Xem mẫu
- ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ
1. Khái niệm.
Hiệp định TRIPs là văn bẳn đầu tiên đề cập đến chỉ dẫn địa lý. Trước đó, các
vấn đề liên quan đến chỉ dẫn nguồn gốc địa lý được xác định theo các thuật ngữ: chỉ
dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ. Nói cách khác chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ có nguồn
gốc từ hai thuật ngữ chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ hàng hoá. Khi tìm hiểu về
chỉ dẫn địa lý trước hết ta tìm hiểu về hai khái niệm chỉ dẫn nguồn gốcvà tên gọi
xuất xứ hàng hoá.
- Chỉ dẫn nguồn gốc (Indication of source) là thuật ngữ xuất hiện sớm nhất
trong ba thuật ngữ trên. Từ xa xưa, trong giao lưu thương mại, các chủ thể thông qua
việc gắn các dấu hiệu trên sản phẩm để phân biệt sản phẩm hàng hoá của mình với
các sản phẩm hàng hoá của các chủ thể khác khi đưa chứng lưu thông trên thị trường.
Các dấu hiệu này có thể chỉ đơn thuần mang chức năng xác định người tạo ra sản
phẩm đó, có thể bao gồm cả chức năng xác định nơi mà sản phẩm đó tạo ra.
Chỉ dẫn nguông gốc lần đầu tiên được đề cập đến trong công ước Pari (1883) về
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nhưng công ước này chưa đưa ra khái niệm cũng
như các dấu hiệu của chỉ dẫn nguồn gốc. Kế thừa và phát triển công ước Pari, thoả
ước Madrid (1891)về đăng ký quốc tế nãhn hiệu hàng hóa quốc tế đã quy định về chỉ
dẫn nguồn gốc.
“Bất kì sản phẩm nào mang chỉ dẫn sai lệch và lừa dối mà qua đó, một trong số
các quốc gia thành viên của thoả ước Madrid hoặc một địa diểm tại nước đó được
chỉ dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp là nước hoặc địa điểm xuất xứ hàng nhập khẩu vào
bất kì quốc gia thành viên nào của thảo ước đều bị tịch thu”.
Chỉ dẫn nguồn gốc được quy định trong thoả ước Madrid phải là dấu hiệu chỉ
dẫn chính xác về một quốc gia hoặc một địa điểm trong một quốc gia mà tại đó, hàng
hoá được tạo ra.
- Tên gọi xuất xứ hàng hoá (Appllations of orgin) thuật ngữ này cũng xuất hiện
lần đâu tiên trong công ước Pari nhưng mãi đến hiệp định Lisbon được kí kết thì khái
niệm tên gọi xuất xứ hàng hoá mới được chuẩn hoá. Theo điều 2, hiệp định Lisbon.
“Tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nước, khu vực hoặc vùng lảnh thổ
dùng để chỉ đẫn cho sản phẩm bắt nguồn từ khu vực đó, có chất lượng hoặc những
tính chất đặc thù riêng biệt xuất phát từ môi trường địa lý, bao gồm yếu tố tự nhiên
và con người”.
Theo thoả ước Lisbon thì tên gọi xuất xứ hàng hoá cần có 4 điều kiện:
- Thứ nhất là tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên gọi của một khu vực địa lý hoặc một
quốc gia cụ thể.
Thứ hai là tên gọi xuất xứ hàng hoá phải có chức năng chỉ dẫn về nguồn gốc của
hàng hoá. Hay nói ngược lại thì hàng hoá phải được sản xuất ra từ khu vực địa lý hay
nước mà nó mang chỉ dẫn xuất xứ.
Thứ ba, hàng hoá mang tên gọi xuất xứ hàng hoá phải có chất lượng, tích chất
đặc thù riêng biệt.
Thứ tư, chất lượng và tính chất đặc thù phải có mối liên hệ với môi trường địa
lý.
Ở Việt Nam tên gọi xuất xứ hàng hoá lần đầu tiên được xác định theo pháp lệnh
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (1989) và sau đó được đưa vào Điều 786 Bộ luật
dân sự 1995.
“Tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất
xứ của hàng hoá từ nước, địa phương đó với điều kiện mặt hàng này coa tích chất,
chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố
tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.”
