Xem mẫu

  1. Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại TPHCM
  2. Báo cáo kết quả nghiên cứu thực tế      Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh ***  Báo cáo được thực hiện bởi   Trịnh Hồ Hạ Nghi  Huỳnh Thị Ngọc Tuyết   với phần bổ sung của Bill Tod  Tháng 7‐8/ 2003 
  3. ii
  4. Mục Lục Danh mục các Bảng và Khung  ............................................................................................iii  Lời nói đầu của Nhóm hành động chống đói nghèo.........................................................v  Lời cảm ơn .............................................................................................................................vii  Những chữ viết tắt ................................................................................................................ ix  Tóm tắt Báo cáo  ...................................................................................................................... 1  Phần 1: Giới thiệu  .................................................................................................................. 4  Phần 2: Địa điểm Nghiên cứu  .............................................................................................. 8  Phần 3: Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm, những                      rủi ro và tính dễ tổn thương .................................................................................. 12  Phần 4: Tham gia và Tăng cường Năng lực trong việc Đưa ra các Quyết định tại                             Địa phương  ............................................................................................................. 25  Phần 5: Cải cách Hành chính công  .................................................................................... 32  Phần 6: Di dân và các Vấn đề Đô thị.................................................................................. 39  Tài liệu Tham khảo  .............................................................................................................. 48  PHỤ LỤC 1: Phương pháp nghiên cứu  ............................................................................ 49  PHỤ LỤC 2: Số liệu Tóm tắt Tham vấn tại Địa bàn Nghiên cứu .................................. 51  PHỤ LỤC 3: Danh sách thành viên nhóm khảo sát thực địa  ........................................ 54  PHỤ LỤC 4: Các loại hình thức cư trú đối với quản lý hành chính ............................. 55  PHỤ LỤC 5: Quan hệ đối tác trong Đánh giá nghèo theo vùng ................................... 57 iii
  5. Danh mục các Bảng và Khung Bảng Bảng 1: Dân số huyện Bình Chánh, Thị Trấn An Lạc và Xã Tân Tạo .............................. 9   Bảng 2: Dân số Quận 8, Phường 4 và Phường 5 ............................................................... 11  Bảng 3: Tính đa khía cạnh của tình trạng nghèo .............................................................. 18  Bảng 4: Ý kiến của cán bộ và người dân địa phương về các lĩnh vực                 dân chủ cơ sở ........................................................................................................... 27  Bảng 5: Ý kiến của cán bộ và người dân địa phương về cơ chế tăng cường sự                  tham gia và đảm bảo việc phổ biến, trao đổi thông tin .................................... 29  Bảng 6: Dân chủ cơ sở trực tiếp và đại diện ...................................................................... 30 Khung Khung 1: Tiêu chí xác định hộ nghèo của chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo........... 15  Khung 2: Ý nghĩa của các nguồn lực chính trị và xã hội đối với người nghèo ............ 16   Khung 3: Người nghèo nhận thức được chất lượng cuộc sống của họ thấp kém ....... 17  Khung 4: Quy trình xét chọn hộ hưởng chương trình Xoá đói giảm nghèo                     tại khu phố ........................................................................................................... 31  Khung 5: Rơi vào cảnh nghèo vì tác động của quy hoạch đô thị................................... 45  iv
  6. Lời nói đầu của Nhóm hành động chống đói nghèo   Tháng 5 năm 2002, Chính phủ Việt Nam đã hoàn thành Chiến lược toàn diện về tăng  trưởng  và  xoá  đói  giảm  nghèo  (CPRGS)  và  bắt  đầu  quá  trình  triển  khai  thực  hiện  CPRGS  ở  cấp  địa  phương.  Thông  qua  các  chiến  dịch  thông  tin  và  hàng  loạt  các  hội  thảo vùng, cán bộ của các bộ ngành chủ chốt đã giải thích cho đại diện của các chính  quyền  địa  phương  về  các  phương  pháp  sao  cho  các  quy  trình  lập  kế  hoạch  của  địa  phương có thể được thực hiện theo định hướng vì người nghèo hơn, dựa trên số liệu  thực tế hơn, chú trọng vào kết quả hơn, cân đối tốt hơn trong các quyết định phân bổ  nguồn lực và được giám sát tốt hơn.     