Xem mẫu
- CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Ths. Nguyễn Thị Phương Lan
Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Phong trào khởi nghiệp đang diễn ra hết sức sôi nổi và mạnh mẽ tại Việt Nam với
nhiều doanh nghiệp được thành lập thông qua đổi mới sáng tạo. Cách mạng công nghiệp 4.0
đang được các doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) nắm bắt nhanh, nhưng nếu không có sự
đầu tư, tìm hiểu theo chiều sâu và sự chuẩn bị kỹ thì làn sóng này cũng sẽ chỉ dừng lại ở
phong trào bề nổi. Việc nắm bắt công nghệ như thế nào, tận dụng được bao nhiêu để phát
triển thị trường mới là điều quan trọng. Bài viết thông qua phân tích thực trạng doanh
nghiệp khởi nghiệp Việt Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp giúp doanh nghiệp khởi nghiệp
Việt Nam thành công trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.
Abstract
The startup movement is going very effervescently and strongly in Vietnam with many
enterprises having been established through innovation. Industrial revolution 4.0 is being
taken over very fast by startups, but if there is no investment, in-depth exploration and
careful preparation, this wave will only stop at the surface floating. The most important thing
is how to capture the technology and how much to use to develop new marketst. The article
analyzes the situation of Vietnamese startups, thus offering some solutions to help
Vietnamese startups to succeed in the context of the 4.0 industrial revolution.
Từ khóa: doanh nghiệp khởi nghiệp, Cách mạng Công nghiệp 4.0
1. Đặt vấn đề
Thế giới đang bắt đầu bước vào cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, cuộc cách mạng
gắn liền với những đột phá chưa từng có về công nghệ, liên quan đến kết nối Internet, điện
253
- toán đám mây, thực tế ảo... Cuộc cách mạng sản xuất mới này được dự đoán sẽ tác động
mạnh mẽ đến mọi quốc gia, chính phủ, doanh nghiệp, làm thay đổi căn bản cách thức làm
việc và sản xuất. Bản chất của Cách mạng Công nghiệp 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số
và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất.
CMCN 4.0 trước tiên sẽ tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất, tạo nên sự thay đổi lớn
trong phương thức sản xuất, sự hội tụ giữa ứng dụng vật lý và ứng dụng kỹ thuật số tạo nên
sự xuất hiện Internet vạn vật (Internet of Things - IoT) làm thay đổi nhanh chóng, sâu rộng
toàn bộ chuỗi giá trị từ nghiên cứu phát triển đến sản xuất, logistics đến dịch vụ khách hàng,
giảm đáng kể chi phí giao dịch, vận chuyển, dẫn đến những điều kỳ diệu trong sản xuất và
năng suất. Trong quá trình này, IoT sẽ tác động làm biến đổi tất cả các mặt của đời sống kinh
tế - xã hội, từ sản xuất đến cơ sở hạ tầng, đến chăm sóc sức khỏe. Với việc thay đổi phương
thức sản xuất khi có những công nghệ hiện đại có thể kết nối thế giới thực và ảo, để sản xuất
con người có thể điều khiển quy trình ngay tại nhà mình mà vẫn bao quát tất cả mọi hoạt
động của nhà máy thông qua sự vượt trội về Internet. Đối với lĩnh vực thương mại, cuộc
Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã giúp giảm đáng kể chi phí giao dịch, vận chuyển. Đối với
lĩnh vực đầu tư, với bản chất của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ là mảng
đầu tư trở nên hấp dẫn và đầy tiềm năng nhất của các nhà đầu tư trong thời gian tới, đặc biệt
là công nghệ số và Internet. Song cuộc cách mạng này cũng có thể tác động mạnh đến thị
trường lao động, đặc biệt có thể thay đổi bản chất của việc làm, một số công việc sẽ biến mất
đồng thời thay vào đó là tạo ra một số công việc mới. Khi tự động hóa thay thế con người
trong một số ngành, người lao động sẽ bị dư thừa và điều đó làm trầm trọng hơn khoảng cách
giữa lợi nhuận so với đồng vốn và lợi nhuận so với sức lao động. Trong khi sự đổi mới công
nghệ thường dẫn đến năng suất cao hơn và thịnh vượng hơn thì tốc độ thay đổi cũng sẽ tạo ra
một áp lực lớn do sự dịch chuyển của nguồn lực lao động.
