Xem mẫu

  1. BÁO CÁO Đề tài " Nhà ở và chính sách tiền tệ " 1
  2. NHÀ Ở VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ JOHN B.TAYLOR THÁNG 09/2007 Những lời bình xét của tôi tập trung vào mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và sự xáo trộn gần đây trong thị trường nhà ở, tài chính nhà ở và nh ững th ứ xung quanh xa h ơn nữa. Tôi bắt đầu với việc nhìn lại giai đọan chính đối với cu ộc kh ủng h ỏang. Sau đó tôi sử dụng bài viết này như là một nền tảng cho vi ệc th ảo lu ận vai trò c ủa chính sách tiền tệ trong việc giải quyết những cuộc khủng hoảng như thế và ngăn chặn nh ững cuộc khủng hỏang trong tương lai. Một sự điều độ lớn của chu kỳ nhà ở Khi bạn nhìn lại suốt nửa thế kỷ qua ở Mỹ bạn sẽ thấy được m ột sự thay đổi trăm năm một lần đáng lưu ý trong chu kỳ nhà ở. Quan trọng h ơn h ết, tính ch ất không ổn định hay kích cỡ dao động trung bình trong việc xây dựng nhà ở đã suy gi ảm. S ự thay đối đã xảy ra vào đầu những năm 1980. Ví d ụ, so sánh hai giai đ ọan, giai đ ọan th ứ nhất là trước những năm 1980, giai đọan thứ hai là từ những năm 1980 tr ở đi. Trong giai đọan đầu, sự lệch chuẩn trong việc đầu tư vào nhà ở liên quan đ ến xu h ướng là khoảng 13%; trong giai đọan sau nó là 5%, và con số này bao gồm sự sao động gần đây nhất, con số này lớn hơn nhiều so với mức trung bình từ đầu những năm 1980. Ngoài chu kỳ hiện nay, sự giảm sút sẽ còn lớn hơn nữa. Theo tôi, sự suy giảm trong việc không ổn định này lớn là do m ột chính sách ti ền t ệ đã được cải thiện, và nó có liên quan mật thiết đến sự đi ều đ ộ lớn c ủa tính ch ất không ổn định của GDP thực và lạm phát, cái mà nhi ều nhà nghiên cứu đã quy là do chính sách tiền tệ. So với giai đọan đầu, chính sách ti ền tệ đã ph ản ứng nhi ều h ơn t ừ đ ầu những năm 1980 đối với sự thay đổi trong lạm phát và GDP thực. Nó cũng đã d ự đoán trước được nhiều hơn và hệ thống hơn trong phản ứng c ủa nó. Đi ều này đã đ ược d ẫn chứng sử dụng quy tắc Taylor, nơi mà hệ số phản ứng đ ối v ới l ạm phát đã gia tăng t ừ ít hơn một đến nhiều hơn một, nơi mà hệ số phản ứng đ ối v ới sản l ượng th ực cũng đã gia tăng. Những phản ứng đáp lại cao hơn và có thể tiên đóan trước nhi ều h ơn này đã giúp chế ngự lạm phát và giữ nó vững chắc hơn, do đó làm giảm chu kỳ bùng phát phá sản và kết quả những dao động lớn về tỉ lệ lãi suất mà đã bị gây ra bởi việc nhà ở không ồn định. Có những sự giải thích khác có thể, bao gồm việc tranh luận rằng nhà ở đã tr ở nên ảnh hưởng ít hơn bằng sự thay đổi đã được đưa ra trong tỉ lệ các qu ỹ liên bang liên quan đến sự an toàn và việc bãi bỏ quy định tỉ lệ đặt cọc. Tuy nhiên, ước tính hi ệu quả của sự thay đối trong tỉ lệ các quỹ liên bang của tôi cho thấy không có bằng chứng của một sự thay đổi như thế giữa hai giai đọan. Hơn thế n ữa, không có sự gi ải thích nào khác mà tôi nhận thức được có sự điều hòa thời gian chính xác đến như th ế. Vì thế, mặc dù chủ đề này sẽ được tranh luận trong một thời gian dài nh ưng tôi nghĩ có 2
