Xem mẫu

  1. ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH GÓP PHẦN KIỀM CHẾ LẠM PHÁT, ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI VÀ TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG(*) L TS: Trong 2 ngày (11-12/9/2008) tại thành phố Hải Phòng, Bộ Nội vụ đã tổ chức hội nghị tập huấn về công tác cải cách hành chính. Đại diện lãnh đạo Sở Nội vụ, Văn phòng Uỷ ban nhân dân, Sở Thông tin và Truyền thông, cán bộ chuyên trách về cải cách hành chính của 31 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khu vực phía Bắc từ Thừa Thiên - Huế trở ra đã tham dự. Hội nghị vinh dự được đón đồng chí Trần Văn Tuấn - Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đến dự và có bài phát biểu chỉ đạo. Tạp chí Tổ chức Nhà nước trân trọng trích giới thiệu bài phát biểu khai mạc hội nghị của đồng chí Bộ trưởng.... Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Văn Tuấn phát biểu chỉ đạo hội nghị “Thưa các đồng chí! Trong thời gian qua, ngành Nội vụ trong cả nước đã tích cực tham mưu cho Đảng, Chính phủ và chính quyền các cấp triển khai hiệu quả nhiều chủ trương, văn bản quan trọng thuộc chức năng, trách nhiệm được giao. Trong đó, đáng chú ý
  2. là việc tham mưu tổ chức triển khai rộng khắp trong cả nước về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khóa X về “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước” và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương. Thông qua đó, đã thu được một số kết quả quan trọng trong tiến trình cải cách hành chính và chính từ các tác động tích cực của cải cách hành chính đã góp phần làm ổn định kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - chính trị đất nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng thẳng thắn nhận thấy, so với yêu cầu, cải cách hành chính vẫn chậm trong nhiều khâu, làm ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững của đất nước. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần thống nhất trong nhận thức và hành động, cải cách hành chính phải tiếp tục được đẩy mạnh hơn nữa, triển khai đồng bộ, quyết liệt ở cả trung ương và địa phương theo những định hướng, chủ trương, giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa X, cũng như Chương trình hành động của Chính phủ đã xác định. Với ý nghĩa như vậy, tại hội nghị tập huấn lần này, ngoài những nội dung công việc đã nêu trong thông báo của Bộ gửi từ trước, tôi đề nghị các đồng chí dành thời gian để trao đổi, thảo luận và cho ý kiến thật sâu sắc, cụ thể về những nội dung công việc quan trọng có ý nghĩa là những nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm cần nỗ lực triển khai thực hiện trong những tháng cuối năm 2008, bao gồm: - Triển khai Nghị quyết số 53/2007/NQ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2007 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; - Triển khai sắp xếp, ổn định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện theo các quy định của Chính phủ; - Tổ chức thực hiện hiệu quả Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa”, cơ chế “một cửa liên thông” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; -Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tìm ra các biện pháp thích hợp nắm bắt, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, cũng như đời sống của người dân, từ đó chủ động và kiên quyết loại bỏ những thủ tục hành chính không còn phù hợp, gây cản trở cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống nhân dân trên địa bàn địa phương. Đẩy mạnh Kế hoạch thực hiện Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010. Trong triển khai cải cách thủ tục hành chính, tôi đề nghị cần đặc
  3. biệt lưu ý tới việc xây dựng các quy trình giải quyết công việc của dân, tổ chức, xác định rõ trách nhiệm của từng cán bộ, công chức, từng bộ phận, thời gian giải quyết; cần coi trọng công tác kiểm tra việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” và xử lý nghiêm những cán bộ, công chức gây nhũng nhiễu, phiền hà cho dân, tổ chức. - Xây dựng kế hoạch cải cách hành chính năm 2009 theo tinh thần rõ việc, rõ trách nhiệm triển khai, trong đó chú ý việc bố trí kinh phí cho công tác triển khai cải cách hành chính nằm trong dự toán ngân sách của tỉnh. Thưa các đồng chí, trong đợt tập huấn này, để giúp các địa phương có thêm sự gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết và thực tiễn, lãnh đạo Bộ chủ trương mời Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng giới thiệu, tổ chức cho các đồng chí tham quan trực tiếp mô hình “một cửa”, “một cửa liên thông” theo mô hình mẫu, hiện đại tại một số đơn vị quận, huyện của thành phố. Thông qua theo dõi, đánh giá cho thấy, đây là một trong những điển hình tốt và trên thực tế đã được nhiều địa phương đến tham quan, học tập kinh nghiệm thời gian qua. Tôi tin rằng, sau khi tham quan, khảo sát trực tiếp thực tiễn triển khai của thành phố Hải Phòng, các đồng chí sẽ đúc rút thêm được những bài học kinh nghiệm để tham mưu, triển khai vận dụng phù hợp vào điều kiện thực tế của từng địa phương...”./.