Theo Bộ luật dân sự năm 1995 thì tên gọi xuất xứ hàng hoá cần có 4 điều kiện:
Thứ nhất là tên gọi xuất xứ hàng hoá phải là tên chính thức và đang được sử
dụng tại một quốc gia, một địa phương xác định trên bản đồ địa lý.
Ví dụ: Năm 2000 INAC( trung tâm bảo hộ rượu vang của Pháp) yêu cầu Việt
Nam bảo hộ hai sản phẩm rượu vang Champagne và Cognac. Nhà nước Việt Nam chỉ
bảo hộ cho sản phẩm rượu vang Cognac vì Champagne là một địa danh cổ nay không
còn một địa phương nào mang tên này Champagne.
Thứ hai hàng hoá mang tên gọi xuất xứ phải có xuất xứ từ nước, địa phương đã
được xác định mang tên gọi xuất xứ hàng hoá.
Thứ ba, hàng hoá mang tên gọi xuất xứ hàng hoá phải có chất lượng, tích chất
đặc thù riêng biệt.
Thứ tư, chất lượng và tính chất đặc thù phải có mối liên hệ với môi trường địa
lý.
Tuy nhiên quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 khác với quy định trong thoả
ước Lisbon ở chỗ là mối liên hệ đặc thù với môi trường địa lý. Trong thoả ước Líbon
thì yêu cầu phải có mối liên hệ với cả yếu tố tự nhiên và yếu tố con người còn trong
luật dân sự Việt Nam thì chỉ cần có mối liên hệ với yếu tố tự nhiên hoặc yếu tố con
người.
- - Chỉ dẫn địa lý (geographical indications) thuật ngữ này được quy định tại
khoản 1 điều 22 hiệp định TRIPs.
“Trong hiệp định này chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ
lãnh thổ của một thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có
chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý”.
Từ định nghĩa trong hiệp định TRIPs ta thấy rằng để được coi là chỉ dẫn địa lý
cần có ba điều kiện:
Thứ nhất là các chỉ dẫn này có thể là dấu hiệu bất kì (từ ngữ, hình ảnh) miễn là
qua đó có thể chỉ ra được hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ bắt nguồn từ
lãnh thổ của quốc gia nào hoặc thuộc khu vực địa phương nào của lãnh thổ quốc gia
đó. Tuy nhiên dấu hiệu trên hàng hoá phải liên quan đến một quốc gia cụ thể hoặc
một địa phương khu vực của một quốc gia cụ thể đến mức qua dấu hiệu người tiên
dùng biết được hàng hoá bắt nguồn từ đâu.
Thứ hai, hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý phải có nguồn gốc từ quốc gia hoặc từ khu
vực, địa phương mà hàng hoá đó được xác định mang chỉ dẫn địa lý.
Thứ ba hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý phải có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính
nhất định chủ yếu do quốc gia hay khu vực địa phương đã được chỉ dẫn là nơi hàng
hoá bắt nguồn quy định.
Ở Việt Nam chỉ dẫn địa lý được quy định lần đầu tiên tại nghị định 54/2000/CP-
NĐ ( ngày 03 tháng 10 năm 2000) khoản 1, khoản 2 điều 10:
“1. Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ là thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hoá
đáp ứng đủ các điều kiện sau đây :
a) Thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh, dùng
để chỉ một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia;
b) Thể hiện trên hàng hoá, bao bì hàng hoá hay giấy tờ giao dịch liên quan tới
việc mua bán hàng hoá nhằm chỉ dẫn rằng hàng hoá nói trên có nguồn gốc tại quốc
gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng
hoặc các đặc tính khác của loại hàng hoá này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa
lý tạo nên.
2. Nếu chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hoá thì việc bảo hộ được thực hiện
theo quy định của pháp luật hiện hành về tên gọi xuất xứ hàng hoá.”
