Xem mẫu

  1. CHUYỂN ĐỔI VĂN HÓA THAM NHŨNG Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12/2006 Lời giới thiệu     “Tham nhũng không còn là vấn đề của địa phương mà là một hiện tượng có tính xuyên quốc gia ảnh hưởng tới tất   cả các xã hội và các nền kinh tế, do vậy hợp tác quốc tế nhằm ngăn chặn và kiểm soát tham nhũng là điều vô cùng   cần thiết”     ­ Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng     “Chúng ta đã nhận ra rằng tham nhũng là cản trở lớn nhất đối với sự phát triển kinh tế­xã hội”     ­ Ngân hàng Thế giới     “Tham nhũng khiến hàng triệu người không thể thoát khỏi cảnh đói nghèo”     ­ Tổ chức Minh bạch Quốc tế     “Đã từ lâu, văn hóa tham nhũng làm suy giảm sự phát triển và quản lý hiệu quả đồng thời làm gia tăng tội phạm và   sự ngờ vực trên khắp thế giới”     ­ Tổng thống George W. Bush Theo Ngân hàng Thế giới, nhìn chung tham nhũng được coi là lạm dụng quyền lực công để tư lợi. Các hình thức tham  nhũng bao gồm từ tham nhũng quy mô lớn liên quan tới cấp cao nhất trong chính phủ quốc gia, cho tới tham nhũng  quy mô nhỏ, chẳng hạn như hối lộ những khoản tiền rất nhỏ hoặc cho hưởng những ưu đãi nhỏ của những người ở  cấp thấp hơn. Bất luận quy mô tham nhũng như thế nào đi nữa thì những hành vi như vậy làm suy giảm sự phát triển  của xã hội dân sự và làm gia tăng đói nghèo, đặc biệt khi mà các nguồn lực nhà nước ­ lẽ ra đã được đầu tư để nhân  dân có cuộc sống tốt hơn ­ lại bị các quan chức nhà nước sử dụng sai hoặc lạm dụng. Trong những năm gần đây, với một loạt các thỏa thuận quốc tế, một khuôn khổ chống tham nhũng toàn cầu đã bắt  đầu được định hình. Mỗi quốc gia giờ đây có thể chống tham nhũng hiệu quả hơn thông qua thực thi mạnh mẽ các  biện pháp chống tham nhũng và dựa vào hợp tác quốc tế để hỗ trợ những biện pháp này. Tạp chí Điện tử kỳ này của  Bộ Ngoại Hoa Kỳ nhấn mạnh tới vai trò quan trọng của khu vực công, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ trong việc  xóa bỏ nạn tham nhũng trên toàn thế giới. Nguyên tắc trách nhiệm: Chuyển đổi văn hóa tham nhũng Condoleezza Rice Nền dân chủ chỉ phồn thịnh lâu dài khi pháp quyền được thừa nhận và chính phủ phải minh bạch và có trách nhiệm  với nhân dân. Tham nhũng làm xói mòn những trụ cột này của xã hội tự do và tiến bộ của loài người. Cộng đồng quốc  tế sát cánh bên nhau với niềm tin rằng nam giới, phụ nữ và trẻ em đáng được quản lý bởi sự liêm chính ở mức độ cao  nhất để họ có thể phát huy hết tiềm năng của mình. Các nhà lãnh đạo phải có trách nhiệm với công dân. Niềm tin  chiến thắng trong cuộc chiến chống tham nhũng chính là cam kết tiếp tục của chúng ta đối với những giá trị của sự  quản lý trung thực, cởi mở, đối xử công bằng và pháp quyền. Những giá trị bền vững
