- Trang Chủ
- Kiến trúc - Xây dựng
- Công tác nghiên cứu trầm tích Đệ Tứ, tìm kiếm - thăm dò và quản lý, sử dụng vật liệu xây dựng mềm rời vùng Quảng Trị - Thừa Thiên Huế
Xem mẫu
- 1
CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU TRẦM TÍCH ĐỆ TỨ, TÌM KIẾM - THĂM DÒ
VÀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VẬT LIỆU XÂY DỰNG MỀM RỜI
VÙNG QUẢNG TRỊ - THỪA THIÊN HUẾ
(The overall of Quaternary Sediment Research, Search - Exploration, Management and Use of
Granular - Cohesion Natural Building Materials in Quang tri - Thua Thien Hue Area)
Đặng Quốc Tiến, Nguyễn Thanh, Đỗ Quang Thiên
Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế
Tóm tắt: Mục đích của bài báo là đánh giá tổng quan một số công trình nghiên cứu tiêu biểu,
có liên quan đến công tác nghiên cứu trầm tích Đệ Tứ gắn với tìm kiếm - thăm dò, quản lý,
khai thác sử dụng nguồn vật liệu xây dựng tự nhiên mềm rời ở lãnh thổ Quảng Trị - Thừa
Thiên Huế. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả tiến hành đánh giá những thành tựu đã đạt được
cũng như những tồn tại, hạn chế trong công tác nghiên cứu trầm tích Đệ Tứ, tìm kiếm - thăm
dò, quản lý và sử dụng nguồn vật liệu xây dựng mềm rời trên địa bàn nghiên cứu.
Từ khóa: Vật liệu xây dựng tự nhiên, trầm tích Đệ Tứ, tìm kiếm - thăm dò, quản lý.
Abstract: The purpose of this paper is to assess the overall some typical research works,
related to research Quaternary sediments, associated with the search - exploration,
management, exploitation and use of granular - cohesion natural building materials in Quang
Tri - Thua Thien Hue. On this basis, the authors assessed the achievements as well as
shortcomings and limitations in Quaternary sediment research, search - exploration,
management and use of these building material resources on the study area.
Keywords: Natural building materials, Quaternary sediments, search - exploration,
management.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thông thường, trong xây dựng, chi phí về vật liệu xây dựng chiếm 74-75% đối với
công trình dân dụng - công nghiệp; 70% đối với công trình giao thông và 50% tổng giá thành
công trình thủy lợi, thủy điện [4]. Do vậy công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác và sử dụng
vật liệu xây dựng nói chung và vật liệu xây dựng tự nhiên mềm rời nói riêng là vô cùng quan
trọng, không những mang tính cấp bách cao mà còn có ý nghĩa lớn về khoa học và thực tiễn.
Trong thời gian qua công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác và sử dụng vật liệu xây dựng
tự nhiên, kể cả vật liệu xây dựng liên quan đến trầm tích Đệ Tứ ở nước ta và vùng nghiên cứu
đã góp phần đáng kể trong việc cung cấp các chủng loại vật liệu khác nhau cho ngành xây
dựng (cát cuội sỏi, đất sét gạch ngói, đất san nền, đá xây dựng...) cũng như chủ động về
nguồn vật liệu xây dựng tại chỗ,... Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập từ khâu quy hoạch, tìm
kiếm, thăm dò vật liệu xây dựng; quy hoạch nhu cầu vật liệu xây dựng đến khâu quy hoạch,
cấp phép khai thác, sử dụng vật liệu, nhất là vật liệu xây dựng liên quan đến trầm tích Đệ Tứ
ở đồng bằng ven biển Quảng Trị - Thừa Thiên Huế. Thật vậy, công tác lập bản đồ địa chất tỷ
lệ 1:200.000 - 1:50.000 cũng như một số đề tài nghiên cứu trầm tích Đệ Tứ đã được triển khai
ở vùng nghiên cứu từ nhiều năm nay. Nhưng cho đến nay vẫn chưa thành lập được bản đồ địa
chất Đệ Tứ chi tiết như là cơ sở khoa học phục vụ cho công tác quy hoạch tìm kiếm, thăm dò
vật liệu xây dựng mềm rời Đệ Tứ của lãnh thổ nghiên cứu. Mặt khác, do công tác tìm kiếm,
thăm dò vật liệu xây dựng tự nhiên thường nhỏ lẻ, thiếu quy hoạch, khối lượng và loại hình
thí nghiệm thành phần vật chất, tính chất vật liệu còn ít,... nên chưa làm sáng tỏ được đặc
điểm phân bố, chưa khoanh định được các loại hình vật liệu cũng như đánh giá chất lượng, trữ
- 2
lượng tiềm năng, tài nguyên dự báo vật liệu xây dựng trầm tích Đệ Tứ có độ tin cậy cần thiết.