Như vậy tên gọi xuất xứ hàng hoá chỉ dùng ở Việt Nam từ khi có pháp lệnh bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp (1989) đến khi Luật sở hữu trí tụê có hiệu lực. Trong
khoảng thời gian này, từ khi nghị định 54/2000/CP-NĐ được ban hành và có hiệu lực,
khái niệm chỉ dẫn địa lý cũng được sử dụng. Mà chỉ dẫn địa lý có thể là tên gọi xuất
- xứ hàng hoá mà cũng có thể không và theo quy định của bộ luật dân sự năm 1995 thì
tên gọi xuất xứ muốn được bảo hộ thì phải đăng kí còn theo nghị định 54 chỉ dẫn địa
lý không cần phải đăng kí. Có thể thấy trong giai đoạn này các quy định của pháp luật
không thống nhất gây nên sự khó phân biệt hai thuật ngữ chỉ dẫn địa lý và tên gọi
xuất xứ hàng hoá .Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã bỏ thuật ngữ tên gọi xuất xứ hàng
hoá thống nhất chỉ sử dụng thuật ngữ chỉ dẫn địa lý.
Khái niệm về chỉ dẫn địa lý.
“Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”.
Như ta biết nhãn hiệu hàng hoá có chức năng để phân biệt sản phẩm vì thế các
dấu hiệu trong nhãn hiệu hàng hoá rất phong phú đa đạng (từ ngữ, hình ảnh, màu sắc,
bố trí sắp đặt, cảm giác, mùi vị …). Trong khi đó, xuất phát từ đặc trưng của chỉ dẫn
địa lý là để chỉ đẫn nguồn gốc của hàng hoá nên dấu hiệu trong chỉ dẫn địa lý phải
được nhận biết bằng thị giác (từ ngữ, hình ảnh biểu tượng).
2. Vai trò của bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý có hiệu quả tạo lợi ích kinh tế cho tất cả các mắt xích
tham gia quy trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Ðặc
biệt, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Phát triển sản xuất đặc sản (chẳng nơi nào có được),
phát triển giá trị tài sản quốc gia
Phát triển ngành, nghề truyền thống, phát triển nông nghiệp, nông thôn, hạn chế
di dân tự do về thành thị, gìn giữ và khẳng định bản sắc dân tộc,bảo vệ sự
thật,quyền lợi người tiêu dung và bảo vệ quyền lợi người sản xuất, kinh doanh.
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý tạo công cụ pháp lý để nhà sản xuất chống lại các hành vi
giả mạo chỉ dẫn địa lý. Từ đó, nhà sản xuất có thể gia tăng giá trị cho sản phẩm của
mình. Một khi người tiêu dùng biết chắc chắn hàng hóa định mua là sản phẩm thật sự
được bảo đảm về nguồn gốc, họ sẵn sàng trả giá cao cho sản phẩm đó. Tuy nhiên,
để có được điều đó cũng đòi hỏi bản thân các nhà sản phẩm phải tự hoàn thiện và
bảo đảm quy trình sản xuất, kinh doanh sản phẩm để có thể đưa ra thị trường các
sản phẩm có chất lượng ổn định, có nguồn gốc rõ ràng.
Hiện nay, Cục Sở hữu trí tuệ mới chỉ cấp 13 Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn
địa lý cho 11 sản phẩm trong nước và 2 sản phẩm nước ngoài (đó là “Thanh Hà” cho
sản phẩm vải thiểu quả, “Hải Hậu” cho gạo tám xoan, “Phú Quốc” cho sản phẩm
nước mắm, “Phan Thiết” cho sản phẩm nước mắm được sản xuất trên vùng lãnh thổ
- thuộc thành phố Phan Thiết, “Buôn Ma Thuột” cho sản phẩm cà phê, “Lạng Sơn” cho
sản phẩm hoa hồi, “Vinh” cho sản phẩm cam quả, “Tân Cương” dùng cho sản phẩm
chè, Mộc Châu dùng cho sản phẩm chè Shan tuyết, “Đoan Hùng” dùng cho sản phẩm
bưởi quả và ”Bình Thuận” cho sản phẩm quả thanh long. Cùng với 2 chỉ dẫn địa lý
của nước ngoài “Cognac” cho rượu và “Pisco” cũng cho sản phẩm rượu”. Nhưng
cũng mới chỉ có một vài địa phương đã hoàn thiện và đưa vào quản lý tương đối có
hiệu quả Quy chế quản lý và sử dụng chỉ dẫn địa lý của mình. Việt Nam còn có rất
nhiều đặc sản nổi tiếng và có giá trị xuất khẩu lớn như hồng ngâm Bắc Kạn, tương
Bần Hưng Yên, dừa Bến Tre.... Ông Stephane Passeri - chuyên gia trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ đến từ Pháp - cho rằng, nếu không được bảo hộ chỉ dẫn địa lý thì những
đặc sản này sẽ dần mất đi chỉ trong vòng 20 năm tới. Nông dân có thể sẽ chuyển
sang trồng những giống cây mới có năng suất hơn, do không nhận được nhiều lợi
nhuận từ những sản phẩm cũ. Theo ông Passeri, người dân ở EU hay nhiều nơi khác
trên thế giới sẵn sàng bỏ ra số tiền gấp đôi gấp ba, thậm chí gấp 5 lần để mua được
những sản phẩm nổi tiếng của một vùng miền nào đó. "Chẳng hạn như gà Gresse -
đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý - của Pháp được bán với giá đắt gấp 5 lần so với
những con gà bình thường, nhưng luôn rất đắt hàng", ông kể.