254
- Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với việc
hoàn tất nhiều hiệp định thương mại tự do quy mô lớn như CPTPP, FTA với EU, Liên minh
kinh tế Á - Âu..., việc tiếp cận thành tựu cách mạng sản xuất mới sẽ tạo ra công cụ đắc lực
giúp Việt Nam tham gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu và đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Về phía Chính phủ, dưới tác động của cuộc cách mạng này, công
tác điều hành của Chính phủ của Việt Nam cũng sẽ có được sức mạnh công nghệ mới để tăng
quyền kiểm soát, cải tiến hệ thống quản lý xã hội. Song cũng như các chính phủ khác trên thế
giới, Chính phủ Việt Nam cũng sẽ ngày càng phải đối mặt với áp lực phải thay đổi cách tiếp
cận hiện tại của mình để hoạch định và thực hiện chính sách, trong đó quan trọng nhất là phải
nâng cao vai trò của người dân trong quá trình này. Điều này sẽ càng có ý nghĩa hơn khi Việt
Nam đang tiến vào giai đoan phát triển mới rất quan trọng đòi hỏi đổi mới mạnh mẽ về tư
duy, quyết tâm cao của Chính phủ nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về phía
doanh nghiệp, chi phí cho giao thông và thông tin sẽ giảm xuống, dịch vụ hậu cần và chuỗi
cung ứng sẽ trở nên hiệu quả hơn, và các chi phí thương mại sẽ giảm bớt, tất cả sẽ làm mở
rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Về phía cung ứng, nhiều ngành công nghiệp
đang chứng kiến sự du nhập của các công nghệ mới, nó tạo ra những cách hoàn toàn mới để
phục vụ cho nhu cầu trong hiện tại và thay đổi triệt để các chuỗi giá trị ngành công nghiệp
đang hoạt động. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp cận được với các công nghệ hiện
đại, cải thiện phẩm chất, tốc độ, giá cả mà khi được chuyển giao nó có giá trị hơn. Theo nhận
định của Công ty ReedTradex, việc áp dụng thành tựu của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0
sẽ giúp doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam giảm 3,6% chi phí hoạt động và
tăng hiệu suất 4,1% trong một năm. Quan trọng hơn, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là xu
hướng phát triển dựa trên nền tảng số hóa và kết nối, có quy mô tác động mạnh mẽ tới mọi
mặt của đời sống kinh tế - xã hội, làm thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất trong
tương lai, có thể giúp Việt Nam đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy
255
- nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng hiện
cũng đang phải đối mặt với không ít rào cản.
2. Thực trạng doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp
4.0
Tại Việt Nam, 2016 đã được xác định là năm quốc gia khởi nghiệp và giai đoạn 2017
– 2020 được xem là thời kỳ vàng cho khởi nghiệp với sự ra đời của hàng loạt các doanh
nghiệp khởi nghiệp. Với những diễn biến rất nhanh của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0,
tinh thần khởi nghiệp cũng được đề cao với các chủ trương, chính sách được đưa ra để thúc
đẩy khởi nghiệp. Tuy nhiên, một doanh nghiệp chỉ có thể được coi là doanh nghiệp khởi
nghiệp nếu sản phẩm/dịch vụ thể hiện được tính đổi mới sáng tạo. Chính vì vậy nên tại Việt
Nam để xác định thực trạng của một doanh nghiệp khởi nghiệp là điều không dễ dàng. Thực
tế cho thấy, Việt Nam mới chỉ thống kê về số doanh nghiệp thành lập mới mà chưa có số liệu
thống kê riêng về doanh nghiệp khởi nghiệp. Theo thống kê không chính thức của Diễn đàn
Khởi nghiệp, tính đến hết năm 2016 Việt Nam có khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp
với tổng số vốn đầu tư rót vào các doanh nghiệp khởi nghiệp ước tính vào khoảng 205 triệu
USD. Đến năm 2017, theo thống kê của tổ chức Topica Founder Institute (TFI), tổng số vốn
đầu tư rót vào các doanh nghiệp này hơn 291 triệu USD (tăng gần 50% về mặt tổng số vốn
đầu tư so với năm 2016. Xét theo mật độ các doanh nghiệp khởi nghiệp trên đầu người thì
Việt Nam (trung bình cứ mỗi 57.982 người dân thì có một doanh nghiệp khởi nghiệp ra đời.)