  3. bằng chứng thuyết phục rằng chính sách Dự Trữ Liên Bang đã có ý nghĩa đ ối v ới s ự cải thiện quan trọng này. Những giai đoạn phát triển vừa qua Tuy nhiên,việc xem xét lại 1 cách cẩn thận các quyết đ ịnh v ề lãi su ất cho th ấy trong vài năm nó đã không thực sự phù hợp với sự miêu tả c ủa chính sách. Trong su ốt khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm 2006 lãi suất quỹ liên bang ở m ức tốt d ựa theo kinh nghiệm mà nền kinh tế vĩ mô trong 2 th ập k ỉ tr ước đã ch ỉ ra – giai đo ạn đi ều chỉnh lớn - như đã được dự đóan. Các đường lối chính sách luật đã chỉ ra r ất rõ ràng.Cũng có những giai đọan khác suốt thời kỳ điều chỉnh lớn khi mà lãi su ất qu ỹ liên bang đi ngược lại với những đáp ứng của các luật lệ chính sách tiêu bi ểu - đ ặc bi ệt là vào mùa thu năm 1998 - nhưng đây lại là m ột sự sai l ầm to l ớn, đ ược so sánh v ới s ự náo loạn của những năm 1970. Nhiều người tranh cãi rằng về lãi suất thấp - ho ặc sự cung c ấp số l ượng l ớn thanh khoản mà họ yêu cầu - giúp đẩy mạnh 1 cách bất thường về đột biến trong những nhu cầu nhà ở. Như các chuyên gia kinh tế gần đây đã đ ưa ra, "B ằng cách gi ảm b ớt lãi suất (do nhiều hơn nguyên tắc Taylor quy định) FED khuyến cáo sự bùng n ổ v ề giá nhà ...." Với tỉ lệ tiềm mặt thấp trong thị trường, nhu c ầu tài chính về nhà ở đã rất r ẻ và hấp dẫn - đặc biệt là tỷ lệ thế chấp thay đổi với những vấn đề hóc búa mà người cho thuê đã yêu cầu. Nhà ở bắt đầu nhảy vọt tăng cao 25 năm vào cu ối năm 2003 và vẫn còn cao cho đến khi sự sụt giảm bất thường bắt đầu từ đầu năm 2006. Các nhu cầu đột biến trong nhà ở đã dẫn đến m ột sự lạm phát đ ột bi ến v ề giá nhà mà đã ở mức cao từ giữa những năm 1990. Những tỷ lệ lạm phát về giá nhà ở đo bằng chỉ số giá OFHEO đạt đến mức 10 phần trăm so với chỉ số hàng năm trong quý IV năm 2004 và trên 10 phần trăm còn lại cho hai năm; lạm phát nhà ở v ượt 20 ph ần trăm đo theo chỉ số Case-Shiller của thời kỳ này. Sự nhảy vọt về tỉ lệ lạm phát c ủa giá nhà kéo theo sự tăng tốc các nhu cầu về nhà theo hình dáng của 1 vòng xoắn ốc đi lên. Với giá nhà ở tăng lên 1 cách nhanh chóng, tỉ lệ n ợ quá hạn và t ịch biên tài s ản th ế ch ấp đã giảm trong thị trường thứ cấp, dẫn đến nhiều thuận lợi về xếp hạng tín dụng h ơn việc duy trì đến cuối cùng. Khi tỉ lệ lãi suất ngắn hạn trở lại mức ban đầu, nhu c ầu nhà ở nhanh chóng giảm xuống kéo theo đồng thời sự giảm xu ống v ề vi ệc xây d ựng và sự lạm phát giá nhà. Tỉ lệ nợ quá hạn và tịch biên tài sản thế chấp đã tăng v ọt b ất thường, dẫn đến sự sụp đổ của thị trường thứ cấp và trên tất cả sự đảm bảo đã phát sinh từ thi trường thứ cấp. Điều quan trọng là quan tâm đến các đối số có hệ thống. Và dĩ nhiên đó là