Về mặt chiến lược, chỉ dẫn địa lí có nhiều tác dụng kinh doanh mạnh mẽ giống
như tác dụng của nhãn hiệu hàng hóa.Tầm cỡ của những đặc sản địa phương có thể
được nâng lên trong con mắt người tiêu dung khi một cộng đồng người địa phương
và các thành viên của cộng đồng được hưởng độc quyền để sử dụng một chỉ dẫn địa
lí riêng biệt.
Ngoài ra, chỉ dẫn địa lí có thể bổ sung cho sản phẩm khả năng marketing rất năng
động, đặc biệt khi chất lượng làm nên sự nổi tiếng của một vùng được bảo hộ thực
sự bằng kinh nghiệm của người sử dụng qua thời gian vì chỉ dẫn địa lí vốn dĩ thuộc
sở hữu tập thể nên chúng là công cụ tuyệt vời đối với sự phát triển kinh tế khu vực
và kinh tế dựa trên cộng đồng
Ngoài việc tạo danh tiếng và nâng được giá của sản phẩm trên thương trường,
việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý còn giúp thu hút đầu tư và quảng bá du lịch cho vùng có
sản phẩm đặc sản đó.
3. Điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý.
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý tức bảo hộ độc quyền của cư dân thuộc một vùng sử dụng
chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm có nguồn gốc từ vùng đó. Trong Luật sở hữu trí tuệ
- 2005 không quy định thế nào là hộ chỉ dẫn địa lý nhưng đã quy định điều kiện bảo hộ
đối với chỉ dẫn địa lý tại điều 79:
“Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1.Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương,
vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý;
2.Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng,chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu
do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương,vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với
chỉ dẫn địa lý đó quyết định.”
Chỉ dẫn địa lý muốn được bảo hộ cần phải đáp ứng hai đièu kiện.
- Thứ nhất là sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý.
Ở đây ta thấy có hai vấn đề được đặt ra:
Một là thế nào là sản phẩm được coi là có nguồn gốc từ khu vực, địa phương,
vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý? Một sản phẩm mang chỉ dẫn
địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương
ứng với chỉ dẫn địa lý nếu như sản phẩm đó được sản xuất từ khu vực, địa phương,
vùng lãnh thổ hoặc nước đó. Như thế có nghĩa là tất cả các khâu tạo nên sản phẩm
đều phải được thực hiện tại nơi mà sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý.Tuy nhiên hiểu
như vậy có phần khắt khe ta có thể chia cách xác định nguồn gốc của hàng hóa ra làm
hai trường hợp:
+ Đối với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tạo ra từ ngành nghề truỳên thống mà
không phải là lương thực thực phẩm ví dụ như gốm Bát Tràng… Chất lượng đặc
tính riêng bịêt của sản phẩm gốm Bát Tràng không những được tạo nên bởi nguyên
liệu của địa phương, mà còn cả kĩ thuật quy trình chế tạo của người dân địa phương
đó.Nên dù có mang nguyên liệu từ làng Bát Tràng đi nơi khác sản xuất thì sản phẩm
cũng không đạt được chất lượng như sản xuất tại làng Bát Tràng. Vì thế sản phẩm
chỉ được coi là gốm Bát Tràng khi tất cả các công đoạn làm ra sản phẩm diễn ra ở
Bát Tràng.Với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tạo ra từ ngành nghề truỳên thống mà
không phải là lương thực thực phẩm thì sản phẩm chỉ được mang chỉ dẫn địa lý khi
mà tất cả các công đoạn làm nên sản phẩm được thực hiện ở nơi sản phẩm mang chỉ
dẫn địa lý.
