Xem mẫu
- GIẢI MẬT TÀI LIỆU KHO LƯU TRỮ TRUNG ƯƠNG
NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHỤC VỤ KHAI THÁC,
SỬ DỤNG TÀI LIỆU LƯU TRỮ CỦA ĐẢNG
Nguyễn Văn Lanh, Cục trưởng
Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương
Đảng
1. Sự cần thiết phải giải mật tài liệu
Quá trình hoạt động của Đảng từ khi ra đời đến nay đã đã hình thành
khối lượng lớn tài liệu lưu trữ, trong đó có nhiều tài liệu có nội dung mật
với các cấp độ khác nhau. Tài liệu lưu trữ của Đảng nói chung và tài liệu
lưu trữ mật của Đảng nói riêng chứa đựng những thông tin vô cùng quý giá
về lịch sử Đảng, về quan điểm, đường lối, chủ trương và sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, kinh tế… Thực tiễn đã chứng
minh, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của mình, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chú trọng và thường xuyên khai thác, sử dụng thông tin tài liệu lưu
trữ.
Tuy nhiên, việc sử dụng tài liệu lưu trữ trong thời gian qua còn có
mặt hạn chế, nhiều thông tin có giá trị, nhất là những thông tin trong tài
liệu lưu trữ mật chưa được khai thác kịp thời, nguyên nhân chủ yếu là do
tài liệu chưa được giải mật. Giải mật tài liệu lưu trữ nói chung và tài liệu
lưu trữ của Đảng nói riêng đã trở thành yêu cầu cấp thiết đối với toàn xã
hội, đặc biệt đối với những nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, lưu trữ,
bởi vì:
- Không tiến hành giải mật thì không những không khai thác, sử dụng
đầy đủ, kịp thời thông tin có giá trị trong tài liệu mà còn gây nên tình trạng
tồn đọng quá nhiều tài liệu được đóng dấu mật nhưng nội dung không còn
mật hoặc đã giảm mật trong kho lưu trữ, gây khó khăn cho việc quản lý tài
liệu mật đích thực.
- Nhiều thông tin trong các tài liệu lưu trữ đã đóng dấu mật thường
liên quan đến các sự kiện, vụ việc, nhân vật rất được nhiều người quan
tâm. Nếu các thông tin chính thức không được đáp ứng sẽ có những thông
tin không chính thức (thường là xuyên tạc) lấp chỗ trống đó.
- Trong bối cảnh của xu thế hội nhập, toàn cầu hoá; sự bùng nổ
thông tin và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin…; của xu
thế mở rộng dân chủ của xã hội, đòi hỏi Đảng phải chủ động thông tin,
tuyên truyền về đường lối, chủ trương của mình. Nếu công tác giải mật tài
liệu không thực hiện tốt sẽ làm cho nhân dân không hiểu đầy đủ về Đảng
- qua những kênh thông tin chính thức, và như vậy còn làm cản trở quá trình
đưa chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng thực sự đi vào cuộc sống.
2. Tình hình khối tài liệu cần được tiến hành giải mật tại Kho
lưu trữ TW Đảng
2.1. Thực trạng công tác giải mật tài liệu tại Kho Lưu trữ TW Đảng
Kho lưu trữ Trung ương Đảng hiện đang bảo quản những thành
phần tài liệu quan trọng nhất của Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt
Nam, gồm : Toàn bộ tài liệu lưu trữ được hình thành trong quá trình hoạt
động của các cơ quan, tổ chức của Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức tiền
thân của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, tài liệu về thân thế, sự nghiệp và
hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các nhân vật lịch sử, tiêu biểu
của Đảng, các nhân vật lịch sử tiêu biểu của Đảng đồng thời là cán bộ lãnh
đạo chủ chốt của Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội. Hiện trong
Kho lưu trữ Trung ương Đảng đang bảo quản hơn 100 Phông tài liệu và
sưu tập lưu trữ với khoảng 5.000 mét giá tài liệu.
