Xem mẫu
- CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM QUA
CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
Cổ phần hóa là cách gọi tắt của việc chuyển đổi các doanh nghiệp
nhà nước thành công ty cổ phần ở Việt Nam. Chương trình cổ phần hóa
bắt đầu được Việt Nam thử nghiệm trong các năm 1990-1991 và chính
thức được thực hiện từ năm 1992, được đẩy mạnh từ năm 1996, dự kiến
sẽ cơ bản hoàn thành vào năm 2010.
* Bối cảnh ra đời
Đổi mới tư duy quản lý kinh tế bắt đầu diễn ra mạnh sau Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng
12 năm 1986. Một trong những tư duy quản lý đã thay đổi đó là cải cách khu
vực doanh nghiệp nhà nước, bao gồm tăng quyền tự chủ cho các doanh
nghiệp, yêu cầu phải chuyển sang hình thức kinh doanh hạch toán kinh tế,
lời ăn lỗ chịu.
Để có thể tiến hành cải cách kinh tế bắt đầu từ nửa sau của thập kỷ
1990, Việt Nam đã đề nghị sự giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật của các thể
chế tài chính toàn cầu như Nhóm Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc
tế, Ngân hàng Phát triển châu Á và các nhà tài trợ mà hầu hết là những
nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Một trong những cái giá Việt
Nam phải trả là phải tiến hành một số cải cách theo đề nghị của những tổ
chức và nhà tài trợ - những cải cách mà vào thời điểm đầu thập niên 1990
Việt Nam còn chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết và do đó rất miễn
cưỡng thực hiện. Trong số những cải cách miễn cưỡng này có tư nhân hóa
các doanh nghiệp nhà nước. Để tránh gây ra mâu thuẫn sâu sắc với bộ
1
- phận cán bộ và nhân dân lo ngại về sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân, Chính phủ đã quyết định sẽ không bán đứt các doanh nghiệp của
mình cho các cá nhân, thay vì đó tiến hành chuyển các doanh nghiệp nhà
nước thành doanh nghiệp cổ phần. Tài sản của doanh nghiệp được chia
thành các cổ phần bán cho cán bộ công nhân trong doanh nghiệp và phần
còn lại do nhà nước sở hữu. Tùy từng doanh nghiệp, phần cổ phần do nhà
nước sở hữu có thể nhiều hay ít, từ 0% tới 100%.
* Quá trình và kết quả
Giai đoạn thí điểm rụt rè: Cổ phần hóa ở Việt Nam được thực
hiện theo đường lối thí điểm. Năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) ra Quyết định số 143/HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1990 lựa
chọn một số doanh nghiệp nhỏ và vừa để thử chuyển đổi thành công ty cổ
phần. Kết quả là có 2 doanh nghiệp trong năm 1990-1991 được cổ phần
hóa. Năm 1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lại ra Quyết định số 202
ngày 8 tháng 6 năm 1992 yêu cầu mỗi bộ ngành trung ương và mỗi tỉnh
thành chọn ra từ 1-2 doanh nghiệp nhà nước để thử cổ phần hóa.
Kết quả là đến tháng 4 năm 1996, có 3 doanh nghiệp nhà nước do
trung ương quản lý và 2 doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý
được cổ phần hóa.[1] Trừ Công ty dịch vụ vận tải mà Nhà nước chỉ còn giữ
18% tổng số cổ phần, 4 công ty khác Nhà nước đều giữ khoảng 30% tổng
số cổ phần. Các nhà đầu tư bên ngoài chỉ mua được cao nhất là gần 35%
tổng số cổ phần trong trường hợp Công ty cổ phần Giày Hiệp An, còn lại
đều ở khoảng 20%.[2]
Giai đoạn thí điểm mở rộng: Từ kinh nghiệm của 7 trường hợp
cổ phần hóa nói trên, năm 1996 Chính phủ quyết định tiến hành thử cổ
phần hóa ở quy mô rộng hơn. Nghị định 28/CP được Chính phủ ban hành
2
- ngày 7 tháng 5 năm 1996 yêu cầu các bộ, ngành trung ương và các chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập danh sách doanh nghiệp
nhà nước do mình quản lý sẽ được cổ phần hóa cho đến năm 1997. Tinh
thần của Nghị định 28/CP là chọn những doanh nghiệp mà Nhà nước thấy
không còn cần thiết phải nắm giữ 100% vốn nữa làm đối tượng. Nghị định
số 25/CP ngày 26 tháng 3 năm 1997 của Chính phủ cho phép các lãnh đạo
bộ, ngành, địa phương có thêm quyền hạn trong việc tiến hành cổ phần hóa
các doanh nghiệp được chọn làm thử. Theo đó, đối với doanh nghiệp có
vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống thì lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có quyền
tự tổ chức thực hiện cổ phần hóa trên cơ sở Nghị định số 28/CP.