nhiều hơn cả các quốc gia khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia. Hiện có khoảng 2.100
công ty khởi nghiệp tại Indonesia, 2.300 tại Trung Quốc và 7.500 tại Ấn Độ. Điểm đáng chú
ý là số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp về công nghệ vượt trội hơn hẳn so với các lĩnh vực
khác. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó, nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp Việt
cũng đang chọn cho mình theo hướng công nghệ (Tech Startup). Như vậy, nghiên cứu tổng
thể có thể thấy các doanh nghiệp khởi nghiệp tăng mạnh trong những năm gần đây chủ yếu là
256
- nhờ tác động lan tỏa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 khi khả năng kết nối IoT gia tăng
cùng với nhiều ứng dụng, điều kiện phụ trợ khác trở nên sẵn có hơn. Thực tế này phản ánh
đúng khởi nghiệp theo xu hướng phát triển về công nghệ như: lĩnh vực công nghệ thông tin
không cần quá nhiều vốn đầu tư ban đầu so với ngành nghề khác; chủ yếu dựa vào ý tưởng
mới, mang tính sáng tạo cao và có thể là sản phẩm/dịch vụ có mức tăng trưởng nhanh; có thể
dễ dàng kết nối toàn cầu qua công nghệ IoT giúp cho các ý tưởng sáng tạo dễ dàng đến được
với thế giới và ngược lại, doanh nghiệp cũng dễ dàng học hỏi được từ các mô hình thành
công khác của quốc tế. Mặc dù có sự tăng trưởng tương đối mạnh mẽ, nhưng các doanh
nghiệp khởi nghiệp cũng gặp không ít khó khăn.
Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư rót vào doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam vẫn tương
đối khiêm tốn so với khu vực và trên thế giới. Theo Tech in Asia, năm 2017, khu vực Đông
Nam Á đã thu hút 7,86 tỷ USD đầu tư vào khởi nghiệp, như vậy số vốn đầu tư Việt Nam thu
hút được chiếm tỷ phần rất nhỏ chưa đến 5%. Nguồn vốn dành cho khởi nghiệp ở Việt Nam
thấp hơn so với các nước trong khu vực do các nhà đầu chưa thấy được sự an toàn, cũng như
cơ hội bền vững trong khởi nghiệp tại Việt Nam. Có thể nhận thấy, mặc dù thấy được cơ hội
khởi nghiệp tại Việt Nam đã tăng nhưng vẫn còn thấp so với mức bình quân 55,6% của các
quốc gia tương tự như Việt Nam. Đáng nói hơn, văn hóa chấp nhận thất bại, rủi ro trong kinh
doanh của các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam dù chưa cao, nhưng có xu hướng gia tăng.
Chính điều này cũng khiến các quỹ đầu tư ngại ngần rót vốn. Ngoài ra, những hành lang pháp
lý còn trống vẫn chưa được hoàn thiện. Cụ thể, một trong những vấn đề pháp lý được kỳ
vọng hoàn thiện, đó là quy định cụ thể cho hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm vẫn chưa
được hoàn thành. Việc chậm hoàn thiện hành lang pháp lý cho quỹ khiến thị trường khởi
nghiệp càng mất thêm lợi thế cạnh tranh với các nước trong khu vực, đặc biệt là Singapore.
Nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đang lựa chọn thành lập pháp nhân ở Singapore thay vì Việt
257
- Nam, chính là bởi các quỹ đầu tư ở đây hoạt động thuận lợi hơn, với khung pháp lý rõ ràng
nên rót vốn nhanh hơn và ổn định hơn Việt Nam.
Thứ hai, môi trường pháp lý ở Việt Nam không những kém cạnh tranh hơn so với các
nước trong khu vực mà còn đưa ra một số quy định có thể tạo ra gánh nặng chi phí lớn hơn
cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Điển hình là việc áp dụng quy định về đóng bảo hiểm xã hội
trên toàn bộ thu nhập của người lao động ngay từ năm 2018. Với các doanh nghiệp khởi
nghiệp trong lĩnh vực công nghệ, chi phí nhân sự chiếm hầu như toàn bộ chi phí chính của
doanh nghiệp. Khác với các lĩnh vực sản xuất khác – nơi tỷ trọng chi phí cho con người là
thấp hơn, các ngành liên quan đến công nghệ sẽ bị ảnh hưởng lớn khi quy định về đóng bảo
hiểm đi vào thực thi. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực phần mềm, nội
dung số sử dụng nhiều lao động đã phải tính đến việc lách luật bằng cách ký hợp đồng thuê
lao động từ một bên thứ ba. Thực chất, bên thứ ba này có thể là một pháp nhân do chính họ
lập ra, tuy nhiên, bằng hợp đồng thuê nhân công theo thời vụ, họ giảm bớt được chi phí đóng
bảo hiểm cho nhân viên. Ngoài ra, môi trường pháp lý ở Việt Nam chưa tạo ra tính linh hoạt
và cởi mở trong việc tạo ra các ‘ưu đãi’ về mặt pháp lý nhằm thu hút doanh nghiệp khởi
nghiệp như tại các quốc gia trong khu vực. Chẳng hạn, Singapore sẵn sàng giúp doanh nghiệp
khởi nghiệp giảm thiểu rủi ro pháp lý trong quá trình thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ mới
nằm ngoài khuôn khổ quy định hiện hành – tức không phải là ‘phá luật’ mà là thử nghiệm các
sản phẩm, dịch vụ mà pháp luật chưa điều chỉnh đến do sản phẩm, dịch vụ đặt ra là chưa có
tiền lệ. Ví dụ, chính phủ nước này cho phép các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực
công nghệ tài chính (Fintech) được thử nghiệm hoạt động trong một vùng quy định riêng –
gọi là ‘regulatory sandbox’ – để thai nghén và phát triển các sản phẩm mới – vốn chưa tương
thích, chưa có các quy định có sẵn.
Thứ ba, hệ thống chính sách hỗ trợ khởi nghiệp tại Việt Nam còn thiếu, chưa đồng bộ
và còn tồn tại nhiều xung đột, mâu thuẫn. Các quy định chủ yếu còn mang tính chung chung
258
- như hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, tham gia mua sắm, cung ứng dịch vụ công, hỗ trợ đào tạo…
Phần lớn các chính sách này có phạm vi đối tượng rộng, dàn trải với đối tượng được hỗ trợ là
gần như toàn bộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà chưa có sự định hướng riêng cho nhóm đối
tượng đặc thù, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp. Mặc dù khi cụ thể hóa các quy định,
hướng dẫn để triển khai hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp trên địa bàn các địa phương đã rõ ràng
hơn, song phần lớn các quy định, hướng dẫn vẫn chưa đảm bảo được yêu cầu về tính cụ thể,
đặc biệt là đối với việc thu hẹp, tập trung vào các nhóm đối tượng nhất định. Ngoài ra, tính
khả thi và chính sách hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp còn rất hạn chế. Cụ thể: định mức hỗ trợ
cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đã được quy định khá rõ trong các nghị định, tuy nhiên hai
vấn đề ảnh hưởng tới tính khả thi của các chính sách hỗ trợ tài chính, đầu tư là: Tiêu chí lựa
chọn và sự phối hợp của các cơ quan nhà nước vẫn chưa rõ ràng; Cổng thông tin quốc gia về
khởi nghiệp đã chính thức ra đời nhưng các nội dung, thông tin và tính liên kết đến các cổng
thông tin liên quan còn hạn chế. Vẫn thiếu các thông tin liên quan để kết nối các tổ chức hỗ
trợ khởi nghiệp và các nhà khởi nghiệp. Một số hoạt động như TechFest 2017 đã được triển
khai và đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên do kinh phí hạn chế nên các hỗ trợ thực
chất cho doanh nghiệp khởi nghiệp; Hướng dẫn cụ thể về hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khởi
nghiệp từ nguồn ngân sách nhà nước chưa được ban hành, vì vậy các hoạt động hỗ trợ khởi
nghiệp từ các quỹ có nguồn gốc ngân sách gần như chưa thể triển khai.