Trong đó, tài liệu mật tập trung chủ yếu ở những khối tài liệu như:
tài liệu các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng; tài liệu của Ban Chấp
hành Trung ương, các Xứ uỷ, Khu uỷ; các ban đảng và đảng uỷ trực thuộc
Trung ương; tài liệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo
chủ chốt của Đảng. Tỷ lệ tài liệu đóng dấu mật chiếm khoảng từ 8 - 12%
tổng số tài liệu trong kho.
Ngoài thành phần tài liệu mật có ở hầu hết các khối, trong Kho lưu trữ
Trung ương Đảng còn có một bộ phận tài liệu được quản lý và bảo quản theo
chế độ “lưu mật”. Đối với nhóm tài liệu này, việc quản lý, bảo quản và phục
vụ khai thác được thực hiện theo quy chế riêng. Trong số đó, có nhiều tài liệu
tuy không đóng dấu mật nhưng vẫn được lưu mật (thậm chí lưu theo chế độ
lưu nguyên bì, chỉ có những đồng chí lãnh đạo có trách nhiệm mới được tiếp
cận).
Về nội dung, trong số những tài liệu đã được xác định độ mật, có
loại toàn bộ hồ sơ hoặc toàn bộ tài liệu là mật, có loại chỉ có một phần,
thậm chí chỉ có một đoạn, một câu trong đó có thông tin rất mật.
Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp
luật và quy định, như: Sắc lệnh số 69-SL do Hồ Chủ Tịch ký ban hành
ngày 10-12-1952; Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước do Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 28-
12-2000; Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia do Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội ban
hành ngày 4-4-2001. Do yêu cầu nghiên cứu và sử dụng tài liệu lưu trữ, Ban
Bí thư Trung ương Đảng và Văn phòng Trung ương Đảng đã ban hành một
số văn bản quy định về chế độ khai thác, sử dụng tài liệu liệu lưu trữ của
Đảng, như: Quyết định số 20- QĐ/TW của Ban Bí thư ngày 23-9-1987 Về
Phông lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam; Quyết định số 22- QĐ/TW của
Ban Bí thư ngày 01-10-1987 Về công tác văn kiện và quản lý văn kiện của
- Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trong các quyết định của Ban Bí thư
đều quy định việc công bố, trưng bày tài liệu của Phông lưu trữ Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Theo đó, Văn phòng Trung ương Đảng là cơ quan được Ban Bí thư
giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý và phục vụ khai thác tài liệu lưu trữ của
Trung ương Đảng, đã ban hành một số quy định về bảo vệ bí mật của
Đảng và Nhà nước ở Văn phòng Trung ương; về chế độ quản lý, bảo quản
và phục vụ khai thác tài liệu lưu trữ nói chung và tài liệu lưu trữ mật nói
riêng. Các văn bản đó là: Quyết định số 18- QĐ/VPTW ngày 6- 02- 1998
ban hành Quy định về bảo vệ bí mật của Đảng và Nhà nước ở Văn phòng
Trung ương; Quy định số 444- QĐ/VPTW ngày 01-12-1999 về lập hồ sơ,