lý do tốt đựơc đưa ra trong thời điểm này cho thời kỳ kéo dài tỉ lệ lãi suất thấp, quan trọng nhất là nguy cơ bão hòa theo là một kinh nghiệm của Nhật Bản vào gi ữa những năm 1990. Tuy nhiên với thời gian qua chúng tôi có thể hiểu rõ h ơn v ề các ph ần c ủa chính sách này, và do đó tìm hiểu các bài học cho tương lai. Một phương pháp phản thực Phương pháp cơ bản cho việc điều tra những câu hỏi đó là “kịch bản căn cứ vào sự thật”. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như có một con đường khác mà lãi su ất qu ỹ Liên bang đi theo? Để trả lời câu hỏi này con người c ần mô hình kinh t ế mà nó di ễn t ả chính sách tiền tệ - trong một trường hợp cụ thể của lãi suất quỹ Liên bang – tác đ ộng đ ến nhà ở. Sau cùng, con người cần mô hình kinh tế quốc tế với nh ững sự d ự đoán n ội sinh (có lý) trong việc đầu tư vào nơi ở của mỗi quốc gia là m ột hàm số c ủa lãi su ất, 3
  4. bao gồm cả lãi suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn trong th ực t ế, nh ư trong mô hình đa quốc gia của Taylor là một ví dụ. Vì mục đích của việc đi ều ch ỉnh chính sách, tôi đã chọn cách tiếp cận thẳng thắn. Tôi đã ước lượng nhà ở bắt đầu sự cân bằng v ới lãi suất quỹ Liên bang như một biến để giải thích. Sự cân bằng đã đ ược ước l ượng v ới ¼ số liệu trong giai đoạn gần 50 năm từ quý hai của năm 1959 đến quý hai năm 2007. Mô hình diễn tả một tác động mạnh, đầy ý nghĩa của lãi suất quỹ Liên bang lên th ị trường nhà đất cái mà xảy ra với sự chậm chạp. Độ co giãn của lãi suất cũng tương tự với những cái được tìm thấy trong những mô hình phức tạp h ơn như mô hình Topel và Rosen (1988); một nửa độ co giãn là gần -8.3 (Một n ửa sự co giãn được ước lượng là -8.9 tại giai đoạn trước 1984.1 và -8.6 tại giai đoạn sau 1984.1). Tôi dựa theo mô hình này dưới 2 giả định: (1) lãi suất qu ỹ Liên bang tuân theo con đường hiện thời của nó và (2) lãi suất quỹ Liên bang tuân theo m ột quy lu ật c ủa Taylor, dễ dàng để có sự điều chỉnh tăng thêm 25 điểm cơ bản được sử dụng bởi FED trong những năm gần đây. Hình 1 biểu diễn hai đường cho lãi suất quỹ Liên bang. Hình 1 Quan sát thấy rằng đường thật sự và đường thay thế bắt đầu từ quý 2 năm 2002 và gặp lại lần hai tại quý 3 năm 2006. Tôi nhấn m ạnh rằng đó ch ỉ là m ột trong nhi ều cách để tiến hành một cuộc điều tra sự thật như thế. Ở đây tôi dùng CPI nh ư là m ột thước đo của lạm phát và những hệ số phản hồi giả định của 1.5 và 0.5 trong lạm phát và GDP thực, một cách tương ứng. Tôi thấy rằng việc dùng một đ ường t ương t ự nhưng không mượt tìm ra bởi Poole (2007) đưa ra các k ết qu ả t ương t ự nhau. Cũng có khả năng để đưa các đường “đếm sự thật” giảm xuống một % và nâng nó lên nhanh hơn đường thật sự. Sự thay thế quan trọng nhất sẽ là mô phỏng nh ững đ ường này v ới 4