Do vậy, khối lượng, chủng loại vật liệu xây dựng thăm dò đưa vào khai thác hàng năm thường
quá thấp, không đảm bảo nhu cầu sử dụng (ở Thừa Thiên Huế lượng cát khai thác năm 2015
chỉ đạt 41.384m3 so với nhu cầu sử dụng là 1.398.800m3, năm 2016 là 97.000m3 so với nhu
cầu sử dụng là 1.455.000m3; ở tỉnh Quảng Trị lượng cát khai thác năm 2015 là 84.224m3, năm
2016 là 58.510m3 so với nhu cầu sử dụng là 420.000m3, đất sét năm 2016 là 46.018m3,...) [6,
8, 9]. Ngoài ra, có không ít mỏ vật liệu thăm dò xong nhưng do chất lượng không đảm bảo
nên không khai thác, sử dụng được. Tình trạng thiếu hụt nguồn cung cấp vật liệu xây dựng
hàng năm nói trên cũng là nguyên nhân gia tăng hoạt động khai thác cát sỏi trái phép ở nhiều
địa phương khác nhau.
Tiếp theo là vấn đề quy hoạch khai thác, sử dụng vật liệu cũng còn nhiều bất hợp lý,
lãng phí tài nguyên khoáng sản. Nhiều vùng cát trắng thủy tinh (nguyên liệu sản xuất thủy
tinh chất lượng cao) chỉ được sử dụng làm nền cho các khu công nghiệp, khu đô thị,... Bên
cạnh đó, tình trạng quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng
thông thường được phê duyệt trong khi quy hoạch về phát triển vật liệu xây dựng của tỉnh
chưa thực hiện xong (tỉnh Quảng Trị). Thêm vào đó, quy hoạch khoáng sản ở địa phương
thường do Sở Xây dựng chủ trì lập trong khi cơ quan tham mưu cấp phép thăm dò, khai thác
là Sở Tài nguyên và Môi trường [9], dẫn đến sự chồng chéo về thực hiện, cấp phép chưa căn
cứ vào nhu cầu thực tế của từng địa phương, khâu quy hoạch thiếu tài liệu, việc khảo sát, thi
công công trình khoan để đánh giá chiều dày không được thực hiện, thí nghiệm đánh giá chất
lượng chưa đầy đủ còn khá phổ biến... Việc nghiên cứu tổng thể về trầm tích Đệ Tứ chưa
được triển khai đầy đủ mà chủ yếu căn cứ vào tài liệu địa chất tỷ lệ 1:200.000 và 1:50.000 nên
phần nào ảnh hưởng đến chất lượng quy hoạch, cũng như công tác quản lý, cấp phép hoạt
động khoáng sản.
2. CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU TRẦM TÍCH ĐỆ TỨ
Khu vực Quảng Trị - Thừa Thiên Huế đã được các nhà địa chất người Pháp và Việt
Nam nghiên cứu từ rất sớm, đồng thời đã khoanh vùng các thành tạo trầm tích Đệ Tứ, làm rõ
địa tầng khu vực, cũng như nghiên cứu tiến hóa và các khoáng sản liên quan. Một số kết quả
nghiên cứu tiêu biểu về trầm tích Đệ Tứ được liệt kê như dưới đây [3]:
Bản đồ Địa chất Việt Nam tỷ lệ 1:1.000.000 của Trần Văn Trị năm 2000 đã phân chia
địa tầng Đệ Tứ ở khu vực nghiên cứu thành các mức tầng là Pleistocen thượng (Q13), Holocen
thượng, trung, hạ (Q21-2, Q22, Q22-3) với nguồn gốc là sông, biển và gió. Trên bản đồ này chỉ
mới đề cập đến Pleistocen thượng, trong khi vùng nghiên cứu đã có mặt Pleistocen hạ, trung.