Năm 2003 Nhóm hành động chống đói nghèo (PTF) đã hỗ trợ thực hiện cho các đánh  giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng (PPAs) ở 12 tỉnh của Việt Nam. Những đánh  giá nghèo này đã sử dụng khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu chung để  tìm hiểu những vấn đề nghèo đói mà các số liệu định lượng đã không mô tả được hết.  Mục đích của việc làm này là đưa ra một nghiên cứu có thể sử dụng cùng với số liệu  của Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam để cung cấp thông tin cho Ban thư ký  CPRGS về tiến độ thực hiện CPRGS cho tới nay. Đánh giá nghèo cũng được thiết kế  để cung cấp thông tin cho các nghiên cứu mới về nghèo đói ở các vùng và trên toàn  quốc  và  các  nghiên  cứu  này  cũng  đã  được  công  bố  riêng.  Các  đánh  giá  nghèo  theo  vùng sẽ được sử dụng như những công cụ xây dựng năng lực cho các quy trình lập kế  hoạch với định hướng vì người nghèo ở các cấp chính quyền địa phương.     Tám nhà tài trợ đã đóng góp nguồn lực tài chính và nhân lực để hỗ trợ cho các đánh  giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng, là cơ sở cho việc xây dựng báo cáo này và  các đánh giá nghèo theo vùng bổ sung. Các nhà tài trợ bao gồm ADB, AusAID, DFID,  GTZ, JICA, SCUK, UNDP và Ngân hàng Thế giới. Mỗi nhà tài trợ đóng vai trò chính ở  một vùng của Việt Nam. Việc phân bố các vùng giữa các nhà tài trợ được tóm tắt ở  Bảng A, và dựa trên định hướng hoạt động của các nhà tài trợ trong từng lĩnh vực.  Bằng  cách  lựa  chọn  vùng  nào  mình  thấy  quen  thuộc  nhất,  thông  qua  các  dự  án  và  hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, các nhà tài trợ có thể tận dụng hoàn toàn được những hiểu  biết tích luỹ được khi đã làm việc tại vùng đó.     Các nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng ở 43  xã  rải  rác  trên  toàn  quốc.  Trong  số  đó  có  hai  tổ chức  phi  chính  phủ  quốc tế  (Action  Aid và SCUK), các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan nghiên cứu của Việt Nam,  bao gồm Trung tâm phát triển nông thôn, Viện xã hội học (IOS), Trung tâm Chăm sóc  sức  khoẻ  ban  đầu  Long  An,  Trung  tâm  dịch  vụ  phát  triển  nông  thôn  (RDSC)  và  Vietnam Solutions.  Ngoài ra, có hai nhà tài trợ đã tiến hành nghiên cứu bằng cách lập  các nhóm nghiên cứu gồm các chuyên gia trong nước dưới sự quản lý trực tiếp của  nhà  tài  trợ.  Kiến  thức  và  kinh  nghiệm  của  các  tổ  chức  phi  chính  phủ  và  cơ  quan  nghiên  cứu  đóng  vai  trò  then  chốt  đối  với  chất  lượng  của  công  tác  này.  Một  cơ  chế  phối hợp đã được hình thành cho công tác đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng  v
  7. đồng. Các thành viên của hầu hết các nhóm nghiên cứu đã tham gia xây dựng khung  nghiên cứu và đi đến thống nhất về mục tiêu cần đạt được trong công tác nghiên cứu  thực  địa.  Công  tác  thực  địa  đã  được  một  số  nhóm  tiến  hành  thí  điểm,  và  đề  cương  nghiên cứu cũng được chỉnh sửa cho phù hợp với những bài học kinh nghiệm được  rút  ra.  Khuôn  khổ  nghiên  cứu  cuối  cùng  bao  quát  những  lĩnh  vực  nghiên  cứu  như  sau:  • Nhận thức về nghèo đói và xu hướng nghèo, nguyên nhân dẫn tới nghèo và  khả năng dễ bị tổn thương;  • Tiến bộ trong công tác tăng cường dân chủ ở cấp cơ sở, đặc biệt là mức độ các  hộ nghèo có thể tham gia một cách có ý nghĩa vào các quy trình xây dựng kế  hoạch và lập ngân sách;  • Những  thách  thức  trong  việc  cung  cấp  các  dịch vụ  cơ  bản,  tập  trung  vào  sự  tương tác của các hộ gia đình nghèo với các nhà cung cấp dịch vụ và các hộ  nghèo có thể được tăng cường quyền lực như thế nào để có thể yêu cầu quyền  lợi được cung cấp các dịch vụ cơ bản một cách hiệu quả hơn;  • Các cơ chế trợ cấp xã hội hiện nay (liên quan tới công tác xác định đối tượng  ưu tiên ở trên) và cách thức cải thiện các cơ chế này;   • Tình hình cải cách hành chính công ở các cấp chính quyền địa phương;  • Những thách thức trong vấn đề di dân và mối liên hệ giữa sự di chuyển của  hộ gia đình, nghèo đói và tiếp cận với dịch vụ; và,  • Thông  tin  về  môi  trường  đối  với  người  nghèo  và  sự  thay  đổi  của  tình  hình  này.  Những Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng hiện nay đang được công bố  thành bộ. Một báo cáo tổng hợp các kết quả của cả 43 xã và phân tích một cách tổng  hợp hơn các chủ đề này cũng sẽ được công bố. Cũng sẽ có một báo cáo khác tóm tắt  phương  pháp  tiếp  cận,  phương  pháp  nghiên  cứu  được  sử  dụng  và  những  câu  hỏi  nghiên cứu chi tiết.   vi
