Xem mẫu
- 13
CHUYỂN NHƯỢNG BẤT ĐỘNG SẢN
VỚI GIÁ THẤP HƠN GIÁ MUA CÓ PHẢI
NỘP THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN KHÔNG?
Tình huống:
Ông H làm công nhân cho Công ty sản xuất
Da giày BT gần 30 năm. Trong thời gian này, ông
đã dành dụm được 800 triệu đồng dự định gửi tiết
kiệm để dưỡng già. Tuy nhiên, tháng 3/2018, ông
H nhận thấy khu vực huyện B nơi ông ở giá nhà,
đất có xu hướng tăng lên chóng mặt. Cách nhà ông
59
- khoảng 400m có căn nhà cuối năm 2016 bán 1,2 tỷ
đồng, nhưng đến tháng 8/2017, đã bán lại được 2 tỷ
đồng. Ông nhẩm tính, với đà tăng giá bất động sản
như trên thì lợi nhuận từ việc mua bán bất động
sản cao gấp mấy lần tiền lãi gửi ngân hàng. Vì vậy,
ông quyết định đầu tư vào bất động sản.
Sau gần một tháng tìm hiểu, ông được người
bạn giới thiệu có lô đất mặt tiền đường hẻm 5m
trên đường K, thị trấn T, huyện B, diện tích 100m2,
được rao tin chuyển nhượng với giá 800 triệu đồng.
Thấy lô đất này hợp túi tiền và được nhiều người
tư vấn là giá đất còn tăng trong thời gian tới, nên
ông quyết định đồng ý chuyển nhượng vào tháng
9/2017. Sau 1 tháng làm các thủ tục, giấy tờ, lô
đất nêu trên đã được sang tên cho ông H. Ngay lúc
này, đã có người tìm ông và trả giá 1 tỷ đồng để ông
sang nhượng lô đất đó, nhưng ông chưa đồng ý vì
tin rằng giá sẽ còn tăng.
Tuy nhiên, tháng 5/2018, vợ ông phát hiện bị
bệnh ung thư phổi. Bác sĩ tư vấn là gia đình cần
có số tiền lớn để chạy chữa cho bà. Ông quyết định
rao tin muốn chuyển nhượng lô đất trên. Tuy vậy,
lúc này, cơn sốt khu đất trên đã hạ nhiệt. Có một
người đồng ý mức chuyển nhượng, nhưng chỉ trả
giá 750 triệu đồng cho lô đất này. Vì muốn nhanh
chóng có tiền trị bệnh cho vợ, ông H đành đồng ý
mặc dù biết rằng giá như vậy là thấp hơn lúc ông
mua lô đất trước đó.
60
- Khi làm thủ tục sang tên lô đất, cơ quan thuế
yêu cầu ông H nộp thuế thu nhập cá nhân cho hoạt
động chuyển nhượng bất động sản nêu trên. Ông
H không đồng ý vì cho rằng lúc đầu ông phải trả
800 triệu đồng và giờ chuyển nhượng với giá 750
triệu đồng là bị lỗ, nên ông không có thu nhập. Vậy
trong trường hợp này, ông H có phải nộp thuế thu
nhập cá nhân cho hoạt động chuyển nhượng bất
động sản không?
Trả lời:
Thu nhập của ông H trong trường hợp trên là
thu nhập có được từ hoạt động chuyển nhượng bất
động sản. Đây là thu nhập được tính thuế thu nhập
cá nhân theo Điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân
năm 2007 sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014, vậy
nên thu nhập này phải chịu sự điều chỉnh của thuế
thu nhập cá nhân.
Lập luận của ông H sẽ đúng nếu đối chiếu
với các quy định pháp luật thuế áp dụng từ ngày
01/01/2009 đến ngày 31/12/2014. Trong khoảng
thời gian này, theo quy định của Luật thuế thu
nhập cá nhân có 2 cách tính thuế thu nhập cá nhân
cho thu nhập có được từ hoạt động chuyển nhượng
bất động sản của cá nhân là1:
1. Tham khảo các Điều 14, 23 Luật thuế thu nhập cá
nhân năm 2007 (khi luật này chưa được sửa đổi, bổ sung năm
2012, 2014).
61
- Cách 1:
Thuế thu nhập cá nhân = (Giá bán - giá
mua - chi phí liên quan) x 25%
Theo cách tính này, ông H mua 800 triệu
đồng và bán 750 triệu đồng nên không có thêm
thu nhập từ lợi nhuận bán bất động sản và không
phải nộp thuế.