  5. những luật phản hồi hơn là nó khắc phục những đường này trong nh ững tr ường h ợp mà lãi suất không tăng lên đến 5.25%. Hình 2 biểu diễn những kết quả của sự mô phỏng dùng k ịch bản “đ ếm s ự th ật” trong hình 1 và so sánh nó với những dữ liệu trong quá khứ. Những sự mô ph ỏng này b ắt đầu từ quý tư năm 2000; trong suốt giai đoạn mà chính sách đang hiện hành, đường mô phỏng theo dấu những dữ liệu quá khứ trong thị trường nhà đất r ất sát. Khi nh ững đường bắt đầu con người thấy cách mà thị trường nhà đất bùng n ổ ti ếp t ục cùng v ới lãi suất thực sự (được dán nhãn là một mô phỏng động), nhưng không có nhi ều s ự tăng nhỏ hơn trong thị trường nhà đất với sự mô phỏng “đ ếm sự th ật” c ủa m ột lãi suất quỹ Liên bang cao hơn. Do đó, một đường lãi su ất cao h ơn s ẽ tránh đ ược nhi ều sự bùng nổ hơn của thị trường nhà đất, dựa theo mô hình này. Hình 2 Những nhà phân tích đã đề nghị rằng sự đảo ngược của sự bùng nổ và do đó sự r ối loạn của thị trường đã không căng thẳng. Mặc dù mô hình không đ ưa ra tiên đoán m ột kết thúc bất ngờ cho sự bùng nổ của thị trường nhà đất như trong d ữ li ệu quá kh ứ khi lãi suất quỹ Liên bang nằm trên đường thật sự . Tuy nhiên sự rơi mạnh mẽ thường diễn ra tại thời điểm cuối của sự bùng nổ bởi vì sự thay đổi nhanh chóng sẽ làm dẫn đến những sự tiên đoán lạm phát trong thị trường nhà đất. Th ật v ậy, có m ột quan h ệ tương tác chặt chẽ sự lạm phát giá nhà đất với sự xây dựng nhà ở (trong kỹ thuật gọi là luật nhân quả Granger). Đặt sự lạm phát nhà đất trong sự cân b ằng v ới th ị tr ường nhà ở, và thêm một phương trình cân bằng để giải thích sự lạm phát nhà đ ất, giúp cho 5
  6. việc giải thích hơn nữa sự suy giảm trong hình 3. Nhưng yếu tố tâm lý v ẫn đ ược xem như là đang hiện hữu trong kết thúc của sự bùng nổ. Hình 3 Lãi suất dài hạn Một yếu tố đang làm phức tạp vấn đề trong việc xem xét lại thời kỳ này đó là khi lãi suất quỹ liên bang tăng thì lãi suất dài hạn đã không tăng nhiều nh ư mong đ ợi t ừ kinh nghiệm trong quá khứ trong suốt giai đoạn điều chỉnh lớn. M ột sự gia tăng l ớn h ơn trong lãi suất dài hạn rõ ràng đã làm gi ảm nhẹ sự bùng n ổ th ị tr ường nhà ở th ậm chí với lộ trình thực của lãi suất quỹ. Một trong những sự giải thích cho biểu hiện bất thường c ủa lãi su ất dài hạn là vi ệc tiết kiệm toàn cầu rất cao đã điều chỉnh lãi suất dài hạn thực giảm xuống. Tuy nhiên, ở một vài quốc gia trong khi lãi suất tiết kiệm cao thì lãi suất ti ết kiệm toàn c ầu l ại không cao. Theo dữ liệu của IMF, lãi suất toàn cầu là 21% GDP trong giai đo ạn 2003 – 2005 so với 25% trong những năm đầu 1970. Một giải thích khác cho lãi suất dài hạn thấp đó là chúng là m ột h ệ qu ả tr ực ti ếp c ủa sự sai lệch lớn từ sự phản ứng lại của lãi suất ngắn hạn tiêu biểu. Lãi su ất dài h ạn phản ứng lại để thay đổi lãi suất ngắn hạn đuợc mong đ ợi trong t ương lai. N ếu th ời 6