  8. Lời cảm ơn Chúng tôi xin chân thành cám ơn sự chỉ đạo và hỗ trợ quý báu và kịp thời của Ủy Ban  Nhân  Dân  Thành  Phố  Hồ  Chí  Minh,  Ban  Chỉ  Đạo  Chương  Trình  Xóa  Đói  Giảm  Nghèo  và  Việc  Làm  (Sở  Lao  Động  Thương  Binh  Xã  Hội),  chính  quyền  Huyện  Bình  Chánh, Thị trấn An Lạc, Xã Tân Tạo, và chính quyền Quận 8, Phường 4, và Phường 5,  trong suốt quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, xin cảm ơn sự cộng tác nhiệt tình và đầy  tính trách nhiệm của các cán bộ chuyên trách chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo cấp  thành phố, quận/huyện và phường/ xã/ thị trấn đã góp phần quyết định vào sự thành  công của đợt khảo sát, đồng thời minh chứng cho tính tham gia là phương pháp chủ  đạo của tất cả các cuộc đánh giá nghèo được thực hiện từ năm 1999 đến nay.     Chúng tôi cũng xin cám ơn các tổ chức đoàn thể, các tổ trưởng tổ dân phố, ban vận  động khu phố/ ấp được chọn khảo sát đã vận động người dân tham gia tích cực và tổ  chức  chu  đáo  các  buổi  họp  dân,  tạo  ra  bầu  khí  cho  sự  tham  gia  tích  cực,  cởi  mở  để  nhóm nghiên cứu có được các thông tin xác thực từ chính người dân địa phương.    Xin  cám  ơn  T.S.  Martin  Rama,  Th.S.  Carrie  Turk  (Ngân  Hàng  Thế  Giới),  và  Th.S.  Nguyễn Văn Thuần (Cơ quan Phát triển Quốc tế Úc), đã hỗ trợ công việc nghiên cứu,  đặc biệt về phương pháp, trong suốt các giai đoạn chuẩn bị, thực địa, cũng như viết  báo cáo.    Cuối cùng, xin chân thành cám ơn những người dân đã trực tiếp tham gia nghiên cứu  thông  qua  các  hoạt  động  thảo  luận  nhóm,  phân  hạng  kinh  tế  hộ,  phỏng  vấn  sâu  trường hợp điển cứu và các ý kiến thực tế, chân tình, xây dựng để nghiên cứu này có  thể hoàn thành tốt đẹp.   vii
  9. Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh viii
  10. Tóm tắt Báo cáo Những chữ viết tắt   BHYT       Bảo Hiểm Y Tế  CCHC       Cải Cách Hành Chính  CG       Consultative Group (Nhóm Tư Vấn Các Nhà Tài Trợ)  CP       Chính Phủ  CPRGS       Chiến Lược Toàn Diện về Tăng Trưởng và Xoá Đói Giảm Nghèo  DCCS       Dân Chủ Cơ Sở  GDP       Gross Domestic Products (Tổng sản phẩm quốc nội)  HDI       Human Development Index (Chỉ số phát triển con người)  HĐND       Hội Đồng Nhân Dân  LĐTBXH       Lao Động Thương Binh Xã Hội  NĐ‐CP       Nghị Định Chính Phủ  PPA       Participatory Poverty Assessment (Đánh giá Nghèo có sự tham gia của  cộng đồng)  SCUK       Save The Children United Kingdom (Tổ Chức Cứu Trợ Trẻ Em Anh)  TDP       Tổ Dân Phố  TPHCM       Thành Phố Hồ Chí Minh  UBND       Ủy Ban Nhân Dân  XĐGN       Xóa Đói Giảm Nghèo  ix
  11. Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh x
  12. Tóm tắt Báo cáo Tóm tắt Báo cáo Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm, những rủi ro và tính dễ tổn thương Cuối  năm  nay  (2003),  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh  phấn  đấu  xoá  nghèo  theo  tiêu  chí  nghèo của Thành phố. Tuy nhiên, kết quả cuộc nghiên cứu Đánh giá tình trạng nghèo  có sự tham gia này cho thấy có sự chênh lệch đáng kể giữa số hộ nghèo được chương  trình Xoá Đói Giảm Nghèo xác định và con số hộ được người dân địa phương cho là  nghèo.  Khi  phân  hạng  kinh  tế  hộ,  trong  mỗi  tổ  dân  phố,  người  dân  xác  định  có  khoảng 30% đến 50% hộ gia đình là “nghèo” hay “rất nghèo” (so với hộ “khá giàu” và  “trung bình”). Trong khi đó, chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo thường xác định có  từ 2 đến 7 hộ trong mỗi tổ dân phố, tức khoảng 4% đến 15% tổng số hộ là nghèo.    Trong  khi  có  một  số  người  dân  được  tham  khảo  ý  kiến  cho  rằng  cuộc  sống  khá  lên  trong vài năm qua (nhất là nhờ bán đất hay tài sản khác – dù điều này không đảm bảo  sinh kế bền vững), số đông còn lại cho rằng cuộc sống trở nên khó khăn hơn và than  phiền không đủ ăn, cho con cái nghỉ học sớm và sống lây lất qua ngày.     Có  nhiều  nguyên  nhân  lý  giải  cho  cuộc  sống  ngày  càng  khó  khăn,  chứng  tỏ  rằng  nghèo không chỉ là thu nhập ít ỏi, mà còn là chi phí sống cao, công việc bấp bênh, sức  khỏe  kém,  không  được  học  hành,  nhà  cửa  không  an  toàn  và  kém  vệ  sinh,  các  mối  quan hệ xã hội bị hạn chế, và cách biệt giàu nghèo ngày càng tăng.     Công việc làm vẫn còn là thách đố lớn đặt ra cho người nghèo. Người nghèo gần như  không thể tìm việc làm nhờ các trung tâm giới thiệu việc làm của nhà nước. Còn tìm  việc nhờ các dịch vụ việc làm tư nhân thì có rủi ro cao, và có nhiều dịch vụ mang tính  ʺlừa đảoʺ. Những công nhân không có tay nghề, lớn tuổi, hay sức khoẻ kém gặp nhiều  trắc trở trên con đường tìm việc. Một khi tìm được, tình trạng thiếu luật lệ hoặc luật lệ  không  được  thực  thi  làm  cho  quyền  lợi  của  công  nhân  thường  không  được  bảo  vệ.  Công nhân nữ trẻ (chiếm 90% lực lượng lao động trong nhiều xí nghiệp) tỏ ra lo ngại  về sự cô lập xã hội của họ.  Tham gia và tăng cường năng lực trong việc đưa ra các quyết định tại địa phương Lúc đợt nghiên cứu đánh giá nghèo có sự tham gia này đang tiến hành, các phường/  xã/ thị trấn đang tổng kết 5 năm thực hiện Nghị định 29 (Dân chủ cơ sở – DCCS) chủ  yếu tập trung vào các lĩnh vực sau: 14 việc dân biết đến, 6 việc dân bàn bạc và quyết  định trực tiếp, 8 việc dân tham gia ý kiến, HĐND và UBND quyết định, 10 việc dân  giám sát, kiểm tra. Các cán bộ và người dân địa phương đều đồng ý rằng đã có nhiều  tiến bộ trong việc thực hiện các nội dung tuyên truyền, phổ biến DCCS và các chính  sách  khác  của  nhà  nước,  thái  độ  tiếp  dân  tích  cực  hơn  trong  các  cơ  quan  nhà  nước,  bầu  cử  đại  biểu  Hội  đồng  Nhân  dân,  đóng  góp  vào  các  khoản  quỹ  địa  phương  và  phát triển cơ sở hạ tầng địa phương. Các cán bộ chính quyền quận/ huyện và phường/  xã/ thị trấn cho rằng khâu có nhiều hạn chế duy nhất là vấn đề công khai ngân sách  địa phương.    1
