Xem mẫu

  1. ĐỀ TÀI: Môi trường sinh thái đô thị trong quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị 1. Lời mở đầu: Xây dựng và phát triển đô thị là một trong những mục tiêu quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong đó tăng trưởng kinh tế là nhân tố có tính chất quyết định đối với sự phát triển của đô thị. Tăng trưởng kinh tế ở đô thị sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế của cả đất nước cùng phát triển. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá là một tất yếu của phát triển kinh tế xã hội, song sự phát triển kinh tế ở đô thị luôn mang theo những hậu quả xấu đến môi trường sinh thái. Thực tế tăng trưởng kinh tế và môi trường đô thị có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Một mặt tăng trưởng kinh tế làm thay đổi diện mạo đô thị, tạo nên những không gian mới, môi trường mới cho con người, mặt khác chúng làm ảnh hưởng không nhỏ, gây ô nhiễm – suy thoái môi trường sinh thái. Trước tình hình đó, việc bảo vệ – giữ gìn môi trường sống của con người là yêu cầu cấp bách của chiến lược phát triển kinh tế. Bởi môi trường là nơi cung cấp cho con người nguồn sống, cung cấp cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá những tiền đề – cơ sở quan trọng để phát triển. Chương I: Tìm hiểu về môi trường sinh thái đô thị và tăng trưởng kinh tế đô thị. 1.1 Môi trường sinh thái tự nhiên và môi trường sinh thái đô thị: * Môi trường sinh thái tự nhiên có 3 tính năng: + Cung cấp cho hoạt động của con người nguồn tài nguyên vật chất như ánh sáng, không khí, nước, đất và một khối lượng lớn tài nguyên sinh vật và khoáng sản. + Làm sạch các chất phế thải trong hoạt động kinh tế của con người. + Cung cấp cho đời sống của con người những nguồn không khí thoáng mát, trong lành. Đồng thời cung cấp nguồn tài nguyên vật chất để đáp ứng nhu cầu tinh thần và nâng cao phúc lợi xã hội cho con người. Như vậy môi trường sinh thái tự nhiên là cơ sở và điều kiện sinh tồn – phát triển của con người, cũng là điều kiện để phát triển kinh tế – xã hội. * Sự khác biệt quan trọng giữa môi trường sinh thái đô thị với môi trường sinh thái tự nhiên, chủ yếu biểu hiện ở tính xã hội, tính lệ thuộc và tính dễ biến đổi. 1
  2. + Môi trường sinh thái đô thị có tính xã hội. Hệ thống sinh thái chịu tác động sâu sắc của chế độ xã hội, điều kiện kinh tế và trình độ khoa học kỹ thuật, văn hoá của con người. Chủ thể của hệ thống sinh thái đô thị là con người, các điểm dân cư đô thị, theo đặc điểm tập trung dân cư và tập trung kinh tế xã hội mà tạo lập một môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế xã hội phù hợp cho phát triển. + Môi trường sinh thái đô thị có tính lệ thuộc. Thay cũ đổi mới của hệ thống sinh thái tự nhiên, năng lượng cung cấp cho hệ sinh thái được chuyên chở từ nhiều nguồn. Đồng thời còn phải cung cấp cho hệ thống một khối lượng lớn nguyên vật liệu cần thiết cho sản xuất, đời sống của con người, đào thải ra ngoài những nguồn phế phẩm và bán thành phẩm. Khi các chất phế thải đào thải ra vượt quá khả năng điều tiết dẫn đến ô nhiễm môi trường đô thị và không gian xung quanh đô thị. + Tính dễ biến đổi. Hệ sinh thái đô thị có chủng loại sinh vật đơn điệu, kết cấu đơn giản nên dễ bị biến đổi. Khả năng chống chịu kém, nên dễ bị ảnh hưởng của các nhân tố môi