Cách 2:
Thuế thu nhập cá nhân = Giá chuyển
nhượng bất động sản x 2%
Theo cách tính này, Nhà nước không quan tâm
đến giá mua trước đây mà chỉ quan tâm, quản lý
phần giá bán bất động sản.
Tuy nhiên, từ ngày 01/01/2015, khoản 6 Điều 2
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về
thuế năm 2014 đã thay đổi cách tính thuế đối với
thu nhập có được từ hoạt động chuyển nhượng bất
động sản như sau: “Thu nhập chịu thuế từ chuyển
nhượng bất động sản được xác định là giá chuyển
nhượng từng lần”. Do vậy, lập luận của ông H
trong trường này là chưa chính xác. Theo đó, trong
trường hợp này, cách tính thuế thu nhập cá nhân
của ông H như sau:
Thuế thu nhập cá nhân = Giá chuyển
nhượng bất động sản x 2% = 750 triệu đồng x
2% = 15 triệu đồng
Lưu ý: Trường hợp trên hợp đồng chuyển
nhượng không ghi giá đất hoặc giá đất trên hợp
62
- đồng chuyển nhượng thấp hơn giá do Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quy định thì giá chuyển nhượng đất
là giá do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại
thời điểm chuyển nhượng theo quy định của pháp
luật về đất đai.
63
- 14
TÀI SẢN CÓ ĐƯỢC KHI LY HÔN CÓ CHỊU
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN KHÔNG?
Tình huống:
C và D là cặp đôi “thanh mai, trúc mã” trong
thị trấn B, huyện H, tỉnh Đ. Tháng 6/2013, C và D
nên vợ, nên chồng. Để tạo điều kiện cho vợ chồng
C và D làm ăn sinh sống, gia đình anh C đã cho họ
64
- một nền đất diện tích 150m2 trên đường Q, còn gia
đình chị D cho 500 triệu đồng để xây nhà và làm
vốn kinh doanh. Hai vợ chồng anh C dành ra 250
triệu đồng để xây trên đó một căn nhà nhỏ và mở
tiệm tạp hóa kinh doanh. Sau 4 năm chí thú làm
ăn, hai vợ chồng đã mở rộng tiệm tạp hóa thành
đại lý phân phối mặt hàng sữa các loại cho toàn
thị trấn.
Tuy nhiên, từ ngày có chút tài chính, anh C đã
không còn quan tâm nhiều đến vợ nữa vì chị D chỉ
biết buôn bán và lo con cái, không chịu chăm sóc
mình, lại không sinh được con trai cho anh C. Anh
C ngày càng mải mê chơi bời, buông thả bản thân.
C sau đó tán tỉnh và gặp gỡ L, một cô gái 19 tuổi.
C đồng ý cấp dưỡng cho L mỗi tháng 20 triệu
và một số sinh hoạt phí phát sinh khác. L trở thành
“bà nhỏ”, ngày càng được C chiều chuộng hơn khi L
mang thai và được xác định là con trai thì L thay
đổi hẳn. Cô không cam chịu thân phận “bà nhỏ” mà
muốn có danh phận rõ ràng.
C quyết định nộp đơn ly dị để dễ dàng đến với L
và chính thức chăm lo cho con trai của mình.
Tại Tòa khi giải quyết ly hôn, C và D đã thỏa
thuận chia cho D căn nhà trước đây được tạo lập
từ tiền hai bên cho và 2 tỷ đồng tiền mặt, còn C
sẽ nhận 2 tỷ đồng cùng với lô đất trên đường quốc
lộ. Tuy nhiên, lô đất trên đường quốc lộ lại do chị
D đứng tên nên khi chia thì chị D đã làm thủ tục
65
- chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh C. Vậy
khi làm thủ tục này, anh C có phải nộp thuế thu
nhập cá nhân không?
Trả lời:
Theo quy định của pháp Luật thuế thu nhập
cá nhân, chị D chuyển nhượng quyền sử dụng đất
sang cho anh C thì hoạt động này sẽ làm phát
sinh thu nhập phải chịu thuế thu nhập cá nhân.
Tuy nhiên, về bản chất, việc chị D chuyển nhượng
quyền sử dụng đất từ chị D sang cho anh C không
phải là hành vi mua, bán chuyển nhượng đất phát
sinh lợi nhuận, mà là hoạt động chuyển nhượng
đất để thực hiện thỏa thuận khi ly hôn đối với tài
sản chung của vợ và chồng. Vậy nên, theo điểm a
khoản 1 Điều 3 Thông tư số 111/2013/TT-BTC thì:
“Trường hợp bất động sản (bao gồm cả nhà ở hình
thành trong tương lai, công trình xây dựng hình
thành trong tương lai theo quy định pháp luật về
kinh doanh bất động sản) do vợ hoặc chồng tạo lập
trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản
chung của vợ chồng, khi ly hôn được phân chia
theo thỏa thuận hoặc do tòa án phán quyết thì việc
phân chia tài sản này thuộc diện được miễn thuế”.