  13. Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh Tuy nhiên, người dân địa phương còn thấy được các điểm yếu kém khác như: những  người dân nhập cư nghèo, thanh niên, và trẻ em ít tham gia hơn so với những nhóm  dân thường trú; các tổ trưởng tổ dân phố (những người đóng vai trò thiết yếu trong  việc  đưa  ra  các  ý  kiến  hướng  dẫn)  có  năng  lực  làm  việc  rất  khác  nhau;  đại  biểu  Hội  đồng  Nhân  dân  thường  là  các  cán  bộ  địa  phương;  việc  thực  hiện  DCCS  chỉ  giới  hạn  trong khuôn khổ UBND, không ít trường hợp bị hạn chế vì thiếu sự phối kết hợp với  các cơ quan ngành dọc như giáo dục và quản lý đô thị.     Ý kiến đề xuất chủ yếu là cần thay đổi bản chất tham gia từ khá bị động và một chiều  (chẳng  hạn  như  được  thông  báo)  như  hiện  nay  trở  nên  chủ  động  hơn  và  có  sự  bàn  bạc, trao đổi, tham khảo ý kiến hai chiều (ví dụ như về việc đóng các khoản phí ngoài  học phí), và chuyển sang giám sát chủ động hơn sau này (chẳng hạn như xác định đối  tượng hỗ trợ xã hội và giám sát việc thực hiện chương trình XĐGN). Cần phải thu hẹp  khoảng cách nhận thức của các cán bộ địa phương và của người dân địa phương về  các vấn đề vừa nêu trên.  Cải cách hành chính Các cán bộ địa phương và người nghèo ghi nhận có một số cải tiến đáng kể trong lĩnh  vực dịch vụ quản lý hành chính, điển hình là dịch vụ “một cửa một dấu” cho chứng  nhận các loại giấy tờ tuỳ thân. Tuy nhiên, theo ý kiến người nghèo, còn nhiều vấn đề  tồn tại trong lĩnh vực nhà đất – địa chính và đăng ký nhân hộ khẩu, chẳng hạn như  vẫn  còn  nhiều  các  thủ  tục  phức  tạp  và  làm  mất  nhiều  thời  gian,  tình  trạng  tham  nhũng và năng lực, phẩm chất cán bộ địa phương làm việc trong các ngành này, đã và  đang ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của họ.    Về phân cấp quản lý, cán bộ cấp quận/ huyện và phường/ xã cho rằng còn có sự mơ  hồ,  chồng  chéo,  không  phân  biệt  rõ  ràng  chức  năng,  nhiệm  vụ  của  các  cấp,  các  ban  ngành.  Cán bộ  cả  hai  cấp  đều  tán  thành  phân  cấp  quản  lý  nhiều  hơn  cho  cấp  cơ  sở  phường/ xã theo hướng vì người nghèo, tuy nhiên, sự phân cấp này phải đi cùng với  các giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả và hiệu lực, ví dụ như hợp lý hoá sự phân  công phân cấp, cải thiện các luồng thông tin và các mối liên kết, phối hợp công tác,  tăng cường tính công khai, minh bạch và đơn giản hóa các thủ tục và quy định, tạo ra  nhiều hơn sự kiểm tra, giám sát và xem xét việc phân bổ kinh phí và nhân sự cho phù  hợp với thực tế tình hình các địa phương (có tính đến tốc độ phát triển và sự gia tăng  dân số ở một số khu vực phường/ xã).    Bản thân người nghèo có những nhận thức khác nhau, nhưng thường rất hạn chế, về  cải  cách  hành  chính  và  các  ảnh  hưởng,  liên  quan  giữa  cải  cách  hành  chính  công  (CCHC) với họ, đồng thời họ thấy mình khó tác động đến tiến trình thực hiện CCHC.  Di dân và các vấn đề đô thị Một số thông tin quan trọng nhất ghi nhận được về các quan tâm của cộng đồng về các  vấn đề di dân và đô thị hóa tại hai quận huyện khảo sát có thể được tóm tắt như sau:    ‐    Có khoảng 34% ‐ 40% dân số không có hộ khẩu thường trú (đặc biệt ở một xã  của huyện Bình Chánh, tỉ lệ này lên đến 65%)  ‐    Từ năm 1999 đến nay, số cư dân của các khu vực khảo sát tăng khoảng 28%  đến 39% (có một xã của huyện Bình Chánh tỉ lệ tăng dân số lên đến 64%)   2
  14. Tóm tắt Báo cáo Các hệ quả của tình trạng thiếu hộ khẩu thường trú một lần nữa lại được người dân  nêu ra (tương tự như lần đánh giá nghèo năm 1999 và tham khảo ý kiến cộng đồng về  Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo năm 2002), như: không bình đẳng quyền lợi  trong  tiếp  cận  giáo  dục,  chăm  sóc  sức  khoẻ,  thụ  hưởng  chương  trình  Xoá  đói  giảm  nghèo, các chương trình tín dụng và các hỗ trợ xã hội khác cũng như phải trả các chi  phí cao cho điện, nước và các phí tổn cho gia hạn đăng ký tạm trú.     