trường. Cân bằng sinh thái đô thị rất dễ bị phá hoại. Các nhân tố sinh vật, phi sinh vật và nhân tố xã hội của hệ sinh thái đô thị đều là những nhân tố môi trường của hoạt động nhân loại. Chúng tác động và ảnh hưởng đến hoạt động sống của con người, và đồng thời trong quá trình xây dựng và phát triển đô thị con người cũng tác động đến hệ thống các nhân tố thuộc môi trường sinh thái ở đô thị. 1.2 Kinh tế đô thị và tăng trưởng kinh tế đô thị: * Chúng ta có thể hiểu kinh tế đô thị: - Là tổ hợp có hệ thống của một số ngành kinh tế phi nông nghiệp, các ngành này đặc trưng cơ bản là tập trung về địa lý, tiến bộ về công nghệ, chuyên môn hoá hệ thống tổ chức và hiệu quả kinh doanh cao, chúng không chỉ phân bố ở các ngành sản xuất vật chất và các ngành kinh doanh mà còn bao gồm các ngành sinh hoạt xã hội như dịch vụ, du lịch, tiền tệ, bảo vệ môi trường, phúc lợi xã hội. Đó là tính chất khác nhau về chất của đô thị, cũng là toàn bộ cơ sở của tăng trưởng kinh tế đô thị. - Về nội dung vật chất, là tập hợp của cả xã hội không chỉ gồm các yếu tố sản xuất vật chất như đất đai, tài nguyên, sức lao động, mà còn gồm các yếu tố sinh hoạt đô thị như các lọai hàng hoá lưu động, các loại kiến trúc và các công trình công cộng…đây là tế bào vật chất của đô thị. * Từ những phân tích cho thấy tăng trưởng kinh tế đô thị bao gồm 3 mặt nội dung là tăng trưởng giá trị, tăng trưởng dân số và tăng trưởng vật chất. Từ quá trình sản xuất ra 2
  3. các loại của cải vật chất và dịch vụ của đô thị, thấy được rằng các ngành phi sản xuất vật chất và các ngành kết cấu hạ tầng đô thị cũng có ý nghĩa quan trọng như ngành sản xuất vật chất trực tiếp. Tính tiên tiến của quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị không chỉ có tính hợp lý ở tỷ lệ các yếu tố vật chất và tính hiệu quả của quá trình sản xuất vật chất mà còn ở tính tiên tiến và hợp lý ở phương thức kết hợp toàn bộ các ngành kinh tế đô thị như các ngành sản xuất vật chất với ngành kết cấu hạn tầng, sự ăn khớp giữa các ngành kinh tế chủ đạo với toàn bộ các ngành kinh tế của đô thị. Các giai đoạn phát triển khác nhau, điều kiện môi trường kinh tế xã hội khác nhau ba lọai tăng trưởng đều có ý nghĩa khác nhau đối với quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị. Tăng trưởng giá trị, tăng trưởng dân số và tăng trưởng vật chất luôn quan hệ mật thiết với nhau và tác động qua lại lẫn nhau. Các ngành kinh tế hiện đại đều có sự dung hoà kinh tế – xã hội rõ ràng, được biểu hiện tập trung ở sự phát triển của quá trình tổng hợp hoá, thông tin hoá, xã hội hoá của các ngành trong đô thị. Chương II. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường đô thị. 2.1 Tác động của tăng trưởng kinh tế tới môi trường đô thị. Lịch sử ra đời và phát triển của ngành công nghiệp luôn gắn liền với những vấn đề về môi trường sinh thái. Nhưng từ lâu, trong quá trình sản xuất và trong đời sống của mình con người chỉ chú ý đến những lợi ích vật chất, cùng những hiệu quả kinh tế trước mắt. Con người trở nên coi thường những ảnh hưởng và tác động của môi trường tự nhiên tới quá trình sinh tồn và phát triển của mình. Ở thời kỳ đầu phát triển đô thị, môi trường sinh thái đô thị nhìn chung là cân bằng, quan hệ giữa đô thị với những khu vực xung quanh là quan hệ cộng sinh. Đến khi đô thị phát triển