  4. TỔNG KẾT 10 NĂM THỰC HIỆN PHÁP LỆNH CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRẦN KIÊN T rong hai ngày 25 và 26/9/2008, tại Quảng Ninh, Bộ Nội vụ phối hợp với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, công chức (CBCC). Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Văn Tuấn chủ trì hội nghị Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Văn Tuấn chủ trì hội nghị. Dự hội nghị có nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ Đỗ Quang Trung; các Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng, Văn Tất Thu, cùng đại diện các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương, lãnh đạo các đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ Nội vụ, các chuyên gia cao cấp của ADB, thành viên ban soạn thảo và tổ biên tập dự thảo Luật CBCC. Pháp lệnh CBCC được ban hành từ năm 1998, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức và quản lý các hoạt động liên quan đến công vụ, công chức. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh phù hợp với đặc điểm của thể chế chính trị ở Việt Nam. Thể chế quản lý hoạt động công vụ, công chức được ban hành là hợp hiến, hợp pháp, phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, tuân thủ quan điểm của Đảng về công tác cán bộ; bộ máy quản lý công vụ, công chức từng bước đi vào hoạt động nền nếp, ổn định. Đội
  5. ngũ CBCC đã được nâng cao về chất lượng, số đông được trang bị cơ bản về tri thức chuyên sâu, tổng hợp, có ý thức tôn trọng và biết phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật, cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ, công vụ được giao. Chế độ tiền lương và đãi ngộ đối với CBCC luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, sau 10 năm thực hiện, Pháp lệnh CBCC đã bộc lộ những hạn chế, đó là: còn tình trạng chồng chéo, đan xen giữa thể chế quản lý CBCC do Nhà nước ban hành với các quy định về quản lý cán bộ trong hệ thống Đảng, Mặt trận, đoàn thể; phương thức tổ chức hoạt động công vụ dựa trên cơ sở hệ thống chức nghiệp gắn với việc giao biên chế cho các cơ quan nhà nước đã thể hiện những hạn chế trong việc nâng cao chất lượng hoạt động công vụ và chất lượng đội ngũ CBCC. Cách thức tuyển dụng công chức hành chính theo chế độ làm việc suốt đời không thích ứng với cơ chế thị trường; các quy phạm pháp luật về quản lý công vụ, công chức chưa được đưa lên thành luật, nhiều quy định về hoạt động công vụ, công chức cần phải được bổ sung như khái niệm về công vụ, CBCC, đạo đức công vụ, thanh tra công vụ; tiền lương CBCC còn thấp, khó giữ và thu hút người giỏi vào làm công chức; chế độ đãi ngộ và tôn vinh công chức chưa được ban hành đầy đủ, chính sách nhà ở cho công chức, chế độ nghỉ phép còn chưa phù hợp; các điều kiện thực thi công vụ chưa được quy định thống nhất trong hệ thống hành chính; hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBCC cần được tổ chức lại theo hướng củng cố về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, tăng cường giảng viên kiêm chức, đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng theo hướng hiện đại hoá các hoạt động công vụ. Các đại biểu tham dự hội nghị đã trao đổi ý kiến đánh giá hệ thống thể chế quản lý CBCC và công vụ hiện hành, kết quả 10 năm thực hiện Pháp lệnh CBCC, phát hiện những hạn chế của Pháp lệnh này, đồng thời đề xuất các giải pháp khắc phục; đóng góp ý kiến vào nội dung của dự thảo Luật CBCC; nghe các chuyên gia nước ngoài giới thiệu một số vấn đề về xu hướng cải cách chế độ công vụ, công chức trên thế giới, bình luận khoa học về dự thảo Luật CBCC và so sánh với luật công vụ của các quốc gia trong khu vực. Phát biểu tổng kết hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Văn Tuấn đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của các đại biểu trong việc góp ý vào báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh CB, CC và dự thảo Luật CBCC; đồng thời yêu cầu Ban soạn thảo và tổ biên tập dự thảo Luật CBCC tiếp thu, tập hợp ý kiến của các đại biểu và các chuyên gia nước ngoài, làm cơ sở đề xuất với các cấp có thẩm
  6. quyền tiếp tục chỉnh sửa dự thảo Luật CBCC để trình Quốc hội khoá XII thông qua vào kỳ họp thứ tư sẽ diễn ra vào giữa tháng 10/2008./. KỶ NIỆM 63 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 2-9 TÍNH SÁNG TẠO ĐỘC ĐÁO TRONG TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP CỦA VIỆT NAM BÙI KHẮC HẰNG Trường Chính trị tỉnh Thanh Hoá C ách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân ta thành công chói lọi là biểu hiện tập trung tính chất của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay. Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sự kiện lịch sử này, không chỉ là sản phẩm, là thành tựu của chủ nghĩa Mác - Lê-nin của thời đại, đã lần lượt được hiện thực hoá. Mặt khác, chính Cách mạng Tháng Tám đã làm phong phú và sâu sắc thêm nội dung của thời đại - thời đại các cuộc cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tính thống nhất trong vận động biện chứng của sự sáng tạo trong Tuyên ngôn Độc lập với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được thể hiện trong những nội dung chính yếu như sau: Thứ nhất, tư tưởng về độc lập. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nêu một cách khái quát tư tưởng độc lập về chính trị của giai cấp vô sản; tức là “Giai cấp vô sản phải thủ tiêu giai cấp tư sản và giành lấy dân chủ; giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị”(1) và kiến lập một trật tự xã hội mới theo lý tưởng của mình. Tuyên ngôn Độc lập không chỉ tuyên bố về quyền độc lập tự do của một dân tộc mà còn tuyên bố về quyền lựa chọn con đường độc lập tự do của mỗi dân tộc thoát khỏi ách thống trị của thực dân phong kiến. Trong Tuyên ngôn có đoạn viết: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”(2); đồng thời khác với độc lập theo con đường dân chủ tư sản, ở đây độc lập dân tộc gắn với lợi ích của nhân dân lao động. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích lại bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Người phân tích: “Suy rộng ra... tất cả
  7. các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(3). Tiếp đó, Người trích bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Người phân tích: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”(4). Như vậy, Tuyên ngôn độc lập không chỉ tuyên bố về quyền của mỗi dân tộc mà còn là quyền của mỗi con người. Tư tưởng về độc lập trong Tuyên ngôn độc lập thể hiện sự gắn liền với xoá bỏ chế độ bóc lột tàn bạo của các thế lực phản cách mạng; giải phóng nhân dân lao động và các giai cấp tầng lớp khác thoát khỏi chủ nghĩa tư bản ngoại bang. - Thứ hai, tư tưởng về mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ cạnh tranh tự do, phát triển trong khuôn khổ mỗi quốc gia dân tộc. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác, Ăng-ghen chưa thể dự đoán được lịch sử nhân loại sẽ nảy sinh một mâu thuẫn mới, song song và gắn chặt với nhau đó là: mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản chính quốc với các dân tộc thuộc địa. Tuyên ngôn Độc lập chính là thành quả vĩ đại của cuộc vận động cách mạng, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, là kết quả của đường lối đúng đắn và sự chỉ đạo chiến lược khôn khéo của Đảng ta và Bác Hồ trong việc định hướng giải quyết mâu thuẫn nói trên. Như vậy, vấn đề mà C.Mác và Ăng-ghen nêu: “Giai đoạn thứ nhất trong cuộc cách mạng là giai đoạn mà giai cấp vô sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị là giai đoạn giành lấy dân chủ”(5). Nhưng đối với cách mạng Việt Nam - giai đoạn tương ứng đó là giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Theo quan điểm của Mác - Ăng-ghen, sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động thoát khỏi ách thống trị của giai cấp tư sản là gắn liền với cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Phản ánh qui luật đó, đường lối cách mạng của Đảng ta đã đặt sự nghiệp giải phóng dân tộc lên hàng đầu và xác định giải phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề để thực hiện giải phóng giai cấp. Nhưng nhiệm vụ giải phóng dân tộc chỉ có thể thực hiện hiệu quả khi được dựa trên tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; hệ tư tưởng cách mạng của giai cấp vô sản và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà hạt nhân là Đảng Cộng sản. Như vậy, tư tưởng về mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc với giải
  8. phóng giai cấp trong Tuyên ngôn Độc lập chính là sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận lên một cấp độ mới. - Thứ ba, luận điểm về giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng cá nhân với giải phóng xã hội. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác, Ăng-ghen đã khái quát về mối quan hệ của sự phát triển cá nhân và cộng đồng, đó là “thay cho xã hội tư sản với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(6).Tuyên ngôn Độc lập vừa đặt ra quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đồng thời cho rằng để đi tới các quyền tự do, bình đẳng của mỗi người trước hết phải giành lại quyền tự do, độc lập cho dân tộc; tức là độc lập tự do của dân tộc được xem như là điều kiện bao trùm và tiên quyết cho hạnh phúc của mỗi cá nhân. Như vậy, tính sáng tạo độc đáo trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm1945 với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848 chính là biểu hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung và tư tưởng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói riêng vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam của Đảng ta và Bác Hồ trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ trong bối cảnh đang diễn biến hết sức khó lường. Mặc dù còn không ít khó khăn phức tạp, nhưng với một Đảng đã dạn dầy kinh nghiệm và trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại, đương đầu với những thế lực hiếu chiến nhất trong lịch sử thế giới đương đại và làm nên những chiến công hiển hách, hai tiếng “Việt Nam” đã trở thành biểu tượng và niềm tin của nhân dân lao động khắp năm châu. Vì vậy, chúng ta luôn luôn tin tưởng vào thắng lợi của con đường cách mạng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp tục nâng vị thế của dân tộc ta lên những tầm cao mới./. ____________________________________________________________ Ghi chú: (1), (5), (6) Mác - Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, Tr.606, 616, 617. (2), (3), (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, Tr.01, 02.