nộp lưu, quản lý và phục vụ khai thác tài liệu lưu trữ hiện hành; Quy định
số 661- QĐ/VPTW ngày 25-9-2000 về sử dụng và phục vụ khai thác tài
liệu Kho lưu trữ Trung ương Đảng. Riêng về tài liệu mật, Văn phòng
Trung ương đã ban hành Quy định số 664- QĐ/VPTW ngày 01-12-2000 quy
định việc quản lý, bảo quản và phục vụ khai thác đối với tài liệu lưu trữ
được lưu mật ở Văn phòng Trung ương…
Nhìn chung những tài liệu đã được xác định độ mật đều có nội dung
cần bảo mật, đặc biệt là nhóm tài liệu có độ tối mật, tuyệt mật, vì vậy có
thể khẳng định việc xác định độ mật cho tài liệu cơ bản là chính xác. Song
vì độ mật của tài liệu được xác định từ văn thư, trong đó có nhiều tài liệu
có độ mật hiện hành lẽ ra đã được giải mật trước khi nộp vào lưu trữ,
nhưng vẫn nộp lưu nguyên trạng. Tài liệu mật trong kho ngày càng bổ
sung, việc giải mật chỉ được thực hiện đột xuất theo yêu cầu, cụ thể:
- Năm 2000, Cục Lưu trữ đã đề xuất với lãnh đạo Văn phòng Trung
ương Đảng thành lập Hội đồng giải mật để tiến hành giải mật những hồ
sơ, tài liệu được quản lý theo chế độ mật (lưu nguyên bì) gồm 1.257 tài
liệu. Đây là nhóm tài liệu mật được lựa chọn trong trong quá trình chỉnh lý
để bảo quản theo chế độ quản lý tài liệu mật. Những tài liệu được giải
mật trong đợt này không tập trung vào một phông mà nằm rải rác ở các
phông khác nhau trong Kho. Thời gian của khối tài liệu được giải mật cũng
không đồng nhất (thời gian sớm nhất của tài liệu là năm 1948, thời gian
muộn nhất của tài liệu là năm 1991). Kết quả, sau khi xem xét nội dung
từng hồ sơ và từng tài liệu, đã giải mật 1.094 tài liệu, đồng thời tiếp tục
lưu mật 163 tài liệu.
- Phục vụ cho công tác xuất bản văn kiện Đảng, Hội đồng xuất bản
Văn kiện Đảng đã duyệt và cho công bố Bộ toàn tập văn kiện Đảng có thời
gian từ năm 1925 đến năm 1995. Thông qua đó, Hội đồng xuất bản văn
kiện Đảng đã tiến hành giải mật đến từng tài liệu. Hàng trăm tài liệu văn
kiện có độ mật từ mật đến tối mật (cá biệt, có tài liệu tuyệt mật) đã được
giải mật.
Việc công bố, giới thiệu, trưng bày và xuất bản văn kiện dù đã góp
phần giải phóng một bộ phận tài liệu mật do yêu cầu của thực tiễn đặt ra
- và nhằm giải quyết nhiệm vụ trước mắt, nhưng chưa phải là công tác giải
mật tài liệu chuyên nghiệp. Giải mật tài liệu lưu trữ đòi hỏi phải được
tiến hành một cách khoa học, được quy định chặt chẽ, có quy trình và có tổ
chức. Giải mật tài liệu lưu trữ của Đảng càng đòi hỏi phải công phu và
khoa học hơn nữa.
Sở dĩ, công tác giải mật tài liệu vẫn chưa được tiến hành quy mô,
đồng bộ là do nhận thức chung chưa đầy đủ về tầm quan trọng của thông
tin tài liệu lưu trữ, đặc biệt là thông tin tài liệu lưu trữ mật; các văn bản đã
ban hành thiếu cụ thể và chưa có văn bản quy định riêng về giải mật tài
liệu.