  2. Về hợp tác với các đối tác tận tâm khác, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tăng cường sự minh bạch, truy tố tham nhũng cấp cao và  lôi các quan chức tham nhũng ra ánh sáng. Bằng các công cụ như Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng, chúng ta quyết tâm tăng cường cam kết  và hợp tác quốc tế để thu hồi và trả lại những tài sản đã bị lấy cắp mà có thể được sử dụng để thúc đẩy phát triển và  nâng cao tinh thần trách nhiệm. Hoa Kỳ tự hào được hỗ trợ những người thúc đẩy cuộc chiến chống tham nhũng. Chúng ta kề vai sát cánh với các đối  tác, những người thúc đẩy quản lý hiệu quả, sự liêm chính cả trong khu vực tư nhân lẫn công cộng và quyền tự do  báo chí. Những nỗ lực này sẽ khôi phục lòng tin của công chúng đối với chính phủ và là một khuôn khổ để đầu tư kinh  tế vào đất nước hoạt động hiệu quả. Để đạt được những tiêu chuẩn cao này, chúng ta phải xây dựng một liên minh các đối tác giữa khu vự nhà nước và  kuh vực tư nhân ở cả hai cấp trung ương và địa phương. Chúng ta và các đối tác phải lên án, đưa ra ánh sáng và  trừng phạt nạn tham nhũng. Với những nguyên tắc chung, chúng ta có thể xây dựng thiện chí và năng lực của nhân  dân và các chính phủ để chống tham nhũng và chuyển đổi văn hóa này. Những chân trời mới Sự vận hành của nền dân chủ là một tiến trình liên tục nhằm xây dựng nên các thể chế dân chủ. Chúng ta có thể xây  dựng một tương lai tốt đẹp hơn bằng cách đoàn kết hỗ trợ quản lý hiệu quả và chống tham nhũng. Tiếp tục hợp tác  với các đối tác quốc tế có thể giúp chúng ta xây dựng những xã hội mà ở đó mọi cá nhân đều có được tự do. Đồng  thời, với một cam kết mới về tính trách nhiệm, chúng ta có thể xây dựng nền tảng nguyên tắc vững chắc cho các thế  hệ tương lai. Giải quyết tham nhũng bằng các công ước và cam kết quốc tế John Brandolino và David Luna Nếu như trước đây chống tham nhũng được cho là trách nhiệm của chính phủ mỗi nước, thì nay nó đã trở thành công  việc của cả cộng đồng quốc tế, cùng nhau hợp tác để bổ sung và hỗ trợ cho nỗ lực của các chính phủ. Tác giả khái  quát một loạt các thỏa thuận đa phương và quốc tế hình thành nên mạng lưới chống tham nhũng toàn cầu. John  Brandolino là Giám đốc Chương trình chống Tội phạm còn David Luna là Giám đốc phụ trách các Sáng kiến về Quản  lý và Chống Tham nhũng thuộc Cục Phòng chống Ma túy Quốc tế và Thực thi Luật pháp, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Tham nhũng từng được coi là một hiện tượng quá phổ biến đến mức hầu như không thể giải quyết được. Tuy nhiên,  trong 15 năm qua, cộng đồng quốc tế đã chứng kiến sự thay đổi tích cực và rõ rệt trong cuộc chiến toàn cầu chống  tham nhũng. Trước khi có sự thay đổi lớn lao này, các quốc gia miễn cưỡng ngay cả khi bàn về tham nhũng và coi đó  chỉ là một vấn đề nội bộ. Ngày nay, có rất nhiều hội nghị và cơ chế đa phương được xây dựng chuyên để giải quyết  vấn đề tham nhũng. 15 năm trước, các nước cho phép khấu trừ thuế đối với những khoản hối lộ các quan chức nước  ngoài. Giờ đây, ngày càng có nhiều quốc gia hợp tác với nhau truy tố việc hối lộ. Thực vậy, 15 năm trước, một số quốc  gia đã sai lầm khi lập luận rằng tham nhũng thực sự có thể chấp nhận được trong một số bối cảnh văn hóa nhất định  hoặc là để thúc đẩy kinh doanh ở các nước đang phát triển. Ngày nay, chẳng ai còn dám lập luận như vậy nữa.