+ Đối với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tạo ra từ ngành nghề truỳên thống là
lương thực thực phẩm ví dụ nước mắm Phú Quốc…. Nếu nguyên liệu là cá cơm
được ngưòi dân đảo Phú Quốc đánh bắt bằng phương pháp truyền thống, quy trình
chế biến ra nước mắn đều được thực hiện bởi người dân trên đảo Phú Quốc theo
- đúng quy trình truyền thống thì cho dù việc đóng chai, dán nhãn được thực hiện ở nơi
khác thì sản phẩm vẫn được coi là nước mắm Phú Quốc. Như vậy, dù một số công
đoạn thực hiện ở nơi khác nhưng những công đoạn tạo nên đặc tính riêng biệt cảu
sản phẩm được thực hiện ở nơi sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý thì sản phẩm vẫn
được xem là có nguồn gốc từ nơi đó.
Hai là khu vực, địa phương,vùng lãnh thổ được chỉ dẫn được xác định như thế
nào? Theo điều 83 Luật sở hữu trí tuệ thì khu vực mang chỉ dẫn địa lý có ranh giới
được xác định một cách chính xác bằng từ ngữ và bản đồ.
- Thứ hai là danh tiếng,chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của
khu vực, địa phương,vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết
định. Ở đ ây có thể hiểu theo bốn cách:
Một là chỉ được coi là có mối liên hệ giữa sản phẩm và điều kiện địa lý nếu sản
phẩm có đủ ba yếu tố danh tiếng,chất lượng và đặc tính chủ yếu.
Hai là sản phẩm sẽ được coi là có mối liên hệ giữa sản phẩm và điều kiện địa lý
khi sản phẩm đáp ứng được một trong hai yếu tố danh tiếng-chất lượng hoặc đặc
tính chủ yếu.
Ba là điều kiện địa lý mà sản phẩm mang chỉ dẫn mang lại cho sản phẩm hoặc
chất lượng hoặc danh tiếng hoặc đặc tính chủ yếu.
Bốn là sản phẩm được coi là có mối liên hệ vơí điều kiện địa lý nếu sản phẩm
đáp ứng được danh tiếng và chất lượng hoắc danh tiếng và chất lượng chủ yếu.
Có thể thấy nếu hiểu theo cách thứ nhất sản phẩm mà phải đáp ứng được cả ba
yếu tố danh tiếng, chất lượng và đặc tính thì quy định của pháp luật dường như là
quá chặt còn nếu hiểu theo cách thứ cách thứ ba nếu chỉ cần đáp ứng một yếu tố thì
chưa đủ để tạo nên mối liên hệ gữa sản phẩm và vùng địa lý mà sản phẩm mang chỉ
dẫn. Có thể nói hiểu theo cách thứ tư là hợp lý hơn cả.
- Các khái niệm có liên quan
+ Danh tiếng của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được xác định bằng mức độ tín
nhiệm của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó thông qua mức độ rộng rãi người
tiêu dùng biết đến và chọn lựa sản phẩm đó.(Theo khoản 1điều 81 Luật sở hữu trí
tuệ ).