Ngoài ra, trong khi người nhập cư là người phải  gánh chịu sự thiếu an toàn do tình  trạng cư trú tạm thời của họ thì người dân nghèo tại chỗ là những người bị ảnh hưởng  bởi các dự án quy hoạch đô thị lại phàn nàn nhiều về tình trạng bấp bênh, không ổn  định, thiếu sự công khai rõ ràng, thiếu tư vấn cộng đồng và sự chậm trễ, kéo dài (trong  một số trường hợp đến hơn 5 năm) của các dự án thuộc quy hoạch “treo”.    Các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội không căn cứ trên số cư dân hiện đang sinh  sống tại địa phương (vì chỉ có lực lượng công an nắm số liệu về số dân nhập cư để  quản lý trật tự trị an) mà chỉ căn cứ trên số dân có đăng ký thường trú. Các kế hoạch  này vì thế không theo hướng giảm nghèo, chí ít là xét trên khía cạnh không tính đến  các nhóm dân nghèo mới di chuyển từ nông thôn vào thành phố. Cũng vì thế, người  nhập cư là người nghèo không được nhận diện.    Tuy  nhiên,  nếu  so  sánh  với  các  cuộc đánh  giá  nghèo  có  sự  tham  gia  của  cộng  đồng  trước đây, có sự thay đổi đáng ghi nhận nhất về thái độ của các lãnh đạo và viên chức   các cấp là hiện nay nhiều người cởi mở chấp nhận có những thiếu sót trong cách tiếp  cận hiện hành, công nhận nhiều hơn các quyền lợi bình đẳng của người nhập cư với  tư cách là những công dân Việt Nam như là những người Việt Nam khác, nhìn nhận  vai trò quan trọng của họ trong sự phát triển kinh tế của Thành phố và vì thế cần có  sự vận dụng mềm dẻo, linh hoạt hơn các quy định về đăng ký cư trú.  3
  15. Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh Phần 1: Giới thiệu Cơ sở và mục đích nghiên cứu Theo số liệu chính thức năm 2003, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đạt thành  tựu  về  tổng  sản  phẩm  quốc  nội  đầu  người  (GDP  per  capita)  cao  thứ  nhì1  và  chỉ  số  phát triển con người (HDI) cao thứ ba2 trong 61 tỉnh thành trên toàn quốc. Theo Ban  Chỉ Đạo Xóa Đói Giảm Nghèo và Việc Làm Thành phố, số người sống dưới ngưỡng  nghèo  hiện  nay  đang  giảm  dần,  còn  1.74%  đến  tháng  10/20033,  và  Thành  phố  phấn  đấu  cuối  năm  nay  sẽ  xóa  nghèo  theo  chuẩn  nghèo  hiện  tại.  Cũng  xin  lưu  ý  rằng  ngưỡng nghèo Thành phố được quy định ở mức tương đối cao hơn nhiều so với các  tỉnh thành khác.    Tuy nhiên, các thông số trên chưa phản ánh tình trạng có một số lượng lớn người dân  chưa  hoặc  không  đăng  ký  cư  trú,  hầu  hết  là  những  người  nhập  cư  từ  các  tỉnh  khác  đến Thành phố mưu sinh, hoặc sinh sống tạm thời hoặc có thể định cư lâu dài tại đây.  Mục  tiêu  nghiên  cứu  Đánh  giá  tình  trạng  nghèo  có  sự  tham  gia  lần  này4  nhằm  tìm  hiểu  thực  chất  những  vấn  đề  nghèo  phát  sinh  trong  quá  trình  đô  thị  hóa  mạnh  mẽ  đang diễn ra tại Thành phố mà các con số thống kê không đo lường được.     Với mục tiêu như vậy, nghiên cứu này vừa là một nghiên cứu về vấn đề nghèo đô thị  của  thành  phố  Hồ  Chí  Minh,  vừa  là  một  phần  của  nghiên  cứu  đánh  giá  tình  trạng  nghèo trên cả nước, với khung nghiên cứu được Bộ Kế hoạch Đầu tư, Ngân hàng Thế  giới, và Nhóm Hành động chống đói nghèo, các viện nghiên cứu và tổ chức phi chính  phủ  Việt  Nam  cùng  thực  hiện;  với  công  tác  thực  địa  và  báo  cáo  được  Nhóm  Hành  động chống đói nghèo, chính quyền địa phương các cấp, và người dân tại cộng đồng  của 12 tỉnh thành thuộc 7 vùng trên toàn quốc cùng đồng loạt tiến hành. Vì vậy, kết  quả của nghiên cứu này, cùng với các nghiên cứu Đánh giá Tình trạng nghèo (PPA)  khác và Điều tra Mức sống Hộ gia đình 2002, sẽ đóng góp vào báo cáo tiến độ thực  hiện Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Giảm nghèo, sẽ được trình bày tại cuộc  họp Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ tháng 12 năm 2003, cũng như đóng góp vào bản Báo  cáo Phát triển Việt Nam 2004 của các tổ chức tài trợ. Nói một cách khác, một mặt, kết  quả của nghiên cứu này sẽ góp phần nâng cao năng lực cán bộ chính quyền ở cấp tỉnh  thành và các cấp thấp hơn nhằm làm cho các quá trình lập kế hoạch địa phương nhận  được  thông  tin  dữ  liệu  tốt  hơn  nhờ  các  công  trình  nghiên  cứu  phân  tích  được  xây  dựng trên nền tảng tham gia mang tính chất đối thoại của người nghèo về chính sách.  Mặt khác, kết quả nghiên cứu sẽ được hướng đến việc lấp đầy những khoảng trống  phân tích trong Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Giảm nghèo và hỗ trợ tăng  cường khung giám sát  Chiến lược, đặc biệt về những vấn đề liên quan đến quản lý  nhà nước và cung cấp dịch vụ.  1  5.209  đô‐la  Mỹ  (sau  Bà  Rịa  Vũng  Tàu:  14.470)  (Đổi  mới  và  Phát  triển  Con  người  ở  Việt  Nam.  Nhà  xuất  bản  Chính trị Quốc gia. 2001.)  2 0,796 (sau Bà Rịa – Vũng Tàu 0,835 và Hà Nội 0,798 (Đổi mới và Phát triển Con người ở Việt Nam. Nhà xuất  bản Chính trị Quốc gia. 2001.)  3 Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 16/10/2003, trang 1.  4 Nghiên cứu Đánh giá tình trạng nghèo có sự tham gia vào năm 1999 (SCUK 1999) và Tham khảo ý kiến cộng  đồng về  Chiến Lược Toàn Diện về Tăng Trưởng  và Xóa Đói Giảm Nghèo (CPRGS) vào cuối năm 2001 (SCUK  2002) đã có một số phát hiện về các khía cạnh nghèo và mối tương quan giữa vấn đề nghèo và di dân.  4