  3. Từ năm 1996, các thỏa thuận quốc tế về chống tham nhũng đã giúp tăng cường các cam kết chính trị chống tham  nhũng và xác định những chuẩn mực và thông lệ quốc tế căn bản giải quyết vấn nạn này. Chống tham nhũng từng  được cho là trách nhiệm của các chính phủ. Ngày nay, một phần do có các thỏa thuận chống tham nhũng ­ được  củng cố bởi ngày càng nhiều các tuyên bố thể hiện ý chí chính trị ­ nên trên thế giới đã có sự thừa nhận rộng rãi rằng  cộng đồng quốc tế có thể bổ sung và hỗ trợ nỗ lực chống tham nhũng của một chính phủ, và rằng cộng đồng quốc tế  có mối quan tâm thực sự muốn thấy tham nhũng được giải quyết cả ở cấp độ địa phương lẫn toàn cầu. Sự nhất trí về các cơ chế chống tham nhũng giúp cộng đồng quốc tế mở rộng cánh cửa tăng cường hợp tác song  phương và đa phương trên những mặt trận quan trọng một thời là những mặt trận địa phương. Đổi lại, việc hợp tác này  sẽ khuyến khích chia sẻ những kinh nghiệm tốt nhất, xây dựng lòng tin và mối quan hệ giữa các nước đang hợp tác,  và cuối cùng là nâng cao tính hiệu quả của các nỗ lực song phương và đa phương và các chương trình viện trợ phát  triển. Củng cố các nguyên tắc chống tham nhũng Các thỏa thuận chống tham nhũng đa phương ghi nhận các nguyên tắc chống tham nhũng được quốc tế công nhận  và chính thức hóa cam kết thực hiện những nguyên tắc này của chính phủ. Những nguyên tắc này ­ mới đây nhất  được ghi nhận trong Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng (UNCAC) ­ không chỉ đơn thuần thúc đẩy  các chính phủ hình sự hóa hành vi tham nhũng mà còn thừa nhận rằng chống tham nhũng đòi hỏi hành động phối  hợp trên một số mặt trận. Những thỏa thuận này giải quyết một hoặc nhiều mặt trận hành động chống tham nhũng, bao gồm: Thực thi luật pháp: Quyền tiến hành điều tra, truy tố và xét xử công minh là chìa khóa giúp phát hiện và truy tố hiệu  quả tham nhũng của công. Với tầm quan trọng như vậy, các quyền này buộc các chính phủ phải xây dựng các bộ luật  hình sự, các chế tài và các cơ quan thực thi luật pháp hiệu quả nhằm phát hiện và ngăn chặn việc hối lộ và các hành  vi tham nhũng chủ yếu khác. Ngăn chặn trong khu vực nhà nước: Nhiều thỏa thuận chống tham nhũng quốc tế yêu cầu các chính phủ thực hiện  một loạt biện pháp, chẳng hạn như duy trì các chuẩn mực đạo đức đối với công chức, xây dựng các hệ thống quản lý  tài chính và thu nhập minh bạch, tránh xung đột lợi ích, yêu cầu công khai tài chính về tài sản cá nhân, bảo vệ những  người tiết lộ/cung cấp thông tin, xây dựng các thể chế và các thủ tục giải trình hiệu quả trong và ngoài chính phủ,  đồng thời cung cấp tiếp cận thông tin chính phủ. Ngăn chặn trong khu vực tư nhân: Nhiều thỏa thuận chống tham nhũng quốc tế cũng nhấn mạnh và yêu cầu các  chính phủ có những biện pháp tác động có tính xây dựng đến hành vi ứng xử của khu vực tư nhân, chẳng hạn như  duy trì một khuôn khổ quản lý hiệu quả để ngăn chặn việc che giấu những khoản chi trái phép hoặc hối lộ trong các  tài khoản của công ty, ngăn chặn hành vi gian lận tập thể và nghiêm cấm khấu trừ thuế đối với các khoản hối lộ. Các cơ chế triển khai: Đối với một số công cụ chống tham nhũng đa phương, các cơ chế triển khai có thể thúc đẩy  hợp tác quốc tế và hỗ trợ kỹ thuật để giải quyết những yếu kém. Hiện có bốn cơ chế đánh giá lẫn nhau về chống  tham nhũng đang hoạt động dựa trên đánh giá đồng hạng nhằm kiểm soát và thúc đẩy việc thực hiện: Cơ chế triển  khai của Tổ chức các nước châu Mỹ, Nhóm các quốc gia chống Tham nhũng trong Hội đồng châu Âu, Tổ chức Hợp  tác Kinh tế và Nhóm Công tác Phát triển về vấn đề Hối lộ và Sáng kiến chống Tham nhũng của tổ chức Hiệp ước vì  sự Ổn định[1]. Các thỏa thuận và sáng kiến quốc tế hiện có Cho đến nay, thỏa thuận toàn diện nhất và có thể áp dụng trên toàn cầu được xây dựng dưới sự bảo trợ của Liên Hợp 