Bản đồ Địa chất và Khoáng sản Việt Nam tỷ lệ 1:200.000 tờ Lệ Thủy - Quảng Trị của
Nguyễn Xuân Dương (1996) bao gồm một phần diện tích nghiên cứu đã phân chia địa tầng
Đệ Tứ thành các mức tầng: Pleitocen hạ - trung (Q11-2), Pleistocen thượng (Q13), Holocen
trung (Q22), Holocen thượng (Q13), Holocen (Q2) và Đệ tứ không phân chia. Tuy nhiên, trên
bản đồ này, ở vùng Vĩnh Linh có cát mịn vàng nghệ, nâu đỏ thuộc Pleistocen thượng nhưng
tác giả đã xếp vào Holocen trung nguồn gốc sông biển (amQ22).
Bản đồ Địa chất và Khoáng sản Việt Nam tỷ lệ 1:200.000 tờ Hướng Hóa - Huế - Đà
Nẵng của Nguyễn Văn Trang (1995) bao gồm một phần diện tích nghiên cứu đã phân chia địa
tầng Đệ Tứ thành các mức tầng: Pliocen - Pleitocen hạ (N2 - Q11), Pleitocen trung - thượng
(Q12-3), hệ tầng Đà Nẵng (Q13 đn), hệ tầng Nam Ô (Q11-2 no), Holocen trung (Q22), Holocen
thượng (Q23) và Đệ tứ không phân chia. Qua nghiên cứu, tác giả đã phân chia riêng cho hệ
tầng Đà Nẵng vào mức tầng Pleistocen thượng. Tuy nhiên, ở Lăng Cô (huyện Phú Lộc) tỉnh
Thừa Thiên Huế có cát mịn vàng nghệ, hệ tầng Đà Nẵng thuộc mức tầng Pleistocen thượng
nhưng tác giả đã xếp vào Holocen trung nguồn gốc sông biển.
Bản đồ Địa chất và Khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 cho thấy vùng Quảng Trị - Thừa Thiên
Huế đã khảo sát chi tiết, khoanh định và phân chia khá nhiều phân hệ tầng nhỏ, theo đó, cát
- 3
màu vàng nghệ được tác giả xếp vào hệ tầng Phú Xuân, thống Pleistocen thượng (mQ13 px).
Tuy nhiên, tương tự như Bản đồ Địa chất và Khoáng sản Việt Nam tỷ lệ 1:200.000 tờ Hướng
Hóa - Huế - Đà Nẵng của Nguyễn Văn Trang (1995), tại Lăng Cô là cát mịn vàng nghệ nằm
dưới tầng phủ cát trắng khoảng 20cm nhưng tác giả đã xếp vào Holocen trung - thượng nguồn
gốc sông biển. Tại xã Triệu Ái (huyện Triệu Phong), tỉnh Quảng Trị có cát mịn vàng nghệ
nhưng tác giả xếp vào trầm tích sông biển, thống Pleistocen thượng (amQ13 px) với thành
phần là bột sét, cát màu xám, xám đen nhạt. Việc nghiên cứu này đã phân chia các địa tầng
Đệ Tứ thành các mức tầng từ tổng quát đến chi tiết để thuận tiện cho sử dụng, đồng thời chỉ ra
những khu vực có tiềm năng khoáng sản như vàng, titan, cát trắng, sét gạch ngói, cát sỏi xây
dựng... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì việc nghiên cứu vật liệu xây dựng tự
nhiên liên quan đến trầm tích Đệ Tứ chưa được quan tâm đúng mức nên vẫn còn một số tồn
tại như trên.