  9. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH THẤM NHUẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY PGS.TSKH. TRẦN NGUYÊN TUYÊN Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh T rong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, những luận điểm của Người về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền có một vị trí quan trọng. đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng, hình thành phong cách làm việc mới của người lãnh đạo. Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến nay cho thấy những thắng lợi của cách mạng đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng thông qua việc tập hợp, tổ chức và phát huy sức mạnh của quần chúng, trong đó yếu tố quan trọng là đường lối và phong cách công tác, làm việc của các cán bộ lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó người đặc biệt chú ý hình thành phong cách làm việc khoa học và hiệu quả của người lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu gương trong việc hoạch định đường lối, chính sách vừa có tính nguyên tắc, vừa có tính linh hoạt trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Người xác định công tác cán bộ như việc đào tạo nhân tài là trọng yếu, rất cần thiết cho đất nước. Trong quan niệm của Người, cán bộ luôn gắn với tổ chức, chất lượng của cán bộ là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng, đề bạt, cất nhắc, kiểm tra giám sát, phê bình và sự nỗ lực phấn đấu của từng người. muốn có cán bộ tốt thì phải có tổ chức vững mạnh, phù hợp và khoa học. Thông qua quan hệ với tập thể và xã hội sẽ cho thấy rõ tính cách của một người có tính tập thể hay tính cá nhân chủ nghĩa, thể hiện năng lực lãnh đạo trong các tình huống cụ thể của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định phẩm chất quan trọng hàng đầu của người lãnh đạo là: “Đối với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính. Đối với mình phải luôn luôn cầu tiến bộ, luôn tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm của mình, đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình
  10. mình”. Người nhấn mạnh “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý” (1). Theo V.Lê-nin, trong mỗi con người đều có những mặt tích cực và hạn chế, người cán bộ lãnh đạo phải biết phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực. Vận dụng quan điểm này trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng viên và cán bộ cũng là người. ai cũng có tính tốt và tính xấu. song đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa đổi những tính xấu. Vì tính xấu của một người chỉ có hại cho người đó; còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân”. tính cách của người lãnh đạo thể hiện trước hết ở thái độ của họ đối với xã hội và bản thân mình. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người lãnh đạo, người quản lý phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện mình để khuyết điểm ngày càng ít, tính tốt ngày càng nhiều thể hiện trên 5 nội dung là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. - Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng bào, đồng chí, sẵn sàng chịu khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc, sung sướng sau thiên hạ; không ham giàu sang, chức quyền... - Nghĩa là ngay thẳng, ngoài lợi ích của đảng, của dân tộc không có lợi ích riêng phải lo toan. được đảng giao việc gì to, nhỏ đều cố gắng hoàn thành với kết quả tốt. Người lãnh đạo thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói, không sợ người ta phê bình, kiên quyết bảo vệ lẽ phải. - Trí là không bị việc tư túi làm mù quáng, biết làm việc có lợi, tránh làm việc có hại cho Đảng, cho dân. - Dũng là dũng cảm gan góc, gặp việc khó quyết tâm hoàn thành, thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. - Liêm là liêm chính, không tham địa vị, tiền tài, không háo danh. Các phẩm chất trên là yêu cầu về đạo đức cách mạng của người lãnh đạo, quản lý. tuy nhiên, cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi những người lãnh đạo phải có đủ cả phẩm chất và có năng lực đáp ứng yêu cầu đặt ra cho từng thời kỳ. Nếu cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ có phẩm chất tốt về đạo đức cách mạng thì chưa đủ, mà theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải có năng lực quản lý, nắm bắt nhanh nhạy các vấn đề phát sinh, điều hành giải quyết tốt công việc. hồ chí minh khẳng định: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Cán bộ cách mạng, theo người, phải có đủ hai tiêu chuẩn “vừa hồng, vừa chuyên”, thực chất đó là mối quan hệ giữa đức và tài trong nhân cách người cán bộ quản lý, trong đó đức là “gốc”. Năng lực của cán bộ quản lý không phải tự có mà do quá trình