nhanh chóng cùng với tốc độ đô thị hoá mạnh mẽ, đã vượt qua khả năng của môi trường đô thị đương thời làm cho hệ sinh thái đô thị bị mất cân bằng, quan hệ cộng sinh đã trở thành quan hệ ký sinh. Sự xuất hiện của công nghiệp đại cơ khí làm cho kinh tế hàng hoá có sự phát triển to lớn dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của đô thị. Một mặt công nghiệp hoá và đô thị hoá cung cấp điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần chưa từng có cho con người, nhưng đồng thời cũng đem lại những áp lực và sự ảnh hưởng lớn tới môi trường tự nhiên. Tăng trưởng kinh tế đô thị là một quá trình tăng trưởng về vật chất, quy mô dân số và giá trị. Sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế đô thị đã có những tác độn g mạnh mẽ tới 3
  4. môi trường sinh thái đô thị. * Trước hết, những thành tựu của việc tăng trưởng kinh tế sẽ có những tác động tiến bộ tới môi trường sống của con người. Sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng và các cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho đời sống của con người đã trực tiếp làm thay đổi diện mạo cũng như cảnh quan xung quanh môi trường sống của con người. Tạo lập một môi trường kinh tế – xã hội phát triển đầy đủ và ổn định. Con người không chỉ được sống trong môi trường đầy đủ về vật chất mà còn được nâng cao về mặt tinh thần và trí tuệ. - Đời sống kinh tế nâng cao, con nhiều có nhiều cơ hội phát triển và tạo lập cuộc sống cho mình. Nhờ những thành tựu của khoa học kỹ thuật, con người có thể tạo cho mình một không gian sống lý tưởng – một môi trường nhân tạo. Trong thời điểm với sự suy giảm của các nguồn năng lượng, con người đã tạo ra những nguồn năng lượng mới nhờ vào trí tuệ và những thành tựu kinh tế đạt được. - Một đô thị phát triển đòi hỏi một không gian sống – một môi trường sinh thái trong lành, có thể cung cấp cho con người những nguồn năng lượng sống thích hợp. Muốn vậy công cuộc xây dựng và phát triển đô thị không nằm ngoài những thay đổi và cải thiện môi trường tự nhiên – môi trường xã hội ở đô thị theo hướng tích cực. - Khả năng giải quyết các vấn đề về môi trường đô thị phụ thuộc vào hiệu quả phát triển kinh tế đô thị. Ví dụ như muốn giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí phải thay chất đốt than – c ủi bằng ga, điện, lắp đặt các thiết bị lọc bụi. Muốn giải quyết vấn đề ô nhiễm nước đô thị, phải xây dựng các nhà máy xử lý nước thải…Điều này đòi hỏi phải có một số vốn đầu tư lớn, dựa trên cơ sở phát triển kinh tế mang lại. * Đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá - đô thị hoá yêu cầu ngày càng nhiều nguồn tài nguyên, năng lượng và đất đai dùng cho sản xuất công nghiệp và xây dựng đô thị đã dẫn đến việc khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và phá huỷ môi trường sống của con người. - Sự mở rộng về quy mô đô thị tất yếu dẫn đến việc khai thác và phá huỷ môi trường tự nhiên. Tạo một môi trường vật chất phát triển đầy đủ, cũng không tránh khỏi việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Song quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá nhanh chóng, cùng với ý thức của con người đã làm tàn phá môi trường tự nhiên một cách nặng nề. - Quá trình công nghiệp hoá và dân số tập trung đông ở các đô thị đã thải ra môi 4