Kết quả của giai đoạn thí điểm cổ phần hóa mở rộng này là có 25
doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển thành công ty cổ phần.[1]
Giai đoạn đẩy mạnh: Sau hai giai đoạn cổ phần hóa thí điểm trên,
Chính phủ quyết định chính thức thực hiện chương trình cổ phần hóa.
Ngày 29 tháng 6 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-
CP về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định
này quy định rằng đối với cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp
được chuyển đổi nhưng Nhà nước vẫn muốn nắm quyền chi phối, cá nhân
không được phép mua quá 5% và pháp nhân không được phép mua quá 10%.
Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm quyền chi phối, cá
nhân được phép mua tới 10% và pháp nhân được phép mua tới 20% tổng cổ
phần phát hành lần đầu. Riêng đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước
hoàn toàn không còn muốn sở hữu, cá nhân và pháp nhân được phép mua
không hạn chế. Tiền thu được từ bán cổ phần sẽ được sử dụng để đào tạo
lại lao động, sắp xếp việc làm cho lao động dư thừa, bổ sung vốn cho các
doanh nghiệp nhà nước khác.
3
- Sau khi Nghị định 44/1998/NĐ-CP được áp dụng cho đến ngày 31
tháng 12 năm 2001, có 548 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa.[1]
Giai đoạn tiến hành ồ ạt: Tháng 8 năm 2001, Hội nghị lần thứ 3
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX họp về
doanh nghiệp nhà nước và ra nghị quyết của Trung ương Đảng về tiếp tục
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Để triển khai Nghị quyết trung ương này, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị
số 04/2002/CT-TTg ngày 08 tháng 02 năm 2002 về việc tiếp tục sắp xếp,
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, và Chính
phủ ra Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 về chuyển
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Các văn kiện pháp lý này đã
mở ra một giai đoạn mới của cổ phần hóa - giai đoạn tiến hành ồ ạt.
Theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP có một số hình thức cổ phần hóa
sau:
1. Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu thu hút thêm vốn.
2. Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
3. Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
4. Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu
hút thêm vốn.
Đối với cổ phần phát hành lần đầu, các nhà đầu tư trong nước được phép
mua không hạn chế. Các nhà đầu tư nước ngoài không được phép mua quá
30%.
Tháng 1 năm 2004, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa IX họp phiên thứ IX, tại đó có thảo luận và quyết định đẩy
4
- mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.[3] Cuối năm 2004, Chính phủ ra
Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành công ty
cổ phần, theo đó cả các công ty thành viên của các tổng công ty nhà nước
và ngay cả chính tổng công ty nhà nước nào mà Nhà nước không muốn chi
phối đều có thể trở thành đối tượng cổ phần hóa. Điểm mới quan trọng
nữa trong Nghị định này là quy định việc bán cổ phần lần đầu phải được
thực hiện bằng hình thức đấu giá tại các trung tâm giao dịch chứng khoán
nếu là công ty có số vốn trên 10 tỷ đồng, tại các trung tâm tài chính nếu là
công ty có số vốn trên 1 tỷ đồng, và tại công ty nếu công ty có số vốn
không quá 1 tỷ đồng. Bán đấu giá khiến cho giá cổ phiếu phát hành lần đầu
của nhiều công ty nhà nước được đẩy vọt lên, đem lại những nguồn thu
lớn cho Nhà nước, nhưng chưa phản ánh đầy đủ giá trị thực của doanh
nghiệp. Chẳng hạn, đợt đấu giá cổ phần của 5 công ty nhà nước được cổ
phần hóa là Công ty cổ phần kỹ nghệ thực phẩm, Nhà máy thiết bị bưu
điện, Nhà máy thủy điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh, Công ty điện lực Khánh
Hòa, Công ty sữa Việt Nam, Nhà nước đã thu vượt dự kiến 450 tỷ đồng. [1]
Mặt khác, bán đấu giá cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa còn trở
thành một động lực cho sự phát triển của thị trường cổ phiếu niêm yết ở
Việt Nam. Trong số 30 công ty niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm Giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở Giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh) vào ngày 31 tháng 10 năm 2005, có 29 công ty là
doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.[4]
Quá trình cổ phần hóa kiểu này đến 2008, đã thực hiện ở khoảng trên
3.000 doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ được cổ phần hóa. Còn khoảng
2.000 doanh nghiệp nhà nước vừa và lớn như BIDV, Vietinbank, VMS-
MobiFone, Vinaphone... dự trù sẽ cổ phần hóa đến năm 2010.( tính đến
ngày 1/ 6/ 2010 còn 1546 doanh nghiệp chưa cổ phần hoá)
5
- Chính phủ cũng khẳng định quyết tâm cổ phần hóa các trường đại học[5].