  7. kỳ lãi suất thấp được hiểu như một minh chứng của sự thay đổi trong vi ệc phản ứng lại của chính sách làm thay đổi lạm phát, sau đó những sự mong ch ờ lãi su ất có th ể suy giảm bởi vì những quyết định về chính sách ở những kỳ trả nợ cuối cùng. Thực chất, những nguyên tắc chính sách đã được thực hiện trong giai đo ạn 2003 – 2005 cho thấy một sự suy giảm đáng kể lãi suất quỹ liên bang để đối phó với lạm phát. Tình trạng này xảy ra ít nhất là thấp như những năm cuối th ập niên 1960 và 1970. Nh ư được thảo luận trong Smith và Taylor ( 2007), điều này có thể dẫn d ắt nh ững nhà đ ầu tư tin tưởng rằng có một sự thay đổi trong chính sách sẽ làm giảm đi sự phản ứng l ại của lãi suất dài hạn. Một bài học chính ở đây là sự sai lệch lớn từ doanh nghiệp như là nguyên tắc chính sách thông thường thì khó khăn cho những người tham gia thị tr ường để giải quyết và có thể làm thay đổi đột ngột trong những ph ản ứng khác trong n ền kinh tế. Tỷ lệ tịch thu tài sản và lãi suất quá hạn trong thị trường thứ cấp Sự lạm phát khác thường về nhà ở trong suốt thời kỳ này cũng liên quan gần gũi đ ến những vấn đề trong thị trường thế chấp. Trong khi lãi suất th ấp đã làm tăng cung những nguồn quỹ đến thị trường thế chấp. Có minh chứng rằng lạm phát nhà ở cao đã đưa đến dấu hiệu giảm tỷ lệ tịch thu tài sản và lãi suất quá hạn. Hình 4 Như vậy là mối quan hệ này không phải là một hiện tượng mới như Hình 5 cho th ấy. Tỷ lệ nợ quá hạn trong Hình 5 bao gồm tất cả các loại tài sản th ế ch ấp (các tài s ản 7
  8. thế chấp có tỷ lệ cố định và có thể hiệu chỉnh, sơ cấp / thứ cấp). Kiểm tra hồi quy đối với các hệ số khác cũng cho thấy một mối tương quan tương tự. Hình 5 Tuy nhiên theo quan sát, khi giá nhà đất bắt đầu giảm do lạm phát, tỷ lệ nợ quá hạn và tịch thu tài sản thế chấp tương đối thấp trước kia đảo ngược m ột cách m ạnh m ẽ. Nhưng trước đây sự đảo chiều của nhiều tài sản thế chấp và chứng khoán bảo đ ảm bằng tài sản đã được ban hành cùng với xếp hạng tín d ụng đã phản ánh t ỷ l ệ n ợ quá hạn thấp bất thường. Chỉ sau này xếp hạng tín dụng đã được giảm. Đánh giá mức đ ộ rủi ro là đặc biệt khó khăn khi chứng khoán đảm bảo bằng tài sản mà nó k ết h ợp v ới các hình thức rủi ro khác. Các chương trình được vi ết t ự đ ộng hóa mà nó nhìn vào m ột phần của dân số để định lượng nợ quá hạn và xác suất tịch thu tài sản thế chấp có thể dễ dàng bị bỏ lỡ thời gian của hàng loạt các ảnh hưởng của sự thay đổi trong lạm phát cho các thị trường mới hơn như là các tài sản thế chấp với tỷ lệ có thể điều chỉnh so với thứ cấp. Vì vậy, người dân đã mua những chứng khoán này mà không bi ết r ủi ro họ đã gánh chịu. Giá cả của những chứng khoán này là khó khăn với tỷ lệ l ạm phát cao bất thường trong thị trường nhà ở, nhưng cuối cùng phí bảo hi ểm r ủi ro đã đi ều chỉnh để phản ánh đúng thực tế. Ví dụ, chỉ số chứng khoán Markit ABX bao g ồm tài sản thế chấp thứ cấp trong suốt 6 tháng cuối năm 2006 đã rơi từ kho ảng 82 xu ống 38 kể từ tháng 2 năm nay. Phần cuối cùng và rất quan trọng của bài vi ết này là sự th ảo lu ận chính sách liên quan tới sự lây lan tình trạng hỗn độn trong thị trường thứ cấp đến các thị trường khác. Nó 8
