chuẩn hóa tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức.
- Xây dựng định mức lao động của cán bộ, công chức.
Đây là giải pháp không kém phần quan trọng cần phải đầu tư nghiên
cứu một cách cơ bản nhằm khắc phục tình trạng cào bằng, bình quân chủ
nghĩa trong phân bổ biên chế.
3. Thực hiện nghiêm túc việc thi tuyển chọn cán bộ, công chức ở
đầu vào; bố trí sử dụng cán bộ, công chức theo đúng tiêu chuẩn, chức
danh, thường xuyên sàng lọc đánh giá tinh giản đội ngũ cán bộ, công chức
và thực hiện nghiêm chỉnh chế độ nghỉ hưu đúng tuổi.
13
- Cơ sở pháp lý cho việc giải quyết vấn đề này là Thông tư số
32/TCCP - BCII ngày 20/1/1996 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và
Nghị định số 95/1998/NĐ-CP, ngày 17/11/98 của Chính phủ về tuyển
dụng, sử dụng và quản lý công chức. Và gần đây nhất là Luật Cán bộ,
công chức năm 2008 đã quy định: Quản lý biên chế, tổ chức tuyển dụng và
nâng ngạch công chức được thay đổi theo hướng dựa trên tiêu chuẩn chức
danh, vị trí việc làm, mô tả công việc và xây dựng cơ cấu công chức. Điều
kiện đăng ký dự tuyển công chức đã được thể hiện ngay trong Luật mà
không giao cho Chính phủ hoặc các cơ quan khác quy định
Trong giải pháp này, chúng tôi muốn nhấn mạnh vấn đề quan trọng
của việc tuyển chọn cán bộ, công chức là việc tổ chức thi tuyển. Để đảm
bảo cho việc thi tuyển công chức được thực hiện một cách nghiêm túc,
cần phải ban hành một quy chế thi tuyển có giá trị áp dụng thống nhất toàn
quốc, trong đó, bộ máy thi tuyển bao gồm những người có đủ trình độ
đánh giá kết quả thi một cách khách quan, công bằng; các quy định về thi
tuyển phải được xác lập theo phương pháp dân chủ, công khai, bình đẳng,
chọn đúng người giỏi, bảo đảm tuyển chọn đúng người có đủ tiêu chuẩn
theo từng chức danh.
4. Từng cơ quan, tổ chức trên cơ sở xác định rõ chức năng, thẩm
quyền, tổ chức, bộ máy, biên chế đề ra định mức giảm biên chế của cơ
quan, tổ chức mình. Giảm biên chế tập trung vào các đối tượng cán bộ,
công chức yếu kém về phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ chuyên môn,
nợ nhiều về tiêu chuẩn chức danh, ngạch, bậc, không còn khả năng đào
tạo, bồi dưỡng để đảm bảo đủ các tiêu chuẩn Nhà nước quy định, những
cán bộ, công chức không đủ sức khỏe và các điều kiện khác.
5. Đẩy mạnh nghiên cứu triển khai thực hiện khoán biên chế và chi
phí hành chính. Trên cơ sở vị trí, tầm quan trọng, khối lượng và độ phức
tạp của công việc, cơ cấu, tiêu chuẩn chức danh, định mức lao động của
các cán bộ, công chức để thực hiện cơ chế khoán cho khoa học và hợp lý.
6. Thực hiện xã hội hóa một số dịch vụ công, cơ chế tài chính mới
cho các đơn vị sự nghiệp có thu, chế độ hợp đồng lao động dịch vụ thay
cho việc phân bổ biên chế thường xuyên.
14
- 7. Xây dựng, ban hành các chế độ, chính sách cho việc sắp xếp, kiện
toàn tổ chức, tinh giản biên chế như:
- Chế độ về hưu sớm, chế độ cho thôi việc.
- Chế độ luân chuyển, điều động, bổ nhiệm.
- Chế độ bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, công chức...
8. Hoàn thiện tổ chức khoa học lao động của cán bộ, công chức
trong các cơ quan hành chính Nhà nước như:
- Thực hiện việc phân công và hợp tác lao động rõ ràng, chặt chẽ.
- Bố trí, sử dụng cán bộ, công chức đúng người, đúng việc, đúng tiêu
chuẩn chức danh.
- Tiêu chuẩn và định mức hóa lao động của từng loại cán bộ, công
chức.
- Kích thích, động viên lao động.
- Tổ chức tốt quy trình lao động của cán bộ, công chức.
- Xây dựng chức trách, nhiệm vụ cá nhân, quy trình, quy chế công tác
của cán bộ, công chức.
- Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và hiện đại hóa hoạt động công
vụ.
Kết luận
Mục tiêu của cải cách hành chính là “xây dựng một nền hành chính
trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại
hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy
xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân
dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội...’’ (Văn
kiện Hội nghị lần thứ Tám của Ban chấp hành Trung ương khoá VII. Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia. H., 1998, tr.29). Trong đó, việc xây dựng đội
ngũ cán bộ công chức hành chính, đặc biệt là vấn đề biên chế và tinh giản
15
- biên chế là khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình
cải cách nền hành chính.
Sắp xếp, hoàn thiện bộ máy và tinh giản biên chế là vấn đề khó
khăn, phức tạp và nhạy cảm liên quan đến quyền lợi của nhiều tổ chức và
con người. Muốn thực hiện được tốt vấn đề này, cần có quyết tâm và
trách nhiệm của toàn thể cán bộ, công chức, của các cấp, các ngành. Giải
quyết vấn đề này cần phải khách quan, công tâm, đồng thời phải dựa trên
những cơ sở khoa học mới đạt được kết quả mong muốn.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh - vấn đề cán bộ, NXB Sự thật, Hà nội, 1974.
2. PTS. Thang văn Phúc – Thực hiện chế độ công vụ, công chức mới
một nhiệm vụ cấp bách của cải cách một bước nền hành chính Nhà
nước, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 1 tháng 9 năm 1995.
3. Tô Tử Hạ - Một số vấn đề về công chức, công vụ trong điều
kiện hiện nay, Thông tin khoa học pháp lý, Viện nghiên cứu khoa
học Bộ Tư pháp.
4. Pháp lệnh cán bộ, công chức số 01/1998/PL-UBTVQH10, ngày
26/2/1998. (sửa đổi, bổ sung năm 2000 và 2003)
5. 20. Nghị định số 95/1998-NĐ-CP, ngày 17/11/1998 của Chính Phủ
về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.
16
- 6. 21. Nghị định số 96/1998-NĐ-CP, ngày 17/11/1998 của Chính Phủ
về chế độ thôi việc đối với cán bộ, công chức.
7. Nghị định số 97/1998-NĐ-CP, ngày 17/11/1998 của Chính Phủ về
xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức.
8. Quyết định số 874/TTg, ngày 20.11.96 của Thủ tướng Chính phủ
về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công chức Nhà nước.
9. Thông tư liên tịch số 79/TTLT, ngày 19.9.97 giữa Ban tổ chức –
cán bộ Chính Phủ, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ
Giáo dục và đào tạo hướng dẫn thực hiện quyết định 874/TTg
của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
và công chức Nhà nước.
10. Luật cán bộ, công chức 2008
17
nguon tai.lieu . vn