  11. công tác, rèn luyện, học tập của bản thân. theo chủ tịch hồ chí minh “năng lực của người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn là do công tác, do tập luyện mà có” (2). Người khẳng định: “cũng như sông, thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Cần phải biết sử dụng nhân tài, có khả năng lãnh đạo vì sự nghiệp cách mạng chung, “phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta” (3). Năng lực, phong cách làm việc khoa học của người lãnh đạo được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng. Ph.Ăng-ghen đã chỉ rõ thực tiễn đặt ra nhu cầu cho con người nhiều hơn mười trường đại học. Vận dụng quan điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Cho nên, trong mọi hoạt động cách mạng, chúng ta đều phải học tập tự cải tạo. Thực tiễn cách mạng “đều là những trường học rất tốt cho chúng ta rèn luyện đạo đức cách mạng”. Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của người cán bộ đã vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Các quan điểm này đã được Đảng Cộng sản Việt nam vận dụng trong việc xây dựng chính sách đào tạo và phát triển cán bộ quản lý, hình thành phong cách lãnh đạo mới phù hợp với yêu cầu cụ thể của từng thời kỳ. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “trên cơ sở phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí để xây dựng đội ngũ cán bộ một cách cơ bản, chính quy, có hệ thống; đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn cán bộ” (5). Phát triển quan điểm này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu của công tác cán bộ trong thời kỳ mới là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân” (6). Để thực hiện được mục tiêu này, Đại hội IX của đảng đã xác định những chủ trương, biện pháp cơ bản như:
  12. - Có cơ chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, tận dụng những người có đức, có tài. Thực hiện đúng đắn nguyên tắc đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ cho cả trước mắt và lâu dài. - Việc đánh giá sử dụng đúng cán bộ cần phải sử dụng tổng hợp các yếu tố như: căn cứ tiêu chuẩn cán bộ, lấy hiệu quả công tác thực tế và tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu; có phương pháp khoa học, khách quan, công tâm trong việc đánh giá cán bộ. - Đổi mới đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trên cơ sở kết hợp các thế hệ độ tuổi bảo đảm tính liên tục kế thừa và phát triển. - Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các ngành và địa phương, khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín, cản trở việc luân chuyển cán bộ. Văn kiện Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng phong cách lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo “Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, không giao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân” (7). Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của đảng, của đất nước, của chế độ ta, là cái “gốc” của mọi công việc. Bác Hồ đã chỉ rõ: nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì nhân dân là chủ trong bộ máy nhà nước, cán bộ công chức là “công bộc” của dân, chịu sự giám sát của dân. để làm được điều nêu trên, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân, trung thành với Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. công tác cán bộ giữ một vị trí quan trọng, quyết định trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Công tác cán bộ là một hoạt động cụ thể nhằm định hướng cho một chiến lược lâu dài của sự nghiệp cách mạng, đáp ứng nhu cầu sự nghiệp cách mạng. Để đổi mới công tác cán bộ, cần đổi mới đồng bộ các khâu có liên quan đến cán bộ bao gồm: tiêu chuẩn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, kiểm tra và quản lý cán bộ. Muốn vậy cần chú trọng các giải pháp như:
  13. - Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và lãnh đạo, bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển tạo cơ hội cho những người có đủ điều kiện được tuyển dụng làm cán bộ, công chức nhà nước. - Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội trong điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. - Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước theo đúng chức danh, tiêu chuẩn; thực hiện tinh giản biên chế. - Định kỳ kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa. - Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Những quan điểm của chủ tịch hồ chí minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, hình thành phong cách làm việc của người lãnh đạo đã thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những quan điểm này luôn có giá trị đúng đắn trong điều kiện mới của cách mạng Việt Nam, khi nước ta đang thực hiện xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế./. _____________________________________________ Ghi chú: (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, t5, tr 644. (2), (3) Hồ Chí Minh: Sđd, t 5, tr 280, tr 273. (4) Hồ Chí Minh: Sđd, t 9, tr 284 (5) Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung uơng Đảng khóa VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 77. (6) Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 141. (7) Văn kiện trình Đại hội X của Đảng,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006, tr 136.