Thứ tư, tỷ lệ nhân lực khoa học và công nghệ còn thấp nên việc thực hiện đổi mới
sáng tạo là rất hạn chế. Một trong những yếu tố quyết định việc doanh nghiệp mới thành lập
có phải là doanh nghiệp khởi nghiệp hay không, chính là trình độ công nghệ làm nền tảng cho
tính đổi mới sáng tạo. Trình độ nhân lực về khoa học và công nghệ góp phần quan trọng tạo
điều kiện cho hoạt động khởi nghiệp. Các nước có trình độ công nghệ cao cũng thường là
những quốc gia có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp thành công. Tại Việt Nam, đội ngũ nhân
lực khoa học và công nghệ tuy có phát triển về số lượng nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu
259
- cầu, thiếu các tập thể khoa học mạnh, các viện nghiên cứu, trường đại học đẳng cấp quốc tế,
thiếu các cán bộ đầu ngành; cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị nghiên cứu còn thiếu,
chưa đồng bộ, khó có năng lực thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ thực tiễn đặt
ra. Trình độ khoa học và công nghệ quốc gia nhìn chung còn tụt hậu xa so với thế giới, kể cả
với một số nước nhóm đầu trong khu vực Đông Nam Á.
3. Giải pháp giúp doanh nghiệp khởi nghiệp thành công trong bối cảnh Cách mạng
Công nghiệp 4.0
Trước làn sóng khởi nghiệp và sáng tạo, chính phủ cần tạo điều kiện để phong trào
khởi nghiệp ngày càng phát triển. Một quốc gia có trình độ đổi mới sáng tạo cao sẽ có nhiều
cơ hội tham gia sân chơi lớn. Khởi nghiệp châm ngòi sức sáng tạo, do đó việc thôi thúc
phong trào khởi nghiệp bùng cháy đang là quyết tâm chung của toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện
nay, môi trường và các điều kiện cho khởi nghiệp, gồm hệ thống khung pháp luật, các chính
sách hỗ trợ, quỹ đầu tư mạo hiểm… giúp bảo đảm tính ổn định và độ sẵn sàng vẫn còn gặp
nhiều vướng mắc. Để cải thiện và nâng cao chất lượng hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, nhà
hoạch định chính sách có thể tham khảo một số khuyến nghị sau:
Cải thiện hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
Đây chính là yêu cầu bức thiết nhất, giúp cộng đồng khởi nghiệp Việt Nam vươn lên
và phát triển mạnh mẽ. Chính phủ ngoài việc tạo cơ sở pháp lý vững chắc, cải tiến, đổi mới
và xây dựng hành lang pháp lý minh bạch, rõ ràng còn cần phải có những hành động cụ thể
như: đào tạo và xây dựng đội ngũ công chức nơi giải quyết các thủ tục cho doanh nghiệp với
đủ đức và tài để giúp các dự án khởi nghiệp được thực hiện một cách thuận lợi hơn. Ngoài ra,
chính phủ cần cải thiện hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp chính thức một cách bài bản hơn nhằm
khắc phục tất cả các hạn chế đã nêu. Vấn đề chính cần giải quyết ngay là phân cấp thực hiện
chính sách một cách cụ thể, rõ ràng hơn. Đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng như: đơn giản hóa thủ tục pháp lý về đăng ký, về lao động, thanh kiểm
260
- tra đối với các doanh nghiệp nhằm giảm bớt gánh nặng pháp lý và chi phí tuân thủ cho doanh
nghiệp này để họ tập trung vào kinh doanh.