Do vậy, trong trường hợp này, anh C không phải
thực hiện việc nộp thuế thu nhập cá nhân.
66
- 15
GIẢM TRỪ GIA CẢNH
KHI TÍNH THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
Tình huống:
Anh X đang là Giám đốc của một công ty cổ
phần tại Việt Nam, có mức lương ổn định là 30
triệu đồng/tháng. Hiện nay, anh X đang phụng
dưỡng mẹ già 80 tuổi và nuôi 2 con còn nhỏ (3 tuổi
và 15 tuổi). Vợ anh X chỉ ở nhà chăm sóc mẹ và 2
con nên không có thu nhập. Ngày 10/12/2017, khi
67
- bộ phận nhân sự của công ty thực hiện quyết toán
thuế thu nhập cá nhân cho anh X thì chỉ xác định
mẹ và 2 con của anh X là người phụ thuộc để thực
hiện thủ tục giảm trừ gia cảnh cho anh X. Anh X
thắc mắc thì nhân viên phòng nhân sự trả lời rằng,
mặc dù vợ anh X không có thu nhập nhưng vẫn
trong độ tuổi lao động, không bị khuyết tật, không
bị mất khả năng lao động nên không phải là người
phụ thuộc của anh X. Anh X cho rằng việc trả lời
trên là chưa đúng, vì việc vợ anh không đi làm là
do phải lo chăm sóc mẹ già và con nhỏ chứ không
phải là không muốn đi làm. Vì vậy, việc vợ anh
phải phụ thuộc vào anh là hoàn toàn đúng.
Vậy khi tính thuế thu nhập cá nhân, anh X sẽ
được giảm trừ gia cảnh như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 19 Luật thuế thu nhập
cá nhân năm 2007 sửa đổi, bổ sung năm 2012,
2014 và Điều 12 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP thì
giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập
chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ
tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá
nhân cư trú.
Giảm trừ gia cảnh gồm 2 phần:
- Giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế: 9 triệu
đồng/tháng.
- Giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc: 3,6 triệu
đồng/tháng.
68
- Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với
người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi
người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần
vào một đối tượng nộp thuế.
Theo quy định hiện hành, người phụ thuộc
bao gồm:
- Con (bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con
riêng của vợ, con riêng của chồng) dưới 18 tuổi;
- Con (bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con
riêng của vợ, con riêng của chồng) từ 18 tuổi trở lên
bị khuyết tật không có khả năng lao động;
- Con (bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con
riêng của vợ, con riêng của chồng) đang học đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề,
kể cả con từ 18 tuổi trở lên đang học bậc học phổ
thông mà không có thu nhập hoặc có thu nhập
không vượt quá mức thu nhập 1 triệu đồng/tháng;
- Người ngoài độ tuổi lao động, người trong độ
tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị
khuyết tật không có khả năng lao động mà không
có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt
quá mức thu nhập 1 triệu đồng/tháng, bao gồm: Vợ
hoặc chồng của người nộp thuế; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha
dượng, mẹ kế, cha mẹ nuôi hợp pháp, cha vợ, mẹ vợ
(hoặc cha chồng, mẹ chồng) của người nộp thuế; Cá
nhân khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế
phải trực tiếp nuôi dưỡng.
69
- Như vậy, trường hợp của anh X vẫn được giảm
trừ gia cảnh, cụ thể như sau:
- Giảm trừ cho bản thân người nộp thuế: 9
triệu đồng/tháng.
- Giảm trừ cho người phụ thuộc:
+ Mẹ (80 tuổi): Trường hợp này do anh X chưa
nêu rõ về mức thu nhập của mẹ anh nên chưa đủ cơ
sở để xác định mẹ anh có phải là người phụ thuộc
của anh hay không. Bởi vì, cho dù bà đã ngoài độ
tuổi lao động, nhưng nếu có thu nhập trên 1 triệu
đồng/tháng thì bà vẫn không được coi là người phụ
thuộc của anh X.
+ Hai con (3 tuổi và 15 tuổi): Do con anh X đang
dưới 18 tuổi nên vẫn có thể là người phụ thuộc của
anh X.