  5. trường một khối lượng lớn các chất thải từ sinh hoạt và sản xuất. Đồng thời sự tăng lên nhanh chóng của các phương tiện giao thông đi lại ở đô thị cũng thải vào không khí một lượng khí thải gây ô nhiễm lớn cho môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng của người dân. Hơn nữa thông qua không khí và sông ngòi đô thị đã khuyếch tán tới giới tự nhiên rất nhiều khí thải độc hại gây ra sự cố cho môi trường không chỉ ở đô thị mà còn tạo thành những tai biến nghiêm trọng gây ảnh hưởng cho cuộc sống của con người trên cả hành tinh. Theo ghi chép, trong vòng 100 năm (1873 -1971) các quốc gia phát triển như Pháp, Anh, Mỹ, Nhật… đã xảy ra trên 30 cuộc tai biến nghiêm trọng đe doạ và làm huỷ hoại tính mạng của con người. Đó là sự xuất hiện của các đại dịch: viêm phổi, các tổn thương nội tạng, các bệnh về tim mạch…Sự kiện khói mù ở Luân Đôn trong vòng 4 ngày đã có 400 người chết, sau 2 tháng lên đến 8000 người. Ước tính hàng năm trên thế giới có khoảng 3 triệu trẻ em tử vong trong đó số trẻ em chết do nhiễm nguồn nước bẩn chiếm 1/3. - Đời sống kinh tế thay đổi, những điều kiện về vật chất – tinh thần của con người ngày càng được nâng cao. Nhu cầu hưởng thụ của con người ngày càng lớn. Trong điều kiện đó, bắt đầu có sự xuất hiện của các vất đề xã hội, tệ nạn xã hội ở khắp các đô thị đang làm huỷ hoại sức khoẻ và nhân cách của nhiều bộ phận dân cư, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nhiều đô thị lớn, trật tự – an ninh xã hội không được đảm bảo, cướp của – giết người – khủng bố…luôn đe doạ đến tính mạng của con người. Môi trường xã hội ở đô thị đang ngày càng mất ổn định, sự suy đồi về giá trị đạo đức, lý tưởng sống ở một bộ phận người dân, do sự thiếu ý thức, sự xa ngã và những cám dỗ trong thế giới của sự hưởng thụ. Nhìn lại lịch sử phát triển của đô thị chứng tỏ, đô thị là khu vực mà con người tác động sâu sắc – tập trung đến môi trường, cũng là khu vực mà môi trường sinh thái của xã hội bị ô nhiễm nghiêm trọng nhất. Nhưng không có nghĩa là tăng trưởng kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái. Bởi lẽ công nghiệp hoá và đô thị hoá là kết quả tất yếu của sự phát triển kinh tế của nhân loại. Quá trình đó luôn chịu sự quy định của trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hình thức phát triển cụ thể của tăng trưởng kinh tế đô thị có quan hệ với phương thức hoạt động kinh tế và các chính sách quản lý – phát triển đô thị. Nguyên nhân căn bản của những tác động tiêu cực này là ở sự phát triển quá nhanh của tốc độ dân số và phát triển kinh tế đã vượt quá mức độ cho phép của môi trường. Phương thức sản xuất và phương thức tiêu dùng không hợp lý. Một 5
  6. mặt sử dụng quá lớn nguồn tài nguyên cho phép – gây ra sự cạn kiệt và việc sử dụng lãng phí. Mặt khác lại đào thải ra môi trường một lượng khí thải – chất thải hoá học và các phế liệu gây ô nhiễm tới môi trường, ảnh hưởng tới tính mạng của người dân. Bên cạnh đó là sự phát triển kinh tế không tuân theo những quy luật tổ chức các hoạt động kinh tê – xã hội. Sử dụng đất đai không hợp lý, quay hoạch và xây dựng đô thị hỗn loạn, không khoa học. Giảm khả năng điều tiết cũng như huỷ hoại đến môi trường sinh thái đô thị. Chương 3 :Ví dụ về sự phát triển của kinh tế tác động đến môi trường. Hiện nay nền công nghiệp đang phát triển rất mạnh đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước.Và sự phát triển của ngành công nghiệp máy lạnh phát triển sản sinh ra các chất có tác động rất xấu đến môi trường hay (còn gọi là tác nhân lạnh) cũng là một vấn đề mà chúng ta đáng lưu tâm. Tác nhân lạnh là thuật ngữ dùng để chỉ đến các chất dùng trong các thiết bị, hệ thống làm lạnh trong dân dụng, công nghiệp và thương mại (trong máy lạnh dân dụng thường gọi là gas lạnh). Lịch sử của tác nhân lạnh 6