Các cơ sở giáo dục ở Việt Nam muốn tránh nguy cơ bị biến dạng do đưa các
hoạt động giáo dục thành các dịch vụ đơn thuần, mang nặng tính thương mại,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sứ mệnh và mục tiêu của trường nên sẽ có quá
trình tách bạch và phân định rõ các bộ phận thương mại hay phi thương mại
hóa.
Các ngành như thể thao vốn chưa từng biết đến cổ phần hóa cũng đã
bắt đầu quá trình này[6], song song với việc ra đời một loạt các cơ sở thể
thao cố phần hay tư nhân từ đầu.
Theo kế hoạch, chương trình cổ phần hóa sẽ cơ bản hoàn thành vào
năm 2010.[7]
* Những tồn tại
- Trong quá trình kiểm kê phân loại tài sản, một số đơn vị thực hiện
kiểm kê, phân loại không đúng với thực tế sử dụng. Sổ sách tài chính cũng
bị bóp méo theo hướng có lợi cho một số người có quyền mua lớn.
- Việc bán cổ phần ưu đãi cho cán bộ, công nhân viên chức sai nhiều
như "các công ty đã bán cổ phần ưu đãi cho người lao động chưa đủ điều
kiện về thời gian làm việc tại công ty hoặc những người đã chuyển sang
làm việc tại đơn vị khác, không có tên trong danh sách thường xuyên. Thậm
chí có những đơn vị bán cổ phần cho người ngoài công ty theo giá sàn, vi
phạm các quy định về thực hiện chính sách đối với người lao động khi
chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần".
- Sai phạm thứ ba về định giá tài sản doanh nghiệp sai. "Nhiều doanh
nghiệp áp dụng đơn giá để xác định giá trị nhà cửa, kiến trúc không đúng
theo suất đầu tư do Viện Kinh tế, Bộ Xây dựng ban hành. Việc xác định tỉ
6
- lệ còn lại của nhà cửa, vật kiến trúc cũng áp dụng sai quy định của Nhà
nước"[8].
- Thứ tư là nhiều đơn vị chậm nộp tiền về Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh
nghiệp theo quy định.
- Liên quan đến quản lý, sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa
doanh nghiệp, "một số đơn vị (tổng công ty hoặc công ty) thường không
mở tài khoản riêng, hằng năm không xây dựng kế hoạch thu chi báo cáo Bộ
Tài chính; các tổng công ty hoặc công ty thường dùng quỹ để cho các đơn
vị thành viên vay với lãi suất ưu đãi gây thiệt hại cho ngân sách nhà
nước"[9].
* Biện pháp để nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước
Sau 20 năm chuyển đổi nền kinh tế, nước ta đã đạt được một số
thành tựu về tăng trưởng kinh tế, nhưng hiệu quả, chất lượng tăng trưởng
còn chưa cao. Trên nền chung đó lại diễn ra quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước. Vì vậy, triển vọng của quá trình cổ phần hóa sẽ như thế
nào có quan hệ chặt chẽ với chất lượng đổi mới nền kinh tế từ nay trở về
sau.
Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước chỉ có hiệu quả
khi đồng thời tạo được các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước
nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, khai thác những lợi thế của đất
nước và các nguồn đầu tư bên ngoài để đưa đến một mô hình kinh tế hợp
lý.
7
- Theo dõi quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, giáo sư Đa-vít Đa-pi
(David Dapice đại học Ha-vớt) nêu rõ: thực tế mỗi năm Chính phủ Việt
Nam đầu tư khoảng 30% GDP, nhưng chỉ tăng trưởng 7%-8%. Nếu biết
đầu tư đúng thì tăng trưởng phải đạt ở mức 9%-10% như Trung Quốc.
Theo cách tính toán trên, do đầu tư không phù hợp, chúng ta đã làm tổn thất
2% GDP của đất nước (khoảng 1 tỉ USD mỗi năm). Vì thế, quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa trên quan điểm tiết kiệm ngân
sách, đầu tư khôn ngoan, chứ không phải chỉ là giải pháp cho những yếu
kém trong kinh tế nhà nước. Trên thế giới, đã có những nước sử dụng rất
hiệu quả ngân sách nhà nước. Ví dụ, Đài Loan vào thập kỷ 1960-1970 chỉ
có mức thu nhập bình quân đầu người như Việt Nam hiện nay, nhưng họ
đã đạt được tăng trưởng kinh tế ở mức 11% trong suốt 10 năm liền, tuy
lượng đầu tư chỉ chiếm 25% ngân sách.
Thứ hai, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phải hướng tới sự
thu hút và tập trung các nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế, tạo ra hình
ảnh nhân dân xây dựng và làm chủ nền kinh tế. Khi điều này được thực
hiện thì các khâu của quy trình cổ phần hóa sẽ thay đổi, từ việc định giá
doanh nghiệp, cơ cấu vốn điều lệ doanh nghiệp cổ phần, cơ cấu cổ đông,
tổ chức bộ máy, đến những vấn đề nhân sự khác... sẽ không như hiện nay,
mà sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn trước, có lợi cho
người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế.
Thứ ba, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải tính tới những yêu
cầu đặt ra khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO để
sau khi cổ phần hóa thì các doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Tác
động của việc gia nhập WTO tốt hay xấu đối với doanh nghiệp đã cổ phần
hóa hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm và định hướng quy trình cổ phần
hóa. Ở đây xin nêu lên hai vấn đề quan trọng:
8
- - Cần xác định rõ: ai là chủ sở hữu thực tế của công ty cổ phần và
chủ sở hữu phải gắn liền với trách nhiệm đối với công ty như thế nào?.
Trong vấn đề này có một nội dung phải làm rõ: ai đại diện chủ sở hữu số
vốn nhà nước trong công ty cổ phần nhằm chấm dứt quan hệ sở hữu nhà
nước chung chung và không có trách nhiệm, kéo dài nhiều năm nay.
- Cần vận dụng: “Quy chế quản trị công ty” nhằm tạo ra môi trường
đầu tư minh bạch, lành mạnh. Yêu cầu này chỉ thực hiện được khi có sự
lựa chọn những giám đốc phù hợp với quy chế quản trị công ty, nhất là
phải sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính của công ty (có vai trò và
phạm vi hoàn toàn khác với kế toán trưởng trong doanh nghiệp kiểu cũ).
Tài liệu tham khảo
1. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2006), Cải cách, nâng
cao hiệu quả sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội.
2. Truong Dong Loc (2006), Equitisation and Stock-Market
Development: The Case of Vietnam, Ph.D Thesis, Faculty of
Economics of the University of Groningen, p. 59.
3. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX).
4. World Bank (2006), "Overview of the Capital Markets in Vietnam and
Directions for Development," World Bank Report, May.
5. http://vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2006/12/644260/
6. http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/van-hoa-the-
thao/Bong_da_trong_nuoc_co_phan_hoa/
9
- 7. Mục tiêu hoàn thành cổ phần hóa hơn 1.500 doanh nghiệp vào năm 2010
8. http://www.tuoitre.com.vn/tianyon/Index.aspx?
ArticleID=276175&ChannelID=11
9. http://www.tuoitre.com.vn/tianyon/Index.aspx?
ArticleID=276175&ChannelID=11
10
nguon tai.lieu . vn