+ Vợ: Trường hợp này cũng chưa rõ các thông
tin nên rất khó xác định vợ anh X có phải là người
phụ thuộc của anh hay không. Bởi vì, dù vợ của
anh không có thu nhập, nhưng nếu vợ anh vẫn còn
trong độ tuổi lao động, không bị tàn tật dẫn đến
không có khả năng lao động thì vẫn không được coi
là người phụ thuộc của anh X. Vợ anh chỉ được coi
là người phụ thuộc khi mặc dù còn trong độ tuổi lao
động nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động
và không có thu nhập vượt quá mức quy định hiện
nay là 1 triệu đồng/tháng.
70
- 16
XÁC ĐỊNH THU NHẬP ĐƯỢC GIẢM TRỪ
GIA CẢNH ĐỐI VỚI CÁ NHÂN CÓ NHIỀU
KHOẢN THU NHẬP
Tình huống:
Hiện nay, anh Đ đang làm Trưởng phòng kiểm
định chất lượng sản phẩm của một doanh nghiệp
với mức lương 20 triệu đồng/tháng. Bên cạnh đó,
anh Đ còn góp vốn với một số người bạn thành lập 2
công ty trồng cà phê và tiêu. Sau mỗi năm, anh
Đ được trả lợi nhuận khoảng 300 triệu đồng từ 2
công ty này. Anh Đ có được giảm trừ gia cảnh khi
71
- nộp thuế thu nhập cá nhân không? Nếu có thì mức
giảm trừ gia cảnh được tính như thế nào?
Trả lời:
Căn cứ quy định tại Điều 19 Luật thuế thu
nhập cá nhân năm 2007 sửa đổi, bổ sung năm 2012,
2014 và Điều 12 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP, thì
trong trường hợp này, anh Đ có hai khoản thu nhập
là thu nhập từ tiền lương của trưởng phòng và thu
nhập từ việc đầu tư vốn vào 2 công ty. Tuy nhiên,
khi tính giảm trừ gia cảnh thì pháp luật hiện hành
chỉ cho phép giảm trừ gia cảnh đối với thu nhập từ
tiền lương. Còn thu nhập từ đầu tư vốn vào công ty
thì không được giảm trừ gia cảnh.
Do tình huống trên không trình bày cụ thể
hoàn cảnh gia đình anh Đ nên chỉ có thể xác định
thu nhập giảm trừ của anh Đ cơ bản như sau:
- Giảm trừ gia cảnh cho bản thân anh Đ là: 9
triệu đồng/tháng.
- Ngoài ra, tùy thuộc vào trường hợp cụ thể của
gia đình anh Đ, ví dụ: nếu anh Đ có con, cha, mẹ, vợ
(chồng) và có các chủ thể khác thỏa mãn các điều
kiện tại Điều 19 Luật thuế thu nhập cá nhân năm
2007 sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014, Điều 12
Nghị định số 65/2013/NĐ-CP thì sẽ được giảm trừ
cho mỗi người là 3,6 triệu/tháng mà không bị giới
hạn người phụ thuộc.
72
- 17
XÁC ĐỊNH NGƯỜI CÓ NGHĨA VỤ NỘP THUẾ
SỬ DỤNG ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP
TRONG TRƯỜNG HỢP CHƯA CÓ
GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Tình huống:
Tháng 12/2017, vợ chồng anh T được chuyển
nhượng 1 mảnh đất diện tích 100m2 ở tại trung tâm
thành phố R, tỉnh K. Hợp đồng chuyển nhượng đã
được công chứng theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, do bên chuyển nhượng đất cho gia đình anh T
73
- phải ra nước ngoài trong vòng 6 tháng nên anh Đ
chưa làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Vậy khi sử dụng mảnh đất này
vợ chồng anh Đ có phải nộp thuế sử dụng đất phi
nông nghiệp không?
Trả lời:
Theo quy định Điều 4 Luật thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp năm 2010 và Điều 3 Thông tư
số 153/2011/TT-BTC ngày 11/11/2011 của Bộ Tài
chính hướng dẫn về thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp thì thông thường, người nộp thuế là tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất thuộc
đối tượng chịu thuế quy định.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt thì
người nộp thuế được xác định như sau:
Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chưa
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
(sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) thì người
đang sử dụng đất là người nộp thuế.