  7. Trong những ngày đầu tiên, ngành công nghiệp điều hòa (HVAC – viết tắt của từ Heating Ventilation and Air Conditioning) hầu như chỉ đặt mối quan tâm đến việc tìm ra môi chất có khả năng làm lạnh. Bất kỳ chất nào đáp ứng được nhu cầu đó đều có thể sử dụng (SO 2, NH3, CCl4…). Thế nhưng sau một thời gian sử dụng, chúng gặp phải trở ngại do các môi chất này đều độc hại và có khả năng gây cháy nổ. Vào những năm 1930, tác nhân lạnh CFC (có thành phần cấu tạo từ Clo – Flo – Cacbon) được các nhà khoa học nghiên cứu sản xuất. Chúng nhanh chóng được sử dụng rộng rãi do hiệu suất cao, tính an toàn và sự bền vững. Đến những năm 1970, khi các vấn đề về môi trường được quan tâm, các nhà khoa học nhận ra rằng tác nhân lạnh CFC và sau này là HCFC, HFC đã ảnh hưởng đến sự suy giảm tầng ozone của trái đất và biến đổi khí hậu toàn cầu. Trước những tác động đó, 2 nghị định thư đã ra đời nhằm giảm thiểu hậu quả do chúng mang đến. Nghị định thư Montreal Ra đời vào năm 1987, vào thời điểm này sự suy giảm tầng ozone và đặc biệt là sự phát hiện lỗ thủng tầng ozone tại Nam Cực trở thành mối quan tâm chính của toàn cầu. Nghị định thư Montreal ra đời nhằm để bảo vệ tầng ozone bằng cách giới hạn dần việc sản xuất và sử 7
  8. dụng các chất được cho là liên quan đến sự suy giảm tầng ozone. Sự suy giảm tầng ozone làm gia tăng các tia cực tím ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các loài sinh vật. Nghị định được ký kết vào ngày 16 tháng 9 năm 1987, trước tiên là giới hạn các chất CFC và sau đó là HCFC. Tác nhân lạnh CFC được giới hạn sản xuất hoàn toàn vào 1996. Do có hệ số làm ảnh hưởng đến tầng ozone thấp hơn, thời gian giới hạn sản xuất và sử dụng tác nhân lạnh HCFC chậm hơn (đến 2040 sẽ giới hạn sản xuất hoàn toàn). Thông qua việc giảm thải các khí CFC, dự báo vào năm 2015 lỗ thủng ozone ở Nam Cực sẽ giảm đi khoảng một triệu km2 trên 25 triệu km2 và phục hồi hoàn toàn nhanh nhất là vào năm 2050 hay chậm hơn. Mặc dù vậy vẫn còn một cảnh báo nhỏ, sự ấm lên toàn cầu được dự đoán sẽ làm lạnh tầng bình lưu. Hậu quả của việc này là sự gia tăng tương đối của việc thâm thủng ôzôn và chu kỳ của các lỗ thủng. Nghị định thư Kyoto Vào nhữngnăm 1990, các nhà khoa học phát hiện thêm một đặc tính của tác nhân lạnh đó là khả năng làm nóng Trái Đất. Hiện tượng ấm dần lên toàn cầu (Global Warming) đã và đang gây ra những ảnh hưởng nặng nề. Không chỉ làm tan băng ở 2 cực Trái Đất và nâng cao 8