2.2. Công tác phục vụ khai thác, sử dụng tài liệu mật tại kho lưu trữ
Hàng năm Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng tiếp nhận và
phục vụ hàng trăm yêu cầu nghiên cứu, sử dụng tài liệu. Đối tượng nghiên
cứu, sử dụng tài liệu Kho lưu trữ Trung ương Đảng rất phong phú, đa
dạng, bao gồm các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, cấp uỷ đảng các
địa phương, các cơ quan, tổ chức của Đảng và các cơ quan nghiên cứu khoa
học, cán bộ đảng viên. Theo số liệu khảo sát tình hình khai thác tài liệu tại
Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng trong 16 năm (từ năm 1990 đến
năm 2006), có hơn 5.000 yêu cầu với gần 90.000 hồ sơ, tài liệu, trong đó có
một phần nhỏ tài liệu mật được đưa ra nghiên cứu, sử dụng. Các yêu cầu
khai thác tài liệu mật trong những năm gần đây có xu hướng tăng lên
Tài liệu lưu trữ mật đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan
trọng trong lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc, phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Trung ương, hàng trăm yêu cầu của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cơ
quan tham mưu, giúp việc cho Trung ương khai thác tài liệu về các lĩnh
vực, giúp Trung ương chủ động, tập trung xử lý những vấn đề lớn trong
từng thời điểm cụ thể. Trong lĩnh vực tổ chức và cán bộ, nhiều tài liệu về
chủ trương, quyết sách lớn, nhất là trong việc chuẩn bị nhân sự Đại hội
Đảng, nhân sự Quốc hội của nhiều khoá đã được nghiên cứu, giúp cho
công tác chuẩn bị được chu đáo, chính xác. Tài liệu lưu trữ cũng đã góp
phần quan trọng trong công tác tư tưởng, củng cố đoàn kết nội bộ.
Bên cạnh đó, qua quá trình phục vụ khai thác và sử dụng tài liệu tại
Kho Lưu trữ TW Đảng (trong đó có công tác phục vụ khai thác sử dụng tài
liệu mật), chúng tôi còn gặp một số khó khăn sau:
Một là: Thông tin trong tài liệu lưu trữ của Đảng rất phong phú
nhưng chưa được mở rộng khai thác bởi vì tài liệu chưa được giải mật.
Mỗi khi có yêu cầu khai thác tài liệu có dấu chỉ mức độ mật, dù thực chất
nội dung không mật hoặc ít mật nhưng theo quy định vẫn phải trình cấp có
thẩm quyền duyệt.
Hai là: Các quy định của Trung ương và Văn phòng Trung ương chưa
đồng bộ, chưa quy định về giải mật tài liệu lưu trữ.
- 3. Phương hướng và giải pháp giải mật tài liệu tại Kho Lưu trữ
TW Đảng trong thời gian tới.
3.1. Nguyên tắc giải mật tài liệu
Như đã phân tích ở trên, công tác giải mật tài liệu đã trở thành một
yêu cầu bức thiết của Kho Lưu trữ Trung ương Đảng. Song, giải mật tài
liệu nói chung và giải mật tài liệu lưu trữ của Đảng nói riêng đòi hỏi phải
được tiến hành theo những nguyên tắc, tiêu chuẩn chặt chẽ, khoa học.
Nguyên tắc giải mật tài liệu lưu trữ của Đảng phải dựa trên quan điểm
của Đảng, Nhà nước về bảo vệ bí mật Nhà nước, về quản lý, khai thác tài
liệu lưu trữ của Đảng, đó là:
- Tài liệu lưu trữ quốc gia, trong đó có tài liệu lưu trữ của Đảng là di
sản văn hoá vô cùng quý giá của Đảng và của dân tộc. Tài liệu lưu trữ
thuộc bí mật quốc gia.
- Tài liệu lưu trữ nói chung và tài liệu lưu trữ của Đảng nói riêng cần
được bảo mật an toàn, thực hiện đúng chế độ giữ gìn bí mật của Đảng và
Nhà nước, đồng thời phải được khai thác, sử dụng triệt để giá trị thông tin
phục vụ lợi ích to lớn của dân tộc.
* Giải mật tài liệu lưu trữ của Đảng phải tuân thủ các nguyên tắc
sau
(1) Cần phải đặt nguyên tắc bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân
tộc và bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng lên trên hết. Đây là
nguyên tắc cơ bản nhất, có tính định hướng trong khi xem xét để giải mật
tài liệu lưu trữ.