+ Chất lượng đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được xác định bằng
một hoặc một số chỉ tiêu định tính, định lượng hoặc cảm quan về vật lý. Hoá học, vi
sinh và các chỉ tiêu đó phải có khả năng kiểm tra được bằng phương pháp kiểm tra
phù hợp .(Theo khoản 2 điều 81 Luật sở hữu trí tuệ )
- + Các điều kiện địa lý quyết định danh tiếng chất lượng đặc tính của sản phẩm
bao gồm yếu tố tự nhiên: khí hậu, thuỷ văn, địa chất, địa hình, hệ sinh thái….và yếu
tố về con ngưòi: kỹ năng kỹ xảo của người sản xuất, quy trình sản xuất truyền
thống của địa phương.(theo điều 82 Luật sở hữu trí tuệ).
ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ TÊN THƯƠNG MẠI
1.Khái niệm
Khái niệm tên thương mại được biết đến trong pháp luật của nhiều nước trên
thế giới. Tên thương mại là một trong những đói tượng sở hữu công nghiệp được
bảo hộ theo công ước Pari 1883 về sở hữu công nghiệp. Ở Việt Nam bảo hộ tên
thương mại là một khái niệm khá mới mẻ so với các đối tượng của bảo hộ sở hữu
công nghiệp như : sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
hàng hóa ...
Theo Khoản 21, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ tên thương mại được định nghĩa như
sau:
“ Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân sử dụng trong hoạt động kinh
doanh, dùng để nhận biết và phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ
thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực”.
Như vậy tên thương mại trước hết phải là tập hợp các chữ cái và chữ số phát âm
được.Tên thương mại bao gồm hai phần: Phần mô tả và phần phân biệt.
- Phần mô tả: là một tập hợp các từ có nghĩa mô tả tóm tắt loại hình doanh
nghiệp và lĩnh vực kinh doanh. Phần mô tả không có khả năng tạo nên tính phân biệt
cho tên thương mại (hai doanh nghiệp có tên thương mại khác nhau có thể có phần
mô tả giống nhau).
- Phần phân biệt: là tập hợp các chữ cái, chữ số phát âm được, có thể có nghĩa
hoặc không có nghĩa.
Ví dụ: Với tên Công ty TNHH xây dựng Thành Đô. Phần mô tả là “Công ty
TNHH xây dựng”, phần phân biệt là “Thành Đô”, phân biệt với “Công ty TNHH xây
dựng Tiến Thành”.
“Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam” không có khả năng phân biệt
(Tổng công ty - mô tả loại hình công ty; Bưu chính viễn thông- lĩnh vực hoạt động;
- Việt Nam - không có khả năng phân biệt). Vì vậy phải thêm dấu hiệu khác là
“VNPT” là tên giao dịch.
- Phân biệt giữa tên thương mại và nhãn hiệu hàng hóa
Nhãn hiệu hàng hóa là một khái niệm dễ gây nhầm lẫn với tên thương mại.
Nhưng đây là hai khái niệm khác nhau.
Trước hết, tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động
kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh
khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Khu vực kinh doanh quy định tại đây
là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng.
Ví dụ: Hai công ty: Công ty cổ phần thương mại và dược phẩm Trường An và Công
ty cổ phần thuốc thiên nhiên Việt Nam cùng năm trên địa bàn Quận Ba Đình và cùng
mua bán Dược phẩm.Như vậy, khi thành lập một doanh nghiệp thì phải đặt tên và sử
dụng tên đó để đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước (cơ quan thuế, sở kế hoạch
đầu tư) để có thể tiến hành hoạt động. Trong quá trình kinh doanh sẽ dùng tên
thương mại để giao dịch nhằm phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.
Chính vì thế, Tên thương mại phải bao gồm các từ ngữ, chữ số phát âm được và
một doanh nghiệp chỉ có một tên thương mại (có thể có tên đối nội và đối ngoại).
Ví dụ: CÔNG TY CỔ PHẦN THUỐC THIÊN NHIÊN VIỆT NAM (Viết tắt:
NAPHAVINA.,JSC ) NATURAL PHARMACY VIET NAM JOINT STOCK
COMPANY
Trong khí đó, Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa,
dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Ví dụ: FAHADO,
LACTACYD cùng là thuốc nhưng FAHADO là sản phẩm thuốc của Công ty Dược
phẩm Hà Tây, LACTACYD là sản phẩm thuốc của Công ty liên doanh dược phẩm
SANOFI Việt Nam.