  9. mực nước biển, sự ấm dần lên toàn cầu còn gây ra những biến đổi to lớn về mặt sinh thái, tự nhiên. Số lượng cơn bão đang xuất hiện nhiều hơn với sức mạnh lớn hơn, thay đổi nhiệt độ sẽ ảnh hưởng đến các loài sinh vật và có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của một số loài, ảnh hưởng đến chuỗi thức ăn. Một nghiên cứu dự đoán khoảng 18% đến 35% trong tổng số 1.103 loài động thực vật có thể bị tuyệt chủng cho đến năm 2050, dựa trên các số liệu tiên đoán khí hậu trong tương lai. Điều này dẫn đến sự ra đời nghị định thư Kyotol vào năm 1997 nhằm giảm thiểu những khí gây ra hiệu ứng nhà kính (greenhouse gas) – nguyên nhân chính của sự ấm dần lên toàn cầu. Mặc dù được xem là chất không gây ảnh hưởng đến tầng ozone nhưng một số tác nhân lạnh HFC có tác động đến sự ấm lên toàn cầu và nằm trong danh mục các chất cần cắt giảm. Điển hình như tác nhân lạnh R134a, mặc dù gần như không gây ảnh hưởng đến tầng ozone nhưng do có hệ số làm nóng trái đất cao nên R134a đã bị cấm sử dụng cho các phương tiện giao thông tại Châu Âu. 9
  10. Ghi chú: Tác nhân lạnh “tái chế” bao gồm các tác nhân lạnh được thu hồi và tái sử dụng hoặc được lưu trữ trong kho, các tác nhân lạnh này được phép sử dụng mà không có sự giới hạn nào. Tác nhân lạnh “mới” là tác nhân lạnh được sản xuất mới hoàn toàn, loại tác nhân lạnh này bị giới hạn sử dụng. 10
  11. Yếu tố cân bằng Ảnh hưởng của tác nhân lạnh đến môi trường là rõ ràng. Tuy nhiên, có sự trớ trêu ở đây là các tác nhân lạnh không ảnh hưởng đến tầng ozone thì lại có khả năng gây ra hiệu ứng nhà kính khá cao (Hình 7). Ngoài ra, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, khí hậu, tác nhân lạnh còn có thể gián tiếp gây ra những biến đổi khí hậu. Yếu tố trực tiếp ở đây chỉ đến sự ảnh hưởng trực tiếp đến tầng ozone, hiện tượng ấm dần lên toàn cầu. Để xem xét đến khả năng gây nguy hại của một tác nhân lạnh người ta dùng 2 hệ số ODP (Ozone Depletion Potential – Khả năng làm suy yếu tầng ozone) và GWP (Global Warming Potential – Khả năng làm nóng trái đất). Ngoài ra, sự rò rỉ và thời gian tồn tại trong khí quyển của các chất này cũng là yếu tố cần được quan tâm. Đối với chỉ số ODP và GWP, các hệ số này càng cao nghĩ là khả năng tác động của tác nhân lạnh đó càng lớn. Thời gian tồn tại trong khí quyển càng lâu thì tác nhân đó càng ảnh hưởng mạnh đến môi trường. Sự rò rỉ, ngược lại, càng ít thì càng giảm thiểu tác động. Yếu tố gián tiếp ở đây chính là hiệu suất của một tác nhân lạnh hay nói cách khác là hiệu suất của thiết bị, hệ thống sử dụng tác nhân lạnh, mà ở đây chính là máy lạnh hay hệ thống lạnh mà ta vẫn sử dụng hằng ngày. Các thiết bị hay hệ thống lạnh đều tiêu tốn điện năng để vận hành, nếu hiệu suất của tác nhân lạnh càng cao, ta càng tiêu tốn ít điện năng tiêu thụ. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân, doanh nghiệp. Nhìn xa hơn, điện năng tiêu thụ càng ít nghĩa là các nhà máy nhiệt điện giảm công suất hoạt động qua đó giảm lượng khí phát thải vào môi trường. Đa số các khí sinh ra sau quá trình cháy của nhà máy nhiệt điện đều là các khí gây nên hiện tượng nhà kính. 11
  12. Tham khảo thông số ở Bảng 1 và Hình 7, ta thấy tác nhân lạnh CFC mặc dù có hiệu suất cao nhưng lại ảnh hưởng nặng nề đến tầng ozone và sự biến đổi khí hậu. Do đó, CFC đã bị giới hạn sản xuất từ năm 1996. Các tác nhân lạnh HCFC có hệ số ODP, GWP thấp hơn nên thời gian giới hạn sản xuất và sử dụng kéo dài hơn. Tác nhân lạnh HFC gần như không ảnh hưởng đến tầng ozone nhưng lại có hệ số GWP khá cao. Một số tác nhân lạnh gần như hoàn hảo về yếu tố môi trường và hiệu suất nhưng lại dễ cháy và gây độc cho con người. Từ những yếu tố trên, việc lựa chọn sử dụng tác nhân