(2) Nguyên tắc của sự “lão hoá” thông tin: Thông tin trong tài liệu
có tính thời gian và cùng với thời gian, thông tin sẽ mất dần tính thời sự
hoặc tính mật, nói cách khác là bị “lão hoá” - đó là quy luật tất yếu khách
quan. Dựa trên nguyên tắc này, có thể căn cứ vào thời gian hình thành tài
liệu để xem xét giải mật hoặc cho phép sử dụng rộng rãi tài liệu.
(3) Nguyên tắc “Đáp ứng yêu cầu thông tin tài liệu lưu trữ”
Đối tượng nghiên cứu tài liệu lưu trữ Đảng chủ yếu là cán bộ, đảng
viên thuộc các cơ quan của Đảng và Nhà nước, các nhà nghiên cứu khoa
học lịch sử, lý luận... với mục đích phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
và tổng kết, biên soạn lịch sử. Càng tạo điều kiện để độc giả tiếp cận đầy
đủ hơn với tài liệu, hạn chế đến mức thấp nhất khoảng trống về lịch sử
Đảng do tính mật của tài liệu tạo nên thì sự thật lịch sử sẽ trở nên khách
quan, đầy đủ hơn, qua đó làm tốt hơn công tác tư tưởng, tránh sự xuyên
tạc, bóp méo sự thật lịch sử do các thế lực thù địch gây nên. Bên cạnh đó,
càng mở rộng việc tiếp xúc với tài liệu lưu trữ của Đảng, càng có cơ hội
để tuyên truyền và giáo dục về truyền thống của Đảng, đưa chủ trương,
đường lối của Đảng vào cuộc sống để Đảng gần dân, tạo thêm sự gắn bó
giữa Đảng với dân.
- Trong xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin trong điều kiện hội nhập quốc tế, đòi hỏi Đảng phải chủ
động thông tin cho bạn bè thế giới về đường lối, chủ trương đổi mới của
Đảng, về quan hệ đa phương hoá, đa dạng hoá để hợp tác và cùng phát
triển; phải chủ động đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chống lại những
quan điểm sai trái, tư tưởng phản động xuyên tạc đường lối, chủ trương
của Đảng. Giải mật tài liệu lưu trữ của Đảng, chính là một trong những
điều kiện để góp phần đáp ứng các yêu cầu đó của thực tiễn khách quan.
3.2. Phương pháp giải mật tài liệu
Phương pháp tiến hành giải mật chủ yếu là vận dụng hệ thống các
quan điểm, nguyên tắc, tiêu chuẩn để nghiên cứu, đánh giá nội dung và kết
luận về khả năng giải mật (toàn bộ hay một phần) hoặc không giải mật tài
liệu (hồ sơ) vì lý do gì. Đây là công việc đòi hỏi người làm công tác giải
mật tài liệu phải có kiến thức tổng hợp, có kinh nghiệm về công tác lưu
trữ, am hiểu lịch sử Đảng, đặc biệt phải có sự nhạy cảm về chính trị, đồng
thời phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ.
3.3. Một số kiến nghị về công tác giải mật tài liệu Kho lưu trữ TW
Đảng
Để thực hiện tốt công tác giải mật tài liệu Kho lưu trữ Trung ương
Đảng, cần triển khai những công việc sau:
- Ban Bí thư sớm ban hành quy định về giải mật tài liệu lưu trữ của
Đảng, trước hết là giải mật tài liệu Kho lưu trữ Trung ương và tài liệu
thuộc nguồn nộp lưu vào Kho.
- Văn phòng Trung ương Đảng, trực tiếp là Cục lưu trữ giúp lãnh
đạo Văn phòng ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện quy định của Ban
Bí thư về giải mật tài liệu, đồng thời xây dựng kế hoạch giải mật tài liệu
lưu trữ Kho lưu trữ Trung ương, trong đó đề ra quy trình, các bước triển
khai cụ thể; thống kê, lập mục lục những hồ sơ, tài liệu mật trong từng
phông, từng khối tài liệu cần giải mật hoặc hạ cấp độ mật.
nguon tai.lieu . vn