  14. HỌC TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TIẾT KIỆM VÀ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM ĐẶNG HẰNG THU PHƯƠNG Đại học Công đoàn Hà Nội T rong các bài nói chuyện, bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập nhiều đến tiết kiệm và thực hành tiết kiệm. Người đã luận giải kỹ các nội dung về tiết kiệm và thực hành tiết kiệm, đồng thời cũng chỉ ra rằng công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là một nhiệm vụ quan trọng và luôn luôn phải thực hiện mọi lúc, mọi nơi. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiết kiệm là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, mà những việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Tiết kiệm là tích cực. Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực (1). Mục đích của việc tiết kiệm, Người chỉ rõ: tiết kiệm là để phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc; để tăng thêm tiền vốn xây dựng đất nước. Điều này càng quan trọng khi nước ta là nước dân chủ nhân dân, không thể tích lũy vốn theo kiểu thực dân, đế quốc bằng cách cướp bóc thuộc địa, bóc lột công nhân, nông dân, vay nợ nước ngoài và hơn thế nữa, tiết kiệm để nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, hậu quả 80 năm đô hộ, vơ vét của thực dân Pháp rồi đến phát xít Nhật. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ 3 nội dung của việc tiết kiệm bao gồm: tiết kiệm sức lao động. Tức là phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải nâng cao năng suất lao động, một người làm bằng hai, ba người. Tiết kiệm thời giờ, Người nói: “Thời giờ tức là tiền bạc; “Một tấc bóng là một thước vàng. Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ, ai đưa thời giờ vứt đi, là người ngu dại (2). Tiết kiệm thời giờ của mình và tiết kiệm thời giờ của người khác. Tiết kiệm tiền của. Phải tiết kiệm tiền của nhà nước, của nhân dân và của chính mình. Việc này liên quan tới tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời giờ. Đối tượng cần phải tiết kiệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra ở đây là tất cả mọi người đều phải tiết kiệm, song trước hết là các cơ quan, bộ đội, các xí nghiệp. Nội dung tiết kiệm phải cụ thể, thiết thực ngay trong vị trí công tác của mình. Bộ đội, chiến sĩ thì tiết kiệm đạn, quân nhu, chiến lợi phẩm;
  15. cán bộ cơ quan hành chính thì tiết kiệm thời gian, giấy, mực; cán bộ tư pháp tiết kiệm thời giờ cho dân khi triển khai nhanh công việc... Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nếp sống hết sức giản dị, tiết kiệm. Sự giản dị, tiết kiệm ấy mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho muôn thế hệ noi theo. Đã có rất nhiều câu chuyện kể về tấm gương tiết kiệm của Bác, trong đó câu chuyện về đôi dép cao su và máy lạnh trong phòng Bác là những ví dụ điển hình về đạo đức sống giản dị, thanh tao, tiết kiệm của Người. Chuyện kể rằng: sau khi tiếp quản Thủ đô (tháng 10/1945), Trung ương bố trí Bác ở và làm việc trong ngôi nhà cao tầng, đồ sộ, vốn là nơi của viên Toàn quyền Đông Dương. Bác không đồng ý và sau đó đã chọn một căn phòng nhỏ trước đây là nơi ở của người thợ điện trong Phủ Toàn quyền, đồng thời bảo anh em phục vụ quét dọn ngôi nhà đồ sộ ấy để làm nơi vui chơi cho các cháu thiếu nhi và tiếp khách. Trong thời gian Bác sống ở Hà Nội, thấy đôi dép cao su của Bác đã cũ, anh em phục vụ đề nghị cho thay dép mới, nhưng Bác chưa đồng ý, vì dép ấy vẫn còn dùng được. Có người mạnh dạn thưa với Bác là đôi dép mới chỉ có hai đồng rưỡi, không nhiều nhặn gì. Bác đã giải thích: vấn đề không phải là hai đồng rưỡi mà là phải xem đã cần thay dép mới chưa? Đôi dép của Bác còn dùng được thì chưa nên thay! Khi đi thăm các địa phương, Bác bảo anh em phục vụ chuẩn bị cơm mang theo, hễ lúc nào thuận tiện thì dừng lại ăn cơm. Theo Bác, xuống thăm các địa phương, đơn vị là để nắm tình hình thực tế và góp ý, nhắc nhở về các công việc, chứ không phải xuống dự tiệc tùng, gây tốn kém. Bác còn nói vui: ở tỉnh chiêu đãi thì họ cho mình ăn một nhưng sẽ hết cả con bò. Nếu Bác đến thăm bốn tỉnh như vậy thì kinh tế sẽ lạm phát. Có tỉnh nọ mặc dù đã được báo trước là Bác có mang cơm theo, nhưng vẫn sắm sửa cỗ bàn thịnh soạn. Khi được mời, Bác kiên quyết không ăn mà còn phê bình rất nghiêm khắc. Theo một cán bộ Cục Cảnh vệ được bảo vệ Bác Hồ trong những năm 1954-1962 thì có được ở gần Bác mới chứng kiến một điều đặc biệt: dù trời đông giá rét hay ngày hè nóng nực, không bao giờ thấy Bác kêu nóng hay rét quá. Có một dịp trong lúc chúng tôi đang nghĩ cách chống nóng cho Bác thì các đồng chí bên Bộ Ngoại giao công tác ở nước ngoài gửi biếu Bác chiếc máy điều hòa nhiệt độ. Khi nhận máy về, từ các anh ở Văn phòng Bác đến anh em phục vụ, bảo vệ đều vui mừng thấy như các đồng chí bên ngoại giao đã giúp mình tìm ra đáp số một bài toán khó. Lúc đó Bác đi công tác vắng. Các anh quyết định cho lắp máy điều hòa vào phòng của Bác, định khi Bác về sẽ xin phép sau. Các đồng chí thợ điện tích cực làm việc, chỉ một buổi sáng chiếc máy đã được đặt gọn vào tường trong phòng làm việc của Bác. Cầu dao điện vừa đóng, tiếng máy chạy ro ro, giống như có bầy ong về tổ. Lúc đó ở Hà Nội máy điều hòa còn hiếm, anh em