Vì vậy, Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu
tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Một doanh nghiệp có thể sản
xuất nhiều loại sản phẩm hoặc có thể kinh doanh nhiều dịch vụ, như thế một doanh
nghiệp có thể có nhiều nhãn hiệu hàng hóa. Ví dụ: Công ty Dược và Vật tư y tế Phú
Yên (Pymepharco) có các sản phẩm thuốc sau: COLDFLU, GINVITON, EVEROSE,
…
Có thể đưa ra một số điểm để phân biệt giữa tên thương mại và nhãn hiệu hàng
hóa như sau:
Phân biệt Tên thương mại Nhãn hiệu hàng hóa
- Chức năng Là dấu hiệu để phân biệt cácLà dấu hiệu để phân biệt hàng hóa,
doanh nghiệp dịch vụ
Thành phần Từ ngữ, chữ số đọc được Từ ngữ, chữ số đọc được, hình ảnh,
cấu tạo màu sắc
Phạm vi Trong một địa bàn, trên một lĩnhTrên toàn quốc
bảo hộ vực
Thời hạn Không hạn chế 10 năm (có thể gia hạn nhiều lần,
bảo hộ mỗi lần gia hạn 10 năm)
2.Vai trò của bảo hộ tên thương mại
Việc bảo hộ tên thương mại nói chung có nghĩa là cơ sở kinh doanh khác không
được sử dụng tên thương mại của một cơ sở kinh doanh làm tên thương mại hay làm
nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ nhằm gây ra sự nhầm lẫn cho công chúng.
Việc bảo hộ này là nhằm chống lại các hành vi cạnh tranh trái với các hoạt động
trung thực trong công nghiệp hoặc trong thương mại.
Các hành vi đó có thể là:
- Hành vi tạo ra sự nhầm lẫn về cơ sở kinh doanh, hàng hoá hoặc các hoạt động
công nghiệp, thương mại của đối thủ cạnh tranh;
- Những tuyến bố giả mạo trong quá trình kinh doanh có mục đích làm mất uy
tín của cơ sở kinh doanh hàng hoá, hoặc của các hoạt động công nghiệp, thương mại
của các đối thủ cạnh tranh.
Để kịp thời ngăn chặn các chủ thể khác sử dụng Tên thương mại của mình, các
doanh nghiệp cần phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm. Pháp luật quy định thời hạn
hiệu lực để xử lý hành vi vi phạm Tên thương mại là một năm tính từ ngày phát hiện
ra hành vi đó, nhưng không quá ba năm tính từ ngày hành vi vi phạm xảy ra. Có nghĩa
là nếu doanh nghiệp để người khác sử dụng Tên thương mại của mình trong vòng ba
năm mà không phát hiện và xử lý, thì doanh nghiệp sẽ rất khó ngăn chặn người đó
tiếp tục sử dụng.
Bảo hộ tên thương mại là một công cụ pháp lý hữu hiệu nhằm cụ thể hóa hoạt
động kinh doanh, chủ thể kinh doanh và ngăn chặn các hành vi sử dụng uy tín kinh
doanh của người khác một cách không lành mạnh.
3.Các điều kiện bảo hộ đối với tên thương mại.
Theo điều 76, sLuật Sở hữu trí tuệ điều kiện chung đối với tên thương mại được
bảo hộ là:
- “Tên thương mại được bảo hộ nếu có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh
mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực
kinh doanh”
- Khái niệm có khả năng phâ n biệt của tên thương mại được hiểu là:
“Tên Thương mại sẽ được bảo hộ nếu không trùng hoặc tương tự đến mức gây
nhầm lẫn với tên Thương mại mà người khác đã sử dụng trước, trong cùng lĩnh vực
và khu vực kinh doanh” (Điều 78. Khoản 2)
“Tên Thương mại được bảo hộ nếu không trùng hoặc tương tự đến mức gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được bảo hộ trước ngày tên Thương mại
đó được sử dụng” (Điều 78. Khoản 3)
(Ngược lại, Theo điều 74 nếu dấu hiệu nêu trong đơn xin cấp Giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu bị coi là trùng hoặc tương tự với tên Thương mại đang được sử
dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người
tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ thì dấu hiệu đó sẽ không có khả năng được
bảo hộ.)