  9. xuất hiện sự lây lan này dựa trên nguyên tắc cơ bản, ho ặc nhận thức v ề nguyên tắc cơ bản hơn là lây truyền rộng lớn hơn như chúng ta đã thấy trong thập niên 90. Các văn kiện đính kèm nói về những khoản mục chọn lựa đối v ới ch ứng khoán b ảo đ ảm bằng tài sản (thanh khoản bằng tài sản) và nói về trái phi ếu công ty trong hạn định so sánh (đã nêu tại BBB hoặc mục A) sẽ được giải thích cụ thể trong đồ thị 6 và 7. Biên độ giữa Ngân khố hoa kỳ và nợ thị trường đang n ổi được thể hiện trong hình 8 và 9. Các chính sách kinh tế rõ ràng ở các quốc gia có thị trường đang n ổi đã tăng tr ưởng mạnh mẽ từ thập niên 90 và xứng đáng để cho các lãnh đạo ngân hàng tung ra các sản phẩm tín dụng, nhiều người đang có m ặt ở hội ngh ị này, bao g ồm Th ống đ ốc Yilmaz của Thổ Nhĩ Kỳ, Toukan của Jordan, Al-Shabibi của Iraq, Al-Sayari c ủa Ả R ập Saudi, Meirelles của Brazil, Redrado của Argentina, Mboweni c ủa Nam Phi, và Mohan của Ấn Độ. Các bài học thực tiễn Những tác động của chính sách tiền tệ trong bài viết này là gì? Th ứ nh ất, chính sách tiền tệ phải có phuơng pháp, có dự đoán trước, dựa trên các nguyên t ắc c ơ b ản đang hoạt động hiệu quả trong suốt giai đoạn điều độ lớn (Great Moderation). Tức là, đi ều chỉnh lãi suất ngắn hạn theo sự phát triển của kinh tế vĩ mô trong thời kỳ l ạm phát và GDP thực và đề phòng sự điều chỉnh dựa trên các yếu tố khác. Thứ hai, cung cấp tất cả các quỹ mà các ngân hàng muốn n ắm gi ữ ở th ị tr ường liên ngân hàng tại lãi suất qua đêm. Các điều chỉnh này thay đổi bất thường trong nhu c ầu về tiền mặt và tiền gửi của ngân hàng trung ương, hoàn toàn phù h ợp v ới các ki ến nghị đầu tiên là không điều chỉnh lãi suất cơ bản trừ khi có những thay đổi của n ền kinh tế vĩ mô. Đây là chính sách thị trường mở được sử dụng trong th ời gian gần đây, đặc biệt là vào ngày 09 và 10 tháng tám và được sử dụng cao đ ộ trong nh ững ngày trước và sau 09/11. Theo sau hai nguyên tắc có thể dự đoán này là cách tốt nhất để tránh r ủi ro v ề đạo đ ức và thuyết phục mọi người rằng: Đừng nên “đặt” niềm tin ngân hàng trung ương sẽ trả tiền cho các nhà đầu tư cá nhân. Nếu những nhà đầu tư hiểu và tin t ưởng r ằng chính sách điều chỉnh lãi suất chỉ xảy ra nếu kinh tế vĩ mô có khuynh h ướng thay đ ổi, sau đó họ sẽ biết rằng cục dự trữ liên bang Mỹ sẽ không làm gì khác đ ể giúp h ọ thoát kh ỏi sự đầu tư mạo hiểm của chính họ và thảy ra những người thua cu ộc. N ếu đ ồng ti ền giảm giá trong thị trường nhà ở, hoặc ở thị trường trái phiếu thương m ại là nguyên nhân GDP và/hoặc lạm phát giảm rõ rệt, thì việc