  16. chúng tôi nhiều người mới biết lần đầu, cứ tấm tắc khen. Tuy vậy chúng tôi vẫn hồi hộp chờ ý kiến của Bác, bởi lẽ chúng tôi đều biết Bác sống rất giản dị. Những tiện nghi Trung ương dành cho Bác, thứ nào thật cần thiết Bác mới dùng. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Lần ấy Bác đi công tác độ một tuần mà chúng tôi cảm thấy như đã dài hàng tháng. Nghe tin Bác về, chúng tôi chạy ra đón. Sau khi thăm hỏi anh em, Bác đi về phòng ở. Vừa bước vào phòng, chợt Bác dừng lại, hỏi: “các chú này, hôm nay nhà mình có mùi gì lạ quá”! Chúng tôi nhìn nhau, chưa ai trả lời câu hỏi của Bác. Chính tôi cũng chưa phát hiện được điều gì. Sau này hỏi các đồng chí thợ điện mới biết chiếc máy điều hòa do một hãng của nước ngoài sản xuất, chất lượng máy tốt, hình dáng đẹp nhưng muốn làm vui lòng khách, trong máy họ gắn thêm một bình bơm tự động có chứa nước hoa. Khi máy vận hành, van mở, nước hoa theo gió tỏa ra nên trong phòng lúc nào cũng phảng phất mùi thơm. Nếu ai không chú ý thì chỉ cảm thấy như quanh đây có mùi hoa lan, hoa huệ vậy. Biết không giấu được Bác, các đồng chí phục vụ xin lỗi Bác, rồi trình bày rõ lý do về chiếc máy điều hòa nhiệt độ. Không thấy Bác tỏ thái độ gì, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhưng chỉ đến đầu giờ làm việc chiều hôm ấy, Bác cho gọi anh Vũ Kỳ đến và ân cần bảo: “Chiếc máy điều hòa nhiệt độ tốt đấy, các chú có thể đem đến cho quân y viện hoặc trại điều dưỡng thương binh. Hôm trước Bác đến thăm thấy các chú ấy ở nóng lắm. Còn Bác thì chưa cần, Bác ở thế này là được rồi”. Anh Vũ Kỳ và các đồng chí phục vụ đã hết lời đề nghị nhưng Bác vẫn không thay đổi ý kiến. Thế là ngay buổi chiều hôm ấy chiếc máy điều hòa được đưa ra khỏi căn phòng của Bác. Nêu mấy mẩu chuyện nhỏ về tấm gương giản dị, tiết kiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh để chúng ta liên hệ đến cuộc sống của mỗi người hiện nay rồi học tập, làm theo gương Bác. Từ các câu chuyện nay, mỗi cán bộ, công chức - những công bộc của dân, những con người theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là những “đầy tớ trung thành của nhân dân”, kiểm điểm bản thân để soi rọi vào mình, xem lại mình đã thực sự xứng đáng với danh hiệu cao quý đó chưa, nhất là vào thời điểm khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang ra sức thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người. Có nhiều câu chuyện, nhiều hình ảnh và những việc làm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức hiện nay nếu đem ra soi thì không xứng đáng với lời dạy của Bác. Không ít công chức hiện nay, có thu nhập không cao, song hiện vẫn được sống trong những ngôi nhà rộng rãi, đầy đủ tiện nghi hiện đại, với chi phí sinh hoạt hàng tháng cao gấp hàng chục lần thù lao nhà nước chi trả cho họ qua lương. Cuộc sống cá nhân của không ít cán bộ, công chức là đảng viên cũng rất hoang phí, xa hoa. Xã hội ngày nay đã phát triển hơn nhiều so với
  17. thời kỳ đất nước trong kháng chiến, song dù không phải đi dép cao su, mang cơm nắm khi đi công tác như Bác, chúng ta cũng không nên quá lãng phí, sa vào tiệc tùng, tiêu hoang công sản khi thi hành nhiệm vụ nhà nước, gây phản cảm trước dư luận và nhân dân lao động. Chúng ta đang thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở mọi ngành, mọi cấp, thiết nghĩ sau mỗi đợt sơ kết, các cơ quan, đơn vị cũng phải nêu ra được những cá nhân, đơn vị cụ thể làm tốt, làm chưa tốt, có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, xa hoa, lãng phí để cuộc vận động này đi vào thực chất và đạt hiệu quả cao. Học tập Bác là phải làm theo Bác, học thực chất, làm thực chất, học và làm theo bằng chính trách nhiệm cán bộ, đảng viên trước nhân dân, bằng liêm sỉ và đạo đức công vụ, chứ không học và làm một cách vô thức. Mỗi cán bộ, công chức, đảng viên đang sống và làm việc theo pháp luật, được người dân giám sát hãy sống và làm việc cho tốt sao cho không phụ lòng nhân dân, đi ngược lại với mong muốn của Bác Hồ - đấy chính là những việc làm thiết thực và hiệu quả nhất trong việc thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt điều đó cũng chính là chúng ta đã làm cho tấm gương Bác mãi ngời sáng trong lòng mỗi người dân Việt Nam./. _______________________________________________________ Ghi chú: (1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2002, T.6, Tr.485. (2) Sđd, T.5, Tr.637.
  18. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Về tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo cán bộ, công chức PGS.TS. NGUYỄN HỮU ẢI Học viện Hành chính Quốc gia Đ ào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho nền công vụ là một yếu tố then chốt trong chiến lược quản lý phát triển nền công vụ của mỗi quốc gia. Ở nước ta, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tiếp tục khẳng định sự cần thiết và tầm quan trọng của việc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước ở nước ta không chỉ trong giai đoạn hiện nay mà còn cả về lâu dài. Thực tiễn đào tạo cán bộ, công chức: Đào tạo cán bộ, công chức nhà nước ở nước ta hiện nay bao gồm hai nội dung: đào tạo tiền công vụ và đào tạo trong công vụ. Trong đó, đào tạo trong công vụ lại bao gồm đào tạo nâng cao kiến thức chuyên môn thông qua hệ thống các trường cao đẳng, đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân và đào tạo về kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đề cập đến hoạt động đào tạo cán bộ, công chức do Học viện Hành chính và hệ thống các trường quản lý cán bộ của bộ ngành và trường chính trị các tỉnh thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Có thể tóm lược về hoạt động đào tạo cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay như sau: - Về định hướng đào tạo: Việc cử cán bộ đi đào tạo là một nhiệm vụ, đồng thời là một yêu cầu trong đánh giá kết quả hoạt động của cơ quan, đơn vị. Thêm vào đó, người được cử đi đào tạo thường phải bảo đảm những điều kiện nhất định về thâm niên, cấp bậc lương và quy hoạch phát triển công chức. Chính vì vậy, xu hướng phổ biến hiện nay là đào tạo công chức theo chỉ tiêu của cơ quan và theo thâm niên, theo cấp của người được đào tạo chứ không theo chức năng mà họ thực hiện(1). Đào tạo theo