  16. Phần 1: Giới thiệu Mục tiêu cụ thể Nghiên cứu Đánh giá Tình trạng nghèo này nhằm tìm hiểu quan điểm cấp cơ sở về  nguyên nhân và xu hướng nghèo, và phản hồi của người dân nghèo về những nỗ lực  thực hiện chính sách hướng về người nghèo như chính sách giảm nghèo, quy chế dân  chủ cơ sở, cải cách hành chính, vấn đề di dân và các vấn đề đô thị khác. Cụ thể, đợt  nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các vấn đề sau:  • nhận  thức  về  nguyên  nhân  và  xu  hướng  nghèo,  động  thái  nghèo,  việc  làm,  những rủi ro, tính tổn thương   • tiến  độ  tăng  cường  thực  hiện  dân  chủ  cấp  cơ  sở,  đặc  biệt  là  mức  độ  các  hộ  nghèo  có  thể  tham  gia  một  cách  có  ý  nghĩa  vào  quá  trình  lập  kế  hoạch  và  ngân sách ở địa phương   • việc cải cách hành chính diễn ra ở cấp chính quyền địa phương như thế nào   • vấn đề về di dân trong bối cảnh đô thị và những vấn đề liên quan.   Phương pháp nghiên cứu Nghiên  cứu  này  là  một  nghiên  cứu  Đánh  giá  Tình  trạng  nghèo  có  sự  tham  gia  của  người dân (PPA), là một phương pháp không ngừng được công nhận trong thập kỷ  vừa  qua  như  là  “một  công  cụ  để  ghi  nhận  quan  điểm  người  nghèo  trong  phân  tích  vấn đề nghèo và hình thành các chiến lược để giảm nghèo bằng chính sách công”5. Là  một PPA, trước hết nghiên cứu này nhằm nâng cao khái niệm và sự hiểu biết về vấn  đề nghèo bằng cách tham vấn ý kiến người nghèo về nguyên nhân nghèo, dựa trên đó  các chính sách giảm nghèo có thể được thực hiện hiệu quả hơn nhờ xác định những  hành động ưu tiên giải quyết các vấn đề mà người nghèo nhận thấy quan trọng. Thứ  hai,  nghiên  cứu  nhằm  tăng  cường  sự  tham  gia  của  người  nghèo,  nhờ  vậy  khuyến  khích cơ chế hiệu quả hơn cho việc học hỏi và phản hồi về các kết quả của các chính  sách và chương trình. Thứ ba, nghiên cứu cũng nhằm làm sáng tỏ mức độ các chính  sách chủ yếu của nhà nước (như Nghị định Dân chủ cơ sở và Cải cách Hành chính)  được  biết  đến  và  hiểu  như  thế  nào,  tác  động  được  người  dân  cảm  nhận  của  những  chính sách này, và mức độ các cơ quan nhà nước khác nhau được người dân tin cậy  để phân phối lợi ích6.    Dùng các phương pháp và công cụ PPA, nghiên cứu này được thiết kế để bổ sung cho  đánh giá nghèo rút ra từ cuộc Điều tra Mức sống Hộ gia Đình của Tổng Cục Thống Kê  bằng  việc  cung  cấp  những  thông  tin  một  nghiên  cứu  định  lượng  như  cuộc  Điều  tra  không thể thu thập nắm bắt được, như sự đa khía cạnh của tình trạng nghèo, đơn vị  phân tích (phân tích các yếu tố nghèo ngoài đơn vị hộ gia đình như tác động của nghèo  lên những cá nhân khác nhau về tuổi tác và giới tính trong nội bộ hộ gia đình, hoặc các  yếu tố cộng đồng như tiếp cận cơ sở hạ tầng), tính dễ tổn thương và các quá trình động  thái.     Để  đạt  được  điều  trên,  nghiên  cứu  Đánh  giá  Tình  trạng  nghèo  này  dùng  một  loạt  các  phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội như thu thập thông tin thứ cấp để có được bối  cảnh, cơ sở, và đối chiếu các ghi nhận chính; thảo luận nhóm tập trung, quan sát trực  tiếp, phân hạng kinh tế hộ gia đình7, phỏng vấn cá nhân không cấu trúc và bán cấu trúc.   5 Norton, Andy. Đánh giá Tình trạng nghèo có sự tham gia của người dân – Lý thuyết và Thực hành. Overseas  Development Institute. 2001.  6 ibid. 7 Xem Phụ lục 1.  5
  17. Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh   Dựa  trên  mục  tiêu  và  phương  pháp  nghiên  cứu  trên,  cuộc  nghiên  cứu  tình  trạng  nghèo có sự tham gia của người dân lần này được thực hiện ở Thị trấn An Lạc và Xã  Tân Tạo thuộc Huyện Bình Chánh, Phường 4 và Phường 5 Quận 8, là các quận huyện  đang đô thị hóa có những đặc điểm và tốc độ phát triển khác nhau. Nghiên cứu thực  địa kéo dài hai tuần, từ ngày 3 đến ngày 16 tháng 8 năm 2003. Ngoài ra còn có các giai  đoạn chuẩn bị nghiên cứu, tập huấn, viết và thông qua báo cáo kết quả nghiên cứu.     Trong  mỗi  phường,  xã,  hoặc  thị  trấn,  để  tham  khảo  ý  kiến  người  nghèo,  có  4  cuộc  phân hạng kinh tế hộ, mỗi cuộc có 4 tham dự viên; và có 9 cuộc thảo luận nhóm, mỗi  cuộc  có  khoảng  12  tham  dự  viên,  gồm  phụ  nữ  nghèo  địa  phương,  nam  nghèo  địa  phương, phụ nữ nghèo nhập cư, nam nghèo nhập cư (ở độ tuổi từ 35‐55), thanh niên  nam  nữ  nghèo  địa  phương  và  thanh  niên  nam  nữ  nghèo  nhập  cư  (ở  độ  tuổi  18‐25),  thiếu  nhi  nghèo  địa  phương  và  thiếu  nhi  nghèo  nhập  cư  (ở  độ  tuổi  12‐16  tuổi),  và  chính quyền, ban ngành, đoàn thể địa phương.     Tương tự ở cấp quận huyện, thông tin và ý kiến được thu thập qua các buổi thảo luận  nhóm với chính quyền quận huyện và chủ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mỗi nhóm  khoảng 12 người tham dự.     