  4. Quốc. Hơn 130 quốc gia đã tham gia quá trình đàm phán kéo dài hai năm về Công ước của Liên Hợp Quốc về chống  tham nhũng và công ước đã có hiệu lực vào tháng 12/2005. Công ước này bao gồm tất cả các lĩnh vực hành động đề  cập ở trên và lần đầu tiên xây dựng một khuôn khổ hợp tác trong các vụ thu hồi tài sản. Công ước này cũng đi đúng  hướng khi là công ước quốc tế chống tham nhũng đầu tiên có khả năng được áp dụng thực sự trên toàn cầu. Cho đến  nay đã có 140 bên ký kết và 80 nước tham gia. Ở châu Âu, Hội đồng châu Âu (COE) đã xây dựng ba công cụ chủ yếu để hướng dẫn các thành viên chống tham  nhũng. Hai trong số ba văn kiện này là các công ước (Công ước Luật hình sự chống tham nhũng của Hội đồng châu  Âu năm 1997 và Công ước Luật Dân sự chống tham nhũng của Hội đồng châu Âu), và một văn kiện bao gồm các  nguyên tắc không ràng buộc (Hai mươi nguyên tắc hướng dẫn chống tham nhũng của Hội đồng châu Âu). Hội đồng  châu Âu cũng xây dựng cơ chế đánh giá đồng hạng để kiểm soát việc thực hiện các công ước và nguyên tắc này của  42 quốc gia, kể cả Mỹ. Liên minh châu Âu (EU) cũng xây dựng một số văn kiện hướng dẫn thành viên. Những văn  kiện này bao gồm Công ước năm 1997 của Liên minh châu Âu về chống tham nhũng liên quan tới quan chức của các  Cộng đồng châu Âu hoặc quan chức của các nước thành viên và Chương trình Hành động chung của EU năm 1998  về chống tham nhũng trong khu vực tư nhân. Bên cạnh đó còn có Khuôn khổ Chống Tham nhũng trong Khu vực Tư  nhân của Liên minh châu Âu năm 2002. Hiệp ước Vì sự ổn định xây dựng năm 2000 được 7 quốc gia Đông Nam Âu  ký kết cùng với cơ chế đánh giá đồng hạng kèm theo nhằm giám sát việc thực hiện hiệp ước, được biết đến với tên gọi  Sáng kiến chống tham nhũng của tổ chức Hiệp ước Vì sự ổn định (SPAI). Ở Mỹ La­tinh, đàm phán về Công ước Chống tham nhũng liên Mỹ năm 1996 được tiến hành dưới sự bảo trợ của Tổ  chức các nước châu Mỹ (OAS), và trong năm 2001, Tổ chức này đã xây dựng được cơ chế đánh giá đồng hạng để  giám sát việc thực hiện. Hiện có 33 quốc gia, kể cả Mỹ, tham gia thỏa thuận này. Ở châu Á, 21 quốc gia khu vực châu Á­Thái Bình Dương đã đưa ra một thỏa thuận chống tham nhũng không mang  tính ràng buộc. Được biết đến với tên gọi Kế hoạch Hành động chống tham nhũng vì châu Á­Thái Bình Dương của  Ngân hàng Phát triển châu Á (ABD) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), thỏa thuận này đạt được với  sự bảo trợ của ADB/OECD, còn cơ chế đánh giá đồng hạng sẽ được hình thành trong tương lai. Năm 2004, các nhà  lãnh đạo Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á­Thái Bình Dương (APEC) đã thông qua Phương hướng Hành động chống  Tham nhũng của APEC, trong đó cam kết mạnh mẽ thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng và  hợp tác trong khu vực nhằm đưa ra ánh sáng những quan chức tham nhũng, những người hối lộ họ và tài sản họ có  được một cách phi pháp. Ở châu Phi, Công ước Ngăn chặn và chống tham nhũng của Liên minh châu Phi đã