Thực hiện chính sách miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp nhằm giúp doanh
nghiệp có thêm nguồn lực tài chính để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, giảm bớt phụ
thuộc vào vốn vay ngân hàng, tiết kiệm được chi phí kinh doanh, từ đó giảm giá thành, góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư. Cụ thể, đối với doanh nghiệp khởi
nghiệp cho phép miễn thuế thu nhập từ 3-5 năm đầu kể từ khi thành lập doanh nghiệp (giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh đầu tiên), sau đó áp dụng mức thuế suất ưu đãi thấp hơn mức
thuế suất phổ thông hiện hành đang áp dụng đối doanh nghiệp nhỏ và vừa; Đối với nhà đầu
tư/tổ chức đầu tư tại các doanh nghiệp khởi nghiệp, các khoản thu nhập từ chuyển nhượng
vốn, chuyển nhượng quyền góp vốn tại doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo của các nhà đầu tư
được miễn thuế trong trường hợp đầu tư tại thời điểm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
chưa có lợi nhuận tính thuế.
Hoàn thiện khung pháp lý, chính sách khuyến khích, hỗ trợ nhà đầu tư thành lập
và vận hành các quỹ đầu tư mạo hiểm
Chính phủ cần tạo một hành lang pháp lý để khuyến khích chính khu vực tham gia
đầu tư vào khởi nghiệp sáng tạo. Từ kinh nghiệm của một số nước cho thấy, các nước đều có
nhiều chính sách ưu đãi dành cho các cá nhân đầu tư cho khởi nghiệp, nhằm thu hút các nhà
đầu tư tham gia và làm sôi động thị trường đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Ưu đãi
giảm thuế thu nhập cá nhân là một trong những biện pháp phổ biến nhất để khuyến khích cá
nhân đầu tư. Ngoài ra, Nhà nước có thể đối ứng vốn đầu tư với nhà đầu tư nhằm giảm tỷ lệ
rủi ro cho nhà đầu tư, đồng thời, tăng nguồn vốn mạo hiểm cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp ở giai đoạn đầu. Hơn nữa, chính phủ cũng tạo điều kiện để phát triển các kênh trung
gian gọi vốn cộng đồng để nhà đầu tư có thể tiếp cận nguồn thông tin khởi nghiệp một cách
nhanh chóng, rõ ràng, minh bạch hơn.
261
- Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng cho doanh nghiệp
Việt Nam có rất nhiều tài nguyên lãng phí, trong khi những tài nguyên đó có thể hỗ
trợ được doanh nghiệp khởi nghiệp. Đặc biệt trong thời điểm hiện tại, bất động sản đang dư
thừa thì nếu ở nước ngoài họ đã quy hoạch rất nhiều các khu bất động sản để dành cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp. Ví dụ như ở Trung Quốc, Singapore, Malaysia họ quy hoạch ra
những các khu tương đối là trung tâm (giống như các nhà máy cũ mà người ta di rời ra khu
trung tâm và sử dụng lại nguồn đất này) để biến khu này thành khu khởi nghiệp. Họ cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp vào đó thuê với giá rất là rẻ, họ trang bị vào đó một cách tốt nhất
cho hạ tầng (điện, nước, internet…) thì các doanh nghiệp khởi nghiệp làm việc ở trong đó
mới có cơ hội để mà phát triển bởi vì doanh nghiệp khởi nghiệp xuất phát là không có tiền.
Nếu chúng ta có chỗ như vậy thì doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ được nuôi dưỡng và phát triển.