Tổng cộng toàn đợt nghiên cứu có 16 cuộc phân hạng kinh tế hộ, 41 cuộc thảo luận  nhóm,  và  20  cuộc  phỏng  vấn  sâu  các  trường  hợp  điển  cứu  với  457  người  tham  dự,  được phân chia theo lứa tuổi, giới tính, và vị trí xã hội như sau (xem phụ lục 2):     • Theo tuổi: 271 người lớn (35‐55 tuổi), 92 thanh niên (18‐25 tuổi), và 94 trẻ em  (12‐16 tuổi)   • Theo giới: 223 nữ và 234 nam  • Theo  vị  trí  xã  hội:  70  cán  bộ  chính  quyền,  17  đại  diện  doanh  nghiệp  nhỏ  và  vừa,  và  370  người  dân  địa  phương  (trong  đó  193  người  thuộc  diện  KT1  và  KT2, 177 người thuộc diện KT3 và KT4)   • Theo dân tộc: Đại đa số tham dự viên là người Kinh. Chỉ có một số rất ít (11  người) là người Hoa, và một (01) người là dân tộc thiểu số (Tày).    Tổng số thành viên tham gia nghiên cứu gồm 47 người từ các tổ chức chính quyền,  đoàn thể, các cơ quan nghiên cứu và giáo dục, được điều phối bởi tổ chức phi chính  phủ là Tổ chức Cứu Trợ Trẻ Em Anh (SCUK). Trong số này có 5 người là nghiên cứu  viên của phía SCUK, 9 người từ các viện nghiên cứu và trường đại học, cao đẳng; 15  người  là  cán  bộ  chính  quyền,  ban  ngành,  đoàn  thể  địa  phương  3  cấp  (thành  phố,  quận/ huyện, phường/ xã/ thị trấn) đã tích cực tham gia như là các nghiên cứu viên  chính thức (xem Phụ lục 3). Trung bình mỗi quận/ huyện có 3 cán bộ quận/ huyện và  một số cán bộ phường/ xã/ thị trấn tham gia hỗ trợ thảo luận nhóm bằng cách cùng  hướng dẫn thảo luận hoặc ghi biên bản. Ngoài ra, các tổ trưởng và trưởng ban nhân  dân  khu  phố/  ấp  đã  tích  cực  hỗ  trợ  xác  định  người  dân  nghèo  tham  gia  phân  hạng  kinh tế hộ, thảo luận nhóm, phỏng vấn trường hợp điển cứu để nhóm nghiên cứu thu  thập ý kiến và ghi nhận thông tin.     6
  18. Phần 1: Giới thiệu Phạm vi và hạn chế của nghiên cứu Là một PPA, nghiên cứu này không nhằm đưa ra một bức tranh tổng thể về sự phát triển  kinh tế xã hội của TPHCM, cũng không nhằm đánh giá việc thực hiện chương trình xóa  đói  giảm  nghèo,  một  chương  trình  đã  đạt  được  nhiều  thành  tựu  đầy  sức  thuyết  phục  trong thập kỷ qua. Mục tiêu nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các khía cạnh của thực trạng  nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2003 cũng như nêu bật những thách thức còn tồn  tại trong bối cảnh Chính phủ đang nỗ lực cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân  bằng  nhiều  biện  pháp  và  phương  thức  phát  triển  kinh  tế  xã  hội  và  giảm  nghèo  được  khẳng định trong Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Giảm nghèo.     Tham gia nghiên cứu này có 370 người dân địa phương nghèo (người lớn, thanh niên,  và trẻ em), trong số 1.248 hộ nghèo (được chương trình Xóa đói Giảm nghèo xác định)  tại các phường, xã, thị trấn nơi nghiên cứu được tiến hành. Vì vậy, để đảm bảo các kết  luận được xác thực, đáng tin cậy và không thiên kiến, các phương pháp so sánh đối  chiếu  thông  tin  dữ  liệu  được  áp  dụng  để  đưa  ra  thực  tiễn,  kinh  nghiệm,  ưu  tiên  và  cảm nhận đại diện của người nghèo.  Bố cục của báo cáo Báo  cáo  này  được  chia  làm  6  phần.  Phần  1  giới  thiệu  chung  về  mục  tiêu,  địa  điểm,  phương pháp và thành phần tham gia nghiên cứu. Các phần sau viết về bối cảnh của  các địa bàn nghiên cứu thuộc TPHCM (Phần 2) và các thông tin liên quan đến nhận  thức  về  nghèo  (Phần  3),  sự  tham  gia  và  trao  quyền  (Phần  4),  cải  cách  hành  chính  (Phần 5), di dân và các vấn đề đô thị khác (Phần 6). Để tiện cho độc giả tham khảo, có  một phần tóm tắt báo cáo (trang 1‐3), và ở đầu mỗi phần (từ Phần 3 đến 6) có phần  tóm lược các thông tin ghi nhận chính.   7
  19. Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh Phần 2: Địa điểm Nghiên cứu Huyện Bình Chánh Huyện Bình Chánh nằm phía tây nam Thành phố Hồ Chí Minh, nối liền Thành phố  với Đồng bằng Sông Cửu Long bằng Quốc lộ 1. Huyện Bình Chánh có tổng diện tích  30.458  héc‐ta,  trong  đó  có  khoảng  20.000  héc‐ta  đất  nông  nghiệp  và  3.000  héc‐ta  đất  thổ cư. Huyện Bình Chánh có 1 thị trấn và 19 xã.     Huyện có một (01) Trung tâm y tế, 3 phòng khám khu vực, 25 trường mẫu giáo, 53  trường tiểu học và phổ thông cơ sở, 4 trường phổ thông và trung học cơ sở, một (01)  trường đặc biệt bán tập trung cho trẻ khuyết tật, một (01) Trung tâm Dạy nghề (một  cơ  sở  chính  và  4  cơ  sở  phụ)  trực  thuộc  Phòng  Lao  Động  Thương  Binh  Xã  hội),  một  (01) Trung tâm Giáo dục Thường xuyên.    