Luận án tiến sỹ của Vũ Quang Lân với đề tài Tiến hóa các thành tạo trầm tích Đệ Tứ
vùng đồng bằng Quảng Trị - Thừa Thiên Huế đã phát hiện 1 điểm sét đạt tiêu chuẩn cho sản
xuất xi măng tại Phú Thứ (huyện Phú Vang) tỉnh Thừa Thiên Huế nằm trong trầm tích sông -
biển - đầm lầy tuổi Holocen giữa muộn ở độ sâu 0,3 - 1,4m (ambQ22-3). Tuy nhiên, qua nghiên
cứu bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ lệ 1:200.000 thì khu vực Phú Thứ chủ yếu là trầm tích
sông, sông - biển tuổi Holocen trung. Trên bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 thì
khu vực Phú Thứ chủ yếu là trầm tích sông - biển, biển tuổi Holocen trung - thượng thuộc hệ
tầng Phú Vang 1, ngoài ra, có diện tích nhỏ là trầm tích sông - biển - đầm lầy tuổi Holocen
giữa muộn (ambQ22-3 pv1) với trầm tích là cát thạch anh lẫn mùn thực vật, than bùn màu đen
và trầm tích biển - sông - đầm lầy tuổi Holocen giữa muộn (mabQ22-3 pv2) với trầm tích là cát,
cát bột sét chứa di tích động thực vật, màu xám đen. Do đó, việc xếp sét trầm tích ở vùng Phú
Thứ vào trong trầm tích sông - biển - đầm lầy tuổi Holocen giữa muộn (ambQ22-3) và đạt tiêu
chuẩn dùng cho sản xuất xi măng là chưa phù hợp với bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ lệ
1:200.000 cũng như bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ lệ 1:50.000.
3. CÔNG TÁC XÂY DỰNG, TRIỂN KHAI QUY HOẠCH TÌM KIẾM - THĂM DÒ,
THÍ NGHIỆM CÁC LOẠI MẪU, ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG, TRỮ LƯỢNG VẬT
LIỆU XÂY DỰNG TỰ NHIÊN MỀM RỜI ĐỆ TỨ
3.1. Tình hình ban hành văn bản pháp quy về tìm kiếm - thăm dò, thí nghiệm, đánh giá
trữ lượng, chất lượng vật liệu xây dựng tự nhiên
Hiện nay, các qui phạm Nhà nước chính thống hướng dẫn công tác tìm kiếm - thăm dò
Đối với vật liệu xây dựng tự nhiên nói chung, vật liệu xây dựng tự nhiên mềm rời Đệ Tứ nói
riêng không có nhiều và ban hành rất chậm. Các quy định kỹ thuật về công tác thăm dò cát,
sỏi lòng sông và đất, đá làm vật liệu san lấp được thực hiện theo TT số 01/2016/TT-BNTMT
ngày 13/01/2016; quy định về thăm dò, phân cấp trữ lượng và tài nguyên các mỏ đá sét thực
hiện theo TT số 22/2009/TT-BTNMT ngày 11/11/2009 của Bộ TN và MT [1]. Tình trạng
chậm ban hành quy phạm chính thống về tìm kiếm - thăm dò vật liệu xây dựng tự nhiên mềm
rời Đệ Tứ đã gây khó khăn từ các khâu điều tra, lập, triển khai tìm kiếm, thăm dò đến các
khâu thí nghiệm, đánh giá chất lượng, trữ lượng mỏ.
3.2. Công tác lập quy hoạch tìm kiếm, thăm dò vật liệu xây dựng tự nhiên mềm rời
Nhìn chung, trong thời gian qua công tác xây dựng, tìm kiếm và triển khai quy hoạch
thăm dò, khai thác khoáng sản chưa đồng đều, quy định nhà nước thường mang tính định
hướng, không thể cụ thể cho từng địa phương, trong khi đó việc điều tra, đánh giá về địa chất
và khoáng sản ở mỗi địa phương khác nhau, chất lượng phụ thuộc vào thời điểm thực hiện,
kinh phí, trình độ chuyên môn của cán bộ. Do đó, một số tỉnh xây dựng quy hoạch có nội
dung phong phú và triển khai thực hiện tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, không ít quy hoạch tìm
kiếm - thăm dò vật liệu xây dựng tự nhiên mềm rời lập ra không toàn diện, chỉ tập trung vào
một loại hình vật liệu xây dựng duy nhất (cát sỏi hay đất sét gạch ngói…), không chỉ rõ thời
- 4
gian quy hoạch, không có dự báo khối lượng khai thác, tiêu thụ hàng năm…
Cuối cùng, vẫn còn có tỉnh xây dựng quy hoạch thăm dò, khai thác mang tính chất đối
phó, “làm cho có”, thậm chí đưa vào quy hoạch khoáng sản những khu vực không khả thi về
khai thác. Một số khu vực khoáng sản đưa vào quy hoạch và được cấp phép thăm dò, khai
thác đúng quy định nhưng khi triển khai thì không nhận được sự đồng thuận của người dân
(mỏ cát sỏi thôn Hộ, xã Dương Hòa, thị xã Hương Thủy; mỏ cát Thủy Biều, thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế)... gây lãng phí trong đầu tư của doanh nghiệp và đặc biệt không gắn kết
giữa công tác quy hoạch với thực tiễn triển khai.