Người nộp thuế trong một số trường hợp cụ thể
được quy định như sau:
- Trường hợp được Nhà nước cho thuê đất để
thực hiện dự án đầu tư thì người thuê đất ở là
người nộp thuế;
- Trường hợp người có quyền sử dụng đất cho
thuê đất theo hợp đồng thì người nộp thuế được
74
- xác định theo thỏa thuận trong hợp đồng. Trường
hợp trong hợp đồng không có thỏa thuận về người
nộp thuế thì người có quyền sử dụng đất là người
nộp thuế;
- Trường hợp đất đã được cấp Giấy chứng nhận
nhưng đang có tranh chấp, thì trước khi tranh
chấp được giải quyết, người đang sử dụng đất là
người nộp thuế. Việc nộp thuế không phải là căn
cứ để giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất;
- Trường hợp nhiều người cùng có quyền sử
dụng một thửa đất thì người nộp thuế là người đại
diện hợp pháp của những người cùng có quyền sử
dụng thửa đất đó;
- Trường hợp người có quyền sử dụng đất góp
vốn kinh doanh bằng quyền sử dụng đất mà hình
thành pháp nhân mới có quyền sử dụng đất thuộc
đối tượng chịu thuế quy định tại Điều 2 Luật thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp thì pháp nhân mới là
người nộp thuế.
Như vậy, căn cứ theo các quy định pháp luật
nêu trên, trong trường hợp này, gia đình anh T tuy
chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, nhưng là người thực tế đang sử dụng mảnh
đất đó thì gia đình anh Đ vẫn là người nộp thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp.
75
- 18
ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP CÓ TRANH CHẤP
THÌ AI LÀ NGƯỜI CÓ NGHĨA VỤ
NỘP THUẾ?
Tình huống:
Chị A có một mảnh đất đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, nhưng do không có nhu
cầu sử dụng nên vẫn để không hơn 5 năm qua. Chỗ
ở của chị A hiện nay cũng cách xa vị trí mảnh đất
đó, nên chị cũng không lui tới trông coi. Gần đây,
chị phát hiện ông B ở gần đó đã chiếm dụng mảnh
đất này để làm nơi kinh doanh vật liệu xây dựng.
76
- Khi chị A yêu cầu ông B trả lại đất, thì ông B không
đồng ý. Ông B cho rằng trong thời gian qua, ông B
là người nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp cho
mảnh đất đó, nên ông phải là người có quyền sử
dụng và điều này đã được Nhà nước thừa nhận.
Chị A là người có quyền sử dụng đất, nhưng
ông B lại là người nộp thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp, như vậy có đúng không? Việc ông B nộp
thuế sử dụng đất phi nông nghiệp cho Nhà nước có
đồng nghĩa với việc Nhà nước đã thừa nhận quyền
sử dụng hợp pháp của ông B hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 và khoản 3
Điều 3 Thông tư số 153/2011/TT-BTC, thì người
nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là: Người
nộp thuế là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền
sử dụng đất thuộc đối tượng chịu thuế quy định
tại Điều 2 Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
năm 2010.
Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chưa
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
(sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) thì người
đang sử dụng đất là người nộp thuế.
Người nộp thuế trong một số trường hợp cụ thể
được quy định như sau:
77
- - Trường hợp được Nhà nước cho thuê đất để
thực hiện dự án đầu tư thì người thuê đất ở là
người nộp thuế;
- Trường hợp người có quyền sử dụng đất cho
thuê đất theo hợp đồng thì người nộp thuế được
xác định theo thỏa thuận trong hợp đồng. Trường
hợp trong hợp đồng không có thỏa thuận về người
nộp thuế thì người có quyền sử dụng đất là người
nộp thuế;
- Trường hợp đất đã được cấp Giấy chứng nhận
nhưng đang có tranh chấp thì trước khi tranh chấp
được giải quyết, người đang sử dụng đất là người
nộp thuế. Việc nộp thuế không phải là căn cứ để
giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất;
- Trường hợp nhiều người cùng có quyền sử
dụng một thửa đất thì người nộp thuế là người đại
diện hợp pháp của những người cùng có quyền sử
dụng thửa đất đó;
- Trường hợp người có quyền sử dụng đất góp
vốn kinh doanh bằng quyền sử dụng đất mà hình
thành pháp nhân mới có quyền sử dụng đất thuộc
đối tượng chịu thuế quy định tại Điều 2 Luật thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 thì pháp
nhân mới là người nộp thuế.
Như vậy, trường hợp của chị A thuộc trường
hợp đất đã được cấp Giấy chứng nhận, nhưng đang
có tranh chấp, thì theo quy định của pháp luật hiện
hành, trước khi tranh chấp được giải quyết, người
78
nguon tai.lieu . vn