cắt giảm lãi suất quỹ liên bang sẽ hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc này. Thứ ba, để làm rõ chính sách trên thì có nhiều điều cần phải làm. Ví dụ, Fed có th ể công bố bảng cân đối trên cơ sở hàng ngày, ho ặc ít nhất là "c ấn đ ối c ủa Fed" mà các ngân hàng giữ tại Fed. Bằng cách đó các bên tham gia vào thị tr ường có th ể xác đ ịnh ngay lập tức nhu cầu gia tăng bao nhiêu số dư đang đ ược Fed cung c ấp. Các thông tin mà hiện đã được công bố không đủ lớn để hình dung nhu c ầu ti ền m ặt trên th ị tr ường tiền tệ, vì các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc cung cấp. Những thông tin v ề vi ệc cung cấp hàng ngày "cân đối của Fed" trong báo cáo năm 2001 v ề ho ạt đ ộng th ị trường mở (Kos (2002), pp. 21-25) là một ví dụ rất hữu ích c ủa các dữ li ệu trong su ốt thời gian bất ổn của thị trường. Dữ liệu công bố hằng ngày trong th ời gian th ực s ẽ tăng lên rõ ràng, minh bạch. 9
  10. Thứ tư, còn có những hành động trực tiếp khác mà c ần đ ược th ực hi ện trong tình hình hiện tại bao gồm cả việc giải trình của các chủ tài sản và nâng cao giám sát các ho ạt động "mất cân đối” như là một điều phải làm. Nếu có kế hoạch cho các ngân hàng nhận các tài sản bảo đảm bằng thương phiếu và rời khỏi các câu h ỏi sau đó, sau đó điều này có thể được thực hiện minh bạch hơn. Cuối cùng, theo chiều hướng quốc tế, như tôi đã đề cập trước, các qu ốc gia có th ị trường mới nổi với nguồn dự trữ lớn của họ và các cải tiến trong chính sách chưa ảnh hưởng nhiều bởi các cuộc khủng hoảng hiện nay. May m ắn cho IMF là đã không cung cấp nguồn tiền và chúng tôi có thể hy vọng rằng tình hình t ương đ ối may m ắn này được tiếp tục. Nếu tình trạng này thay đổi, tôi hy vọng rằng những thay đ ổi c ủa IMF tuân thủ vào Khung truy cập đặc biệt (Exceptional Access Framework) mới của nó mà cung cấp cùng một loại dự đoán trước đến các quyết định cho vay như tôi đã thảo luận và rất cần thiết cho các quyết định của ngân hàng trung ương. Tài liệu tham khảo: 1. Kos, Dino (2002), “Domestic Open Market Operations During 2001,” Federal Reserve Bank of New York, February. 2. Poole, William (2007), “Understanding the Fed,” Federal Reserve Bank of St. Louis, Review, January/February, Vol. 89. No. 1, pp. 3-14. 3. Topel, Robert and Sherwin Rosen (1988), “Housing Investment in the United States,” Journal of Political Economy, Vol. 96, No. 4, pp. 718-740. 4. Smith, Josephine M. and John B. Taylor (2007), “The Link between the Long End and the Short End of Policy Rules and the Yield Curve,” Stanford University. 5. Taylor, John B. (1993), Macroeconomic Policy in a World Economy: From Econometric Design to Practical Operation, W.W. Norton, New York. 10
  11. Nguồn: Merrill Lynch Hình 6 Nguồn: Merrill Lynch Hình 7 11
  12. Nguồn: JPMorgan Hình 8 Nguồn: JPMorgan Hình 9 12
nguon tai.lieu . vn