3.3. Công tác triển khai quy hoạch tìm kiếm, thăm dò, khai thác các mỏ vật liệu xây
dựng mềm rời Đệ Tứ đã quy hoạch
Công tác tìm kiếm, thăm dò các mỏ vật liệu, nhất là cát sỏi thường được bắt đầu bằng
công tác tìm kiếm, đo vẽ bản đồ địa chất từ 1:25.000 đến 1:2.000, sau đó là triển khai công tác
thăm dò bằng khoan, ít hơn có đào hố thăm dò, thí nghiệm hóa khoáng, cơ lý, thành phần hạt
của vật liệu… Tuy nhiên, các loại hình công tác thăm dò, thí nghiệm mẫu không có luận giải
về khối lượng, mạng lưới, chiều sâu… không ít mỏ vật liệu có một số loại hình thí nghiệm
không đầy đủ. Riêng đối với những khu vực vật liệu khai thác trái phép do không được tiến
hành thăm dò cũng như thí nghiệm với số lượng cần thiết nhưng vẫn được sử dụng nên ảnh
hưởng lớn đến công tác quản lý, quy hoạch, chất lượng các công trình xây dựng.
Một trong những nội dung trọng tâm trong quy hoạch thăm dò khoáng sản vật liệu xây
dựng thông thường cần phải làm rõ là khả năng khai thác, chất lượng, trữ lượng đối với những
khu vực dự kiến đưa vào đấu giá. Tuy nhiên, việc đánh giá, thăm dò để đưa vào quy hoạch
còn nhiều bất cập, dẫn đến khu vực Quảng Trị - Thừa Thiên Huế chưa triển khai được công
tác đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
3.4. Công tác đánh giá chất lượng, trữ lượng khoáng sản vật liệu xây dựng mềm rời
Nhìn chung, các mỏ vật liệu xây dựng tự nhiên mềm rời Đệ Tứ sau quá trình tìm kiếm
thăm dò, thí nghiệm đều được đánh giá ở mức độ khác nhau về chất lượng khoáng sản theo
các Tiêu chuẩn Việt Nam và Tiêu chuẩn xây dựng. Song, như đã đề cập, do thiếu quy phạm
chính thống tìm kiếm - thăm dò vật liệu xây dựng, loại hình và khối lượng mẫu thí nghiệm
không đầy đủ nên việc đánh giá chất lượng khoáng sản với độ tin cậy còn hạn chế. Thực tế
vẫn còn xảy ra tình trạng một số vùng đánh giá, thăm dò đưa vào quy hoạch để khai thác cát
sỏi xây dựng nhưng thực chất là thu hồi vàng sa khoáng, như vậy có thể thấy vẫn còn bất cập
trong công tác đánh giá, thí nghiệm mẫu để đưa vào quy hoạch và kể cả công tác thăm dò
khoáng sản sau khi đã có quy hoạch.
Công tác tính trữ lượng, phân cấp trữ lượng, tài nguyên khoáng sản vật liệu xây dựng
mềm rời đã được triển khai. Đối với cát trắng nguyên liệu thủy tinh, cát sỏi sản xuất bê tông,
vữa xây trát thường sử dụng phương pháp khối địa chất để tính trữ lượng, còn trữ lượng, tài
nguyên khoáng sản được phân thành các cấp B, C1, C2 và nay phân theo cấp 122, 333. Trong
lúc đó đất loại sét gạch ngói được tính toán trữ lượng theo phương pháp nào không được chỉ
rõ, đồng thời trữ lượng sét không xếp vào cấp trữ lượng tương thích, chỉ vận dụng và tính theo
khối địa chất với trữ lượng thường ở cấp 122.