  19. nhu cầu người học - một xu thế đào tạo tiến bộ và bắt đầu phổ biến ở khu vực tư - hiện vẫn chưa được áp dụng rộng rãi trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức khu vực công. - Nội dung và phương pháp đào tạo: Xuất phát từ định hướng đào tạo nêu trên nên nội dung đào tạo được áp dụng chung cho những nhóm đối tượng người học có trình độ chuyên môn khác nhau, công tác ở những vị trí công việc rất khác nhau. Người học được cung cấp những kiến thức cơ bản về nhà nước, hành chính nhà nước, về pháp luật... - tức là những kiến thức chung về quản lý nhà nước - chứ không đi vào yêu cầu công việc; phần kỹ năng hầu như bị bỏ trống. Thêm vào đó, chưa có sự phân định rõ ràng về nhóm kiến thức dành cho những người sắp bước vào nền công vụ, hay với những cán bộ, công chức đang làm việc. Với nội dung đào tạo như vậy, phương pháp đào tạo được áp dụng chủ yếu là thuyết trình. Việc trao đổi, thảo luận tuy được thiết kế trong khung chương trình, song áp dụng chưa nhiều do thời lượng hạn chế, do đó, người học khó có thể hình thành kỹ năng giải quyết công việc sau khi kết thúc khoá học. - Tiêu chí và phương pháp đánh giá kết quả đào tạo: Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, người học được đánh giá kết quả thông qua điểm của bài kiểm tra giữa kỳ. Kết thúc khóa đào tạo, người học trải qua kỳ thi kiểm tra dưới hình thức tự luận là chính; nội dung câu hỏi xoay quanh những kiến thức quản lý nhà nước có trong tài liệu; việc chấm điểm và đánh giá trên tinh thần “giơ cao đánh khẽ” vì học viên đều là những người hoặc sắp bước vào nền công vụ, hoặc đang công tác ở một vị trí nhất định và khả năng thăng tiến của họ có thể phụ thuộc một phần vào xếp loại của chứng chỉ khoá học mà họ vừa tham gia. Đối với cả đơn vị đào tạo và đơn vị cử cán bộ đi đào tạo, kết quả và chất lượng đào tạo chủ yếu được xác định dựa trên số lượng học viên tốt nghiệp và xếp loại giỏi hay khá, mà không quan tâm nhiều đến việc sau khoá học, người học sẽ ứng dụng được gì vào công việc hàng ngày ở cơ quan, đơn vị. Như vậy, có thể thấy việc đào tạo cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay còn mang tính hình thức, mới tập trung vào lượng chứ chưa chú trọng nhiều vào chất. Và đôi khi vì lý do này hay lý do khác mà có hiện tượng đánh đồng giữa số lượng đào tạo và chất lượng đào tạo. Chính vì vậy, xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo là một đòi hỏi khách quan và có tính cấp thiết để từng bước xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, hướng tới một nền công vụ tiên tiến, của dân, do dân, vì dân.
  20. Tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo cán bộ, công chức: Người phương Tây hay dùng câu thành ngữ “What is measured gets done” (Cái gì đo lường được thì mới thực hiện được) để nói về mục tiêu họat động của con người hay tổ chức. Tuy nhiên trong đào tạo, nói đến chất lượng là nói đến kết quả và hiệu quả của cả quá trình từ nhận thức đến tư duy và hành động của mỗi con người, rất khó “cân, đo, đong, đếm” một cách rạch ròi như các biến định lượng khác. “Sản phẩm” của đào tạo cán bộ, công chức là sự bù đắp đầy đủ hơn về phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ và kiến thức được bổ sung, kỹ năng được huấn luyện để công chức nhà nước gắn bó trọn vẹn với chức nghiệp hay việc làm trong nền công vụ và hiệu quả hoạt động của họ ảnh hưởng trực tiếp đến nền công vụ quốc gia. Chính vì vậy, nói đến chất lượng đào tạo công chức là nói đến kết quả và hiệu quả làm việc của họ thu được cao hơn sau đào tạo - tức là sau mỗi khoá học, người học phải có được những phẩm chất, năng lực gì giúp ích cho họ trong thực thi công vụ. Một khoá đào tạo có chất lượng là một khoá học mà khi kết thúc, cán bộ, công chức hình thành được những phẩm chất và năng lực sau đây: Một là, có kiến thức quản lý nhà nước. Trong phạm vi các khoá đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức(2), tiêu chí đầu tiên để đánh giá chất lượng đào tạo là sau khoá học, công chức phải có được những kiến thức cơ bản về nhà nước, xác định đúng chức năng của nhà nước nói chung, của mỗi hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng và xác định đúng chức trách của công chức trong thực thi công vụ.v.v. Hiện nay ở nước ta, chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa cán bộ, công chức, viên chức, do đó học viên trong các khoá đào tạo, bồi dưỡng thường bao gồm cả ba nhóm đối tượng này và họ đến từ những cơ quan, đoàn thể khác nhau trong hệ thống chính trị. Tuy nhiên, yêu cầu đạt được của mỗi khoá học là người học phải nắm được những kiến thức khái quát về nhà nước và quản lý nhà nước, từ đó xác định được cơ quan, đơn vị mình nằm ở đâu trong hệ thống chính trị, thực hiện chức năng, nhiệm vụ gì, có quan hệ như thế nào với những tổ chức nhà nước khác... Hai là, có khả năng đặt vấn đề và kỹ năng giải quyết vấn đề. Công việc thực tế của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ luôn phải đối mặt và giải quyết các vấn đề trong hệ thống và ngoài xã hội, trong đó, có những vấn đề biểu hiện bên ngoài là giống nhau nhưng đòi hỏi cách giải quyết khác nhau, có những vấn đề đòi hỏi không chỉ một mà nhiều biện pháp giải quyết
nguon tai.lieu . vn