lạnh cần dựa trên sự cân bằng. Sự cân bằng đó bao gồm các yếu tố sau: -ODP – Khả năng ảnh hưởng đến tầng ozone -GWP – Khả năng ảnh hưởng đến sự nóng lên toàn cầu -Lượng rò rỉ -Thời gian tồn tại trong khí quyển -Hiệu suất Tác nhân lạnh và “Tòa nhà xanh” Tòa nhà xanh – Green Building là những tòa nhà đạt chuẩn về sử dụng năng lượng hiệu quả, bảo toàn nguồn nước, chống ô nhiễm tiếng ồn, nguồn nước, không khí, đất v.v… được xem là nơi có môi trường làm việc, sinh sống và vui chơi thân thiện với môi trường. 12
  13. Một công trình được chứng nhận là “Tòa nhà xanh” cần phải thỏa mãn các tiêu chuẩn do các tổ chức có uy tín đề ra. Trên thế giới hiện nay có thể kể đến là LEED của Mỹ, Green Star của Úc, Green Mark của Singapore và tại Việt Nam hiện đang xây dựng một tiêu chuẩn riêng dựa trên các tiêu chuẩn của cộng động thế giới – tiêu chuẩn LOTUS. Trong các tiêu chuẩn này, loại tác nhân lạnh sử dụng cũng sẽ được đánh giá có thỏa mãn tiêu chí đề ra hay không. Theo công thức trên, tiêu chí lựa chọn tác nhân lạnh bao hàm tất cả các yếu tố cân bằng mà ta nói đến chứ không chỉ đánh giá riêng lẻ đến ODP hay GWP. Tóm lại con người hiện đang phải đối mặt với những ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu mà một trong những nguyên nhân gây ra chúng là tác nhân lạnh. Không chỉ ảnh hưởng đến tầng ozone, tác nhân lạnh còn góp phần gây ra sự ấm dần lên toàn cầu – là nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ của khí hậu trong thời gian gần đây. Hầu hết các tác nhân lạnh hiện nay đều không phải là hoàn hảo, do đó cần quan tâm đến sự cân bằng trong việc sử dụng tác nhân lạnh. Bất kỳ tác nhân lạnh nào cũng có thể sử dụng được nếu chúng ta ứng dụng chúng một cách phù hợp. Hãy tham khảo những điều dưới đây để sử dụng và lựa chọn thiết bị lạnh phù hợp hơn. Đối với cá nhân: 13
  14. -Đa số các hãng hiện nay đều có thêm loại tác nhân lạnh (gas lạnh) thân thiện với môi trường (R407C, R410A) và ứng dụng các công nghệ tiên tiến. Do đó ưu tiên chọn lựa các thiết bị hiệu suất cao, tiết kiệm điện nếu đủ khả năng. -Sử dụng các thiết bị điện nói chung và thiết bị lạnh nói riêng một cách hiệu quả nhất: - Đừng cài đặt chế độ máy quá lạnh(16ºC), điều này gây lãng phí năng lượng và ảnh hưởng đến sức khỏe, thông thường nhiệt độ 25ºC là phù hợp. -Tắt các thiết bị điện khi không sử dụng. Đối với doanh nghiệp: -Hệ thống lạnh gần như chiếm 30 – 40% tiêu thụ điện năng trong tòa nhà. Hãy chắc rằng bạn đang sử dụng một hệ thống tiết kiệm năng lượng. -Quan tâm đến công tác bảo trì, bảo dưỡng cho thiết bị. Thay thế thiết bị cũ hiệu suất kém. -Đối với các công trình mới, hãy quan tâm đến các hệ thống tiết kiệm năng lượng. -Hệ thống thu hồi nhiệt (sử dụng heat wheel, heat recovery). -Hệ thống tích trữ lạnh (ice storage). -Dùng heat pump thay cho lò hơi để cung cấp nước nóng. -Tham khảo các hướng dẫn thiết kế “xanh” để có một hệ thống hiệu suất cao. -Luôn xem xét đến yếu tố cân bằng của tác nhân lạnh trong đó đặc biệt là hiệu suất của hệ thống lạnh. Chương 4: Tầm quan trọng của môi trường sinh thái đô thị trong quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị. Bảo vệ môi trường đô thị là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đô thị. Không chỉ nhằm bảo vệ sức khoẻ của chính con người mà còn là biện pháp có ý nghĩa