4. CÔNG TÁC QUẢN LÝ, LẬP VÀ TRIỂN KHAI QUY HOẠCH THĂM DÒ, THÍ
NGHIỆM, ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG, TRỮ LƯỢNG KHAI THÁC, SỬ DỤNG
KHOÁNG SẢN
4.1. Quản lý công tác lập, triển khai quy hoạch tìm kiếm - thăm dò khoáng sản, thí
nghiệm mẫu, đánh giá chất lượng, trữ lượng mỏ
Công tác lập và triển khai quy hoạch thăm dò khoáng sản theo các giai đoạn đã được
các cơ quan quản lý ngành từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương
xuống đến Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Công Thương, Sở Xây dựng cũng như chính
- 5
quyền từ Chính phủ xuống Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, thậm chí tận huyện, xã cũng chỉ
đạo, kiểm tra thực hiện các khâu, giai đoạn tìm kiếm - thăm dò mỏ vật liệu đã đưa vào quy
hoạch. Nhờ đó đã phát hiện, đánh giá chất lượng, trữ lượng nhiều mỏ đáp ứng nhu cầu sử
dụng vật liệu xây dựng trong thời gian qua. Tuy vậy, chất lượng các quy hoạch và việc triển
khai công tác tìm kiếm - thăm dò, thí nghiệm… ở các tỉnh không đồng đều, tính thực tiễn
chưa cao, khả năng quản lý nhà nước đâu đó vẫn còn hạn chế, bất cập [5].
Chẳng hạn, mỗi địa phương có một cách triển khai lập quy hoạch thăm dò, khai thác, sử
dụng khoáng sản thuộc thẩm quyền khác nhau, mà chủ yếu là dựa vào việc thu thập tài liệu,
kinh phí được duyệt, cách triển khai… để thực hiện như: Quy hoạch thăm dò, khai thác cát sỏi
tại tỉnh Thừa Thiên Huế có thi công 50 lỗ khoan tay, lấy 124 mẫu và đào 262 hào, lấy 262
mẫu để xác định một số tính chất cơ lý; tại tỉnh Quảng Trị chủ yếu căn cứ vào điều tra chi tiết,
tổng hợp các mỏ đã cấp phép để đưa vào Quy hoạch.
Ngoài ra, chưa bám sát nguyên tắc hoặc không kiên quyết loại ra khỏi quy hoạch hoạt
động khoáng sản các khu vực ít có triển vọng hoặc không được sự đồng tình của nhân dân nên
không triển khai thăm dò (mỏ cát thạch anh huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị) hoặc thăm dò
nhưng không khai thác được (mỏ cát sỏi bãi bồi thôn Hộ, xã Dương Hòa, thị xã Hương Thủy,
tỉnh Thừa Thiên Huế)…
Công tác quản lý quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản đã ban hành còn nhiều bất
cập từ trung ương đến địa phương, thực tế đã xảy nhiều quy hoạch khoáng sản được phê
duyệt, công bố nhưng sau đó lại có một số quy hoạch về dân cư, đường điện, giao thông…
chạy qua. Do đó, quy hoạch bị phá vỡ và gây lãng phí nguồn tài nguyên khoáng sản quốc gia.
4.2. Quản lý công tác khai thác, sử dụng khoáng sản
Vấn đề quản lý, khai thác, sử dụng vật liệu xây dựng tự nhiên mềm rời Đệ Tứ, bên cạnh
thành tựu cơ bản là khai thác, cung cấp cát sỏi, đất loại sét cho các nhu cầu xây dựng ngày
một gia tăng ở các tỉnh khu vực nghiên cứu, cũng còn không ít hạn chế, bất cập về lãng phí tài
nguyên, ô nhiễm môi trường và an ninh xã hội…[6,9]. Thật vậy, không ít khu vực cát trắng ở
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế chỉ sử dụng làm mặt bằng, làm nền công trình và đô thị. Việc
khai thác đất sét gạch ngói dưới chủ trương “cải tạo đồng ruộng” ở những vùng đất thấp trũng
trồng lúa màu mỡ đang là vấn nạn chưa có phương thức thay thế hiệu quả.