Ngoài ra, để giảm chi chi cho doanh nghiệp chính phủ cung cấp cơ sở hạ tầng như văn phòng
làm việc, dịch vụ viễn thông, thiết bị kỹ thuật, dịch vụ văn phòng miễn phí hoặc chi phí thấp
hơn so với giá thị trường.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thông qua
việc thay đổi cách tiếp cận giáo dục, phát triển năng lực sáng tạo và kỹ năng khởi nghiệp của
người học; hỗ trợ sự liên kết hợp tác thuận lợi giữa các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp và doanh
nghiệp để cung cấp một môi trường thực hành cao giúp người học tiếp cận các xu thế phát
triển cũng như đáp ứng yêu cầu công việc sau tốt nghiệp. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần đầu tư
nghiên cứu, tiếp cận nhanh hơn nữa với xu hướng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực như
vật liệu mới, năng lượng mới, kỹ thuật số, công nghệ thông tin, tự động hóa và trí tuệ nhận
tạo, công nghệ sinh học… Việt Nam cần có chiến lược để xây dựng bằng được các nhóm
nghiên cứu mạnh, các viện nghiên cứu tiên tiến, các trung tâm xuất sắc trong các lĩnh vực
này; Cần sớm có chiến lược, giải pháp cụ thể để phát triển các ngành tự động hóa tích hợp
262
- với các công nghệ cao như công nghệ thông tin, chuỗi cung ứng thông minh, sử dụng hệ
thống quản lý sở hữu trí tuệ mới, tối ưu hóa mô hình kinh doanh với việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tạo không gian sáng tạo
Trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0 diễn ra nhanh và mạnh, vấn đề khởi
nghiệp cần được đánh giá một cách đầy đủ hơn với nhiều đặc tính mới, đặc biệt là khi đánh
giá vấn đề đó cần chú trọng tới khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Yếu tố đổi mới sáng tạo chính
là mấu chốt của vấn đề này để xác định đúng doanh nghiệp khởi nghiệp và có các chính sách
khuyến khích phù hợp giúp cho các doanh nghiệp này thực sự đi đúng hướng và tranh thủ
được các cơ hội của bối cảnh phát triển mới. Do vậy, khởi nghiệp cần phải tạo nên văn hóa
mới trong công ty sao cho từng thành viên phát huy và thể hiện năng lực của mình tốt hơn ở
bất cứ môi trường nào khác. Việc này không hề đơn giản. Văn hóa là thứ khó định hình, nó
đòi hỏi kỹ năng lãnh đạo, quy trình, tuyển dụng, môi trường và nhiều yếu tố khác. Việc tạo
một môi trường mà mọi người thích thú và thoải mái làm việc cùng nhau sẽ có thể làm tăng
sự sáng tạo của đội ngũ nhân viên. Đây là sự đầu tư nghiêm túc để xây dựng văn hóa công ty,
sự sáng tạo không thể tồn tại trong môi trường văn hóa nghèo nàn.
Tài liệu tham khảo
1. GIZ (2012), “Start-up promotion instruments in OECD countries and their application
in developing countries”.
2. Hương Quỳnh (2017), “Không để lỡ tàu khi bước vào cách mạng công nghiệp 4.0”,
http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/khong-de-lo-tau-khi-buoc-vao-cach-mang-
cong-nghiep-4-0-364863.html.
263
- 3. Lương Minh Huân, Nguyễn Thị Thùy Dương (2016), “Thực trạng đầu tư cho Khoa
học và Công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt
Nam, số 9A.
4. Nghị định số 38/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp
sáng tạo.
5. Thành Đạt (2017), “Cách mạng 4.0 và bàn tay Chính phủ”,
http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Cach-mang-40-va-ban-tay-Chinh-phu/302653.vgp
6. Trần Văn Phát (2017), “Văn hóa doanh nghiệp thời 4.0”,
https://doanhnhansaigon.vn/goc-nha-quan-tri/van-hoa-doanh-nghiep-thoi-4-0-
1079864.html.
7. VCCI (2017), “Báo cáo nghiên cứu cơ chế hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo. Kinh
nghiệp quốc tế - Đề xuất giải pháp cho Việt Nam”;
264
nguon tai.lieu . vn