Quá trình phát triển kinh tế và xã hội mạnh mẽ bắt đầu diễn ra tại Huyện Bình Chánh  từ giữa những năm 1990. Quá trình này đã thu hút một làn sóng người nhập cư từ các  quận huyện cũng như tỉnh thành khác đến. Hiện tại có 4 khu công nghiệp và khoảng  900 xí nghiệp và doanh nghiệp (ngoài ra còn có hơn 11.000 hộ kinh doanh cá thể) hoạt  động trên địa bàn Huyện, đa số tập trung vào một số xã như Tân Tạo, Lê Minh Xuân,  Vĩnh Lộc A, và Thị trấn An Lạc. Vì vậy, dân số tăng trưởng với tốc độ hết sức nhanh,  đến mức chính quyền địa phương cho rằng họ khó có thể đưa ra một con số thống kê   chính xác về số lượng những người chưa/ không có hộ khẩu thường trú.     Theo  thống  kê  vào  tháng  8  năm  2003,  có  43.733  hộ  gồm  461.647  người  cư  trú  tại  Huyện Bình Chánh. Trong số này 182.449 người không có hộ khẩu thường trú (78.844  diện  KT3  và  103.605  diện  KT4)  (xem  Phụ  lục  4  về  các  loại  hình  thức  cư  trú  đối  với  quản  lý  hành  chính:  KT1,  KT2,  KT3,  và  KT4).  Sự  tăng  trưởng  dân  số,  đặc  biệt  là  số  không có hộ khẩu thường trú đã tăng lên rất nhanh. So với thống kê điều tra dân số  ngày 1 tháng 4 năm 1999, dân số đã tăng thêm khoảng 130.000 người (Bảng 1). Thị trấn An Lạc Thị trấn An Lạc có diện tích 600 héc‐ta, trong đó khoảng 170 héc‐ta đất thổ cư gồm 7  khu  phố  và  185  tổ  dân  phố.  Nằm  dọc  theo  Quốc  lộ  1  và  là  cửa  ngõ  vào  đồng  bằng  sông Cửu Long, thị trấn này đã chứng kiến quá trình đô thị hóa từ những năm 1980,  sớm  hơn  khá  nhiều  so  với  những  xã  còn  lại  của  Huyện,  khi  các  xí  nghiệp  và  cơ  sở  kinh doanh bắt đầu phát triển. Từ đó, quá trình đô thị hóa ở đây tiếp tục diễn ra cùng  với  quá  trình  đô  thị  hóa  của  Huyện Bình  Chánh,  làm  cho dân  số  thị  trấn  cũng  tăng  nhanh  tương  ứng.  Hiện  nay  thị  trấn  có  7.962  hộ  với  dân  số  47.920  người,  trong  đó  khoảng 16.000 (tức một phần ba) người không trong diện đăng ký thường trú. Trong  số này, đáng chú ý là gần 10.000 nhân khẩu thuộc diện KT4 chỉ được ghi nhận như là  nhân khẩu chứ không được phân loại là hộ như các diện cư trú khác (KT1, KT2, KT3).   Xã Tân Tạo Xã Tân Tạo là một trong những xã có diện tích lớn nhất của Huyện Bình Chánh (1.738  héc ta), với khoảng 70 héc ta đất thổ cư với 4 ấp và 158 tổ dân phố Tân Tạo cũng là một  trong 4 xã có tiến trình đô thị hoá nhanh và mạnh nhất trong huyện. So với Thị trấn An  Lạc, sự gia tăng dân số của Tân Tạo đột biến hơn nhiều. Đến nay, Tân Tạo có 61.023 cư  8
  20. Phần 2: Địa điểm Nghiên cứu dân với khoảng hai phần ba (2/3) (khoảng 40.000) thuộc diện đăng ký KT3 và KT4. Cũng  như ở Thị trấn An Lạc, trong số này, khoảng 35.000 nhân khẩu diện KT4 chỉ được ghi  nhận như là nhân khẩu. Có sự gia tăng dân số cao đột biến như vậy là do trên địa bàn  xã các khu công nghiệp và các xí nghiệp, doanh nghiệp lớn, nhỏ, và vừa liên tục thành  lập  và  đi  vào  hoạt  động  trong  vòng  5  năm  qua.  Theo  số  liệu  thống  kê  mới  nhất  của  UBND huyện, hiện tại xã có 3 khu công nghiệp và 116 xí nghiệp lớn mới thành lập.  Bảng 1. Dân số Huyện Bình Chánh, Thị trấn An Lạc và Xã Tân Tạo. Huyện Bình Chánh Thị trấn An Lạc Xã Tân Tạo Diện tích (héc-ta) 30,458 600 1,738 Dân số 461,6478 47,9209 61,02310 - Có thường trú tại TPHCM (KT1 + KT2) 279,198 31,944 21,501 - Không có thường trú (KT3 + KT4) 182,449 15,976 39,522 (40%) (33%) (65%) Mức độ tăng trưởng dân số (so với 129,558 9,911 38,940 Tổng điều tra dân số 1/4/1999) (28%) (21%) (64%) Dân tộc Kinh11 95.5% 88.9% 97.0% Dân tộc Hoa12 4.3% 10.9% 2.8% Dân tộc khác13 0.2% 0.2% 0.2% * Lưu ý: các con số thống kê không hoàn toàn tương ứng do lấy từ vài nguồn khác nhau  Quận 8 Quận 8, nằm ở phía tây nam TPHCM, cũng là một địa bàn gắn với cửa ngõ vào  Đồng  Bằng Sông Cửu Long nhờ một số tuyến đường và quốc lộ mới xây dựng và mở rộng  (Bắc Nhà Bè – Nam Bình Chánh). Đặc điểm địa lý của Quận 8 khác hơn nhiều quận  huyện  khác  là  có  nhiều  hệ  thống  sông  rạch  và  kênh  đào  nhỏ,  chằng  chịt,  chiếm  khoảng 14% của tổng diện tích toàn quận là 18,8 km2. Trải qua quá trình đô thị hoá  nhanh  chóng,  Quận  8  đã  giảm  hẳn  số  phường  nông  nghiệp,  từ  4  (trên  tổng  số  16  phường)  cách  đây  vài  năm,  nay  không  còn  phường  nông  nghiệp  nào;  toàn  bộ  16  phường đã trở thành phường bán nông nghiệp.     Quận 8 có một Trung tâm Y tế mới xây dựng, 17 trường mẫu giáo, 18 trường tiểu học,  11  trường  phổ  thông  cơ  sở  và  phổ  thông  trung  học,  một  trường  đặc  biệt  cho  trẻ  khuyết tật, một trung tâm giáo dục thường xuyên, và một trường dạy nghề.     Dân số có đăng ký (thường và tạm trú) của Quận 8 là 538.547 người, trong số đó 89%  là người Kinh, 10,39% là người Hoa, 0,44% người Chăm, và 0,17% người Khơ‐me và  8 Số liệu do công an địa phương cấp 14/8/2003.  9 Số liệu UBND cấp tháng 8/2003.  10 Số liệu do công an địa phương cấp 29/8/2003.  11 Số liệu theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999.  12 Số liệu theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999.  13 Số liệu theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999. 9
nguon tai.lieu . vn