Khai thác cát sỏi làm vật liệu xây dựng ở lãnh thổ nghiên cứu hầu hết diễn ra tự phát,
chủ yếu là khai thác thủ công, bán cơ giới vào ban đêm ở những bãi cát sỏi ven sông, ít hơn là
cát sỏi lòng sông. Trong đó, tệ nạn khai thác chọn lấy cát và thải lại cuội sỏi vừa làm thay đổi
địa hình lòng sông, gây xói lở bờ vừa làm ô nhiễm môi trường nước. Do vậy, đã có chỉ thị
nghiêm cấm tệ nạn khai thác trái phép, kể cả tổ chức kiểm tra liên ngành, nhưng vẫn không
chấn chỉnh được triệt để tệ nạn này [7]. Hiện nay, các tỉnh đã ban hành Phương án bảo vệ
khoáng sản chưa khai thác, trong đó có cát sỏi lòng sông, đất loại sét… nhưng tình trạng khai
thác trái phép vẫn xảy ra mà chưa có phương án xử lý hữu hiệu.
Cuối cùng, việc cấp Giấy phép khai thác các mỏ vật liệu xây dựng tự nhiên mềm rời Đệ
Tứ có nơi, có lúc còn tùy tiện, không theo quy hoạch phê duyệt hoặc cấp phép khai thác cả
những mỏ vật liệu không đảm bảo chất lượng, trữ lượng…
5. KẾT LUẬN
Từ các kết quả phân tích, đánh giá nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét như dưới đây:
- Mặt dù đã đạt được một số thành tựu nhất định trong thời gian qua, song vẫn còn
nhiều tồn tại và bất cập trong công tác nghiên cứu trầm tích Đệ tứ, lập - triển khai - quản lý
quy hoạch tìm kiếm - thăm dò, thí nghiệm các loại mẫu, đánh giá chất lượng, trữ lượng và
khai thác, sử dụng nguồn vật liệu xây dựng tự nhiên mềm rời Đệ tứ
- Cần có một phương pháp tiếp cận mới và nhất quán trong nghiên cứu, khoanh định các
thành tạo Đệ Tứ ở khu vực Quảng Trị - Thừa Thiên Huế như là cơ sở khoa học quan trọng
- 6
trong việc định hướng nghiên cứu toàn diện nguồn vật liệu xây dựng tự nhiên mềm rời, phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2009. TT số 22/2009/TT-BTNMT quy định về thăm dò,
phân cấp trữ lượng và tài nguyên các mỏ đá sét.
2. Trần Binh Chư, Ngô Xuân Đắc và nnk, 2013. Một số kết quả bước đầu nghiên cứu vật
liệu xây dựng tự nhiên vùng ven biển Đông Bắc Việt Nam.
3. Vũ Quang Lân, 2003. Tiến hóa các thành tạo trầm tích Đệ Tứ vùng đồng bằng Quảng Trị
- Thừa Thiên Huế, Luận án tiến sỹ Thạch học - Khoáng vật - Trầm tích học, Đại học Khoa
học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Đỗ Quang Thiên và nnk, 2014. Vật liệu xây dựng, NXB. Đại học Huế.
5. Quyết định số 152/2008/QĐ-TTg ngày 28/11/2008. Phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai
thác, chế biến và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng ở Việt Nam đến năm 2020.
6. UBND tỉnh Quảng Trị, 2016. Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản tỉnh
Quảng Trị đến năm 2020, có tính đến năm 2030.
7. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, 2010. Chỉ thị số 12/2010/CT-UBND về tăng cường quản lý
nhà nước hoạt động khảo sát, thăm dò, khai thác cát sỏi và nạo vét kết hợp tận thu cát sỏi
lòng sông;
8. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, 2011. Quy hoạch khai thác cát sỏi xây dựng trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020 và định hướng đến năm 2020;
9. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, 2017. Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng tài nguyên
khoáng sản đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 tỉnh Thừa Thiên Huế;
nguon tai.lieu . vn