- Về giới hạn lãnh thổ bảo hộ của tên Thương mại , Nghị Định số 88/2006/NĐ-
CP về đăng ký kinh doanh cũng quy định rõ ràng
“...cấm đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng
ký trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” (Điều 11).
Việc giới hạn hiệu lực của tên Thương mại theo khu vực địa lý như vậy có phù
hợp với thực tế hay không ? Chẳng hạn như trong trường hợp sau:
“Công ty TNHH Hưng Thịnh” được cấp GCNĐK kinh doanh tại tỉnh A vào ngày
17/08/2003; Ngày 15/12/2006, Doanh nghiệp này tiến hành thủ tục lập chi nhánh tại
tỉnh B; Trước đó, ngày 27/11/2005, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh B đã cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh cho một doanh nghiệp khác có cùng tên “Công ty TNHH
Hưng Thịnh”. Vậy hồ sơ yêu cầu lập chi nhánh tại tỉnh B có được chấp nhận?
Mới hơn nữa, Nghị Định số 88/2006/ NĐ-CP cũng quy định khá chi tiết về việc
bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp khác, nhằm tránh xâm phạm quyền khi đặt
tên doanh nghiệp. Trong trường hợp tên doanh nghiệp (tên Thương mại ) bị coi là
trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đã
được bảo hộ trước ngày tên đó được sử dụng thì Doanh nghiệp phải đăng ký đổi tên
(Điều 11.4).
Nhưng thực tế thì lại cho kết quả hết sức bất ngờ, chỉ tính từ ngày Luật Doanh
nghiệp có hiệu lực thi hành, đã có không ít Doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà
Nội được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho cùng cái tên “HƯNG
- THỊNH”, tên đã được bảo hộ theo Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Cục Sở
hữu trí tuệ trước đó:
1. Nhãn hiệu “Hưng Thịnh” được bảo hộ theo Giấy chứng nhận đăng ký số
16650 cho dịch vụ xây dựng từ năm 1994;
2. Nhãn hiệu “Hưng Thịnh” được bảo hộ theo Giấy chứng nhận đăng ký số
25526 cho dịch vụ xuất nhập khẩu từ năm 1996.
Các doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận kinh dung với tên riêng Hưng
Thịnh trong lĩnh vực dịch vụ xây dựng và xuất nhập khẩu:
Tên Doanh nghiệp Số ĐKKD Ngày cấp Ngành nghề kinh doanh
Công ty cổ phần vận ...
tải và xây dựng Hưng 0103014727 28/11/2006 - Xây dựng các công trình ...
Thịnh - Công ty cổ phần sản xuất
Công ty cổ phần sản ...
xuất & xuất nhập 0103014733 27/11/2006 - Xây dựng các công trình
khẩu Hưng Thịnh - Dịch vụ xuất nhập khẩu…
Công ty cổ phần xuất
- Dịch vụ xuất nhập khẩu;
nhập khẩu Hưng 0103014757 24/11/2006
- Xây dựng các công trình ...
Thịnh
Công ty TNHH vận
0102028981 15/11/2006 - Dịch vụ xuất nhập khẩu
tải Hưng Thịnh
Công ty cổ phần
....
thương mại & khai
0103014146 12/10/2006 - Xây dựng các công trình
thác mỏ Tân Hưng
- Dịch vụ xuất nhập khẩu
Thịnh
Công ty cổ phần đầu
tư thương mại & sản 0103013500 16/08/2006 ... - Dịch vụ xuất nhập khẩu
xuất Hưng Thịnh
Như vậy, DN nào sẽ phải đổi tên? Đ ây sẽ là tổn thất rất lớn đối với những
doanh nghiệp phải đổi tên bởi họ đã phải đầu tư không ít công sức, tiền bạc để mọi
người biết đến cái tên - hay nói cách khác là thương hiệu của mình.
- Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa tên thương mại
“Tên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoặc
chủ thể khác không liên quan đến hoạt động kinh doanh thì không được bảo hộ với
danh nghĩa tên thương mại.” (điều 77 Luật sở hữu trí tuệ)
nguon tai.lieu . vn