quyết định tới mục tiêu xây dựng và phát triển kinh tế sau này. Bởi lẽ môi trường tự nhiên nói chung và môi trường sinh thái đô thị nói riêng có tác động không nhỏ tới quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị. Môi trường sinh thái tự nhiên là cơ sở để phát triển đô thị cung cấp không gian cho sự tồn tại và hoạt động của đô thị, quyết định tới trình độ phát triển đô thị nói chung và quy mô, tốc độ, loại hình xây dựng đô thị nói riêng. Để tạo một hệ thống cơ sở hạ tầng – vật chất cho phát triển công nghiệp và phát triển kinh tế. Cần dùng đến lượng lớn nguồn nguyên vật liệu – sản phẩm từ tự nhiên, môi trường xung quanh con người. Việc sử 14
  15. dụng lãng phí tài nguyên gây tổn thất lớn đến nền kinh tế. Khai thác nhiều, sử dụng lãng phí, không khoa học – giá trị sản xuất lại không cao, nhiều sản phẩm sản xuất ra với chất lượng nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Sự ô nhiễm bầu không khí từ các nguồn khói – bụi – rác thải với lượng lớn vào các đô thị. Gây ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ và tính mạng của con người. Không chỉ làm ảnh hưởng đến nguồn chi tiêu cho các gia đình, mà còn làm tiêu tốn nhiều tiền bạc của nhà nước. Các chương trình chăm sóc sức khoẻ, các dự án lớn nhỏ nghiên cứu – tư vấn và chữa bệnh cho người ốm hàng năm được thực hiện ở các nước, khiến nhà nước phải chi phí một số lớn tiền của. Khi ốm đau bệnh tật, người lao động không có thu nhập, gây nên nghèo đói cho bản thân họ và gia đình của họ…Tài liệu ở các nước phát triển cho biết tỷ lệ chi phí phòng ngừa ô nhiễm và tỷ lệ chữa trị khi bị ô nhiễm luôn ở con số khổng lồ. Số liệu cũ cho thấy, việc chữa trị sông Them ở Anh, phải chi phí mất 5 tỷ bảng Anh, sông Chicago ở Mỹ mất 8 tỷ USD. Mục tiêu của tăng trưởng kinh tế đô thị còn là tạo ra một không gian trong lành, một đô thị văn minh hiện đại. Vì thế môi trường có ý nghĩa quyết định tới việc xây dựng một đô thi xanh, sạch đẹp. Cung cấp và bổ xung những nguồn năng lượng mới cho cuộc sống của con người, giữ gìn và bảo vệ sức của người dân đô thị. Đối với chiến lược và mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của nước ta, thì phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái là những mục tiêu của sản xuất xã hội chủ nghĩa. Mục đích của khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển sản xuất là để không ngừng nâng cao sản xuất xã hội, gia tăng của cải vật chất xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Chương 5:kết luận kiến nghị Từ những phân tích ở trên cho thấy, môi trường và kinh tế là sự thống nhất của 2 mặt đối lập. Phát triển kinh tế sẽ tác động và ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường. Nhưng chỉ trên cơ sở phát triển kinh tế mới có thể cung cấp những phương tiện vật chất để giải quyết vấn đề môi trường. Bên cạnh đó việc bảo vệ môi trường sẽ làm tiêu tốn một lượng lớn sức lao động và tài sản có thể gây tổn thất cho nền kinh tế, song chỉ có thể giải quyết tốt vấn đề môi trường mới có thể phát triển kinh tế an toàn và bền vững. Vì vậy trong quá trình xây dựng và phát triển đô thị phải xử lý đúng đắn mối quan hệ 15
  16. biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, bảo đảm cho 2 mặt đó được tiến hành đồng thời và ăn khớp thường xuyên với nhau. 16
nguon tai.lieu . vn