được các nguyên thủ quốc gia  thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên minh châu Phi tổ chức tại Maputo, Mô­zăm­bích tháng 7/2003. Nghị định thư  về chống tham nhũng của Cộng đồng Phát triển Nam Phi năm 2001 bao gồm các biện pháp được 14 quốc gia của  Cộng đồng này đưa ra. Năm 1999, Liên minh Toàn cầu vì châu Phi (GCA) đã xây dựng các nguyên tắc không ràng  buộc chống tham nhũng. Những nguyên tắc này đã được 11 quốc gia thành viên GCA thông qua. Ở Trung Đông, các nước Ả­rập đang hợp tác với nhau thông qua một mạng lưới khu vực gọi là Sáng kiến Quản lý  Hiệu quả vì sự Phát triển, nhằm hỗ trợ tiến trình cải cách quản lý và hiện đại hóa khu vực công đang diễn ra và tạo  điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế­xã hội trên toàn khu vực. Chống tham nhũng là trụ cột hành động, cụ thể  là nỗ lực thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng. 37 quốc gia ký Công ước năm 1997 của OECD về chống hối lộ các công chức nước ngoài trong các giao dịch kinh  doanh quốc tế đã xây dựng cơ chế đánh giá đồng hạng để giám sát việc thực hiện. Công ước OECD là khá hạn hẹp  và cụ thể nếu xét về phạm vi. Nội dung chính của Công ước này là sử dụng nội luật để hình sự hóa việc hối lộ các  công chức nước ngoài.
  5. Công việc và các nguyên tắc của Lực lượng Hành động Đặc biệt về Tài chính (FATF) cũng đóng góp lớn cho chương  trình nghị sự quốc tế chống tham nhũng. FATF xây dựng chuẩn mực toàn cầu chống rửa tiền và tội phạm tài chính  trong các Khuyến nghị 40+9 của Lực lượng này, đồng thời giám sát việc các nước thực hiện những khuyến nghị này.  Tổ chức liên chính phủ này quy tụ các đại diện từ các cơ quan giám sát/quản lý và các thể chế tài chính nhằm đối  phó với việc lạm dụng hệ thống tài chính, trong đó có hành vi lạm dụng do tham nhũng gây ra. Trong những năm gần đây, các nước G8 ­ nhóm không chính thức 8 nước bao gồm Canađa, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản,  Nga, Anh và Mỹ gặp nhau để thảo luận về các chính sách kinh tế và đối ngoại rộng mở ­ đã đưa cuộc chiến chống  tham nhũng thành ưu tiên hàng đầu, trong đó có nỗ lực chống tham nhũng cấp cao, đưa ra ánh sáng những quan  chức tham nhũng, phối hợp thu hồi những tài sản có được một cách bất hợp pháp và hỗ trợ các chương trình tăng  cường sự minh bạch nhằm cải tiến ngân sách, việc mua bán (của nhà nước/chính phủ), tăng cường sự minh bạch và  trách nhiệm khi chuyển nhượng tài sản công. Tiến lên phía trước Các thỏa thuận chống tham nhũng quốc tế tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong chỉ trích ngày càng gia tăng của quốc  tế đối với nạn tham nhũng. Các thỏa thuận này buộc các chính phủ phải hành động và giúp tăng cường hợp tác quốc  tế và hỗ trợ kỹ thuật. Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng (UNCAC) là một bước phát triển quan trọng trong cơ cấu các  thỏa thuận chống tham nhũng quốc tế. Công ước này đã tập hợp các chủ đề được đề cập trong các công ước khu vực  và toàn cầu trước đây và nhiều chủ đề hơn nữa, kết hợp đưa chúng vào thành một tập hợp toàn diện các cam kết.  Đây là thỏa thuận quốc tế đầu tiên thu hút hơn 40 nước tham gia, và con số hiện nay là hơn 80 nước và chắc chắn sẽ  trở thành một công cụ quốc tế đầu tiên có thể áp dụng trên toàn cầu để chống tham nhũng. Những nguyên tắc chống  tham nhũng từng được thử nghiệm, trong đó có tầm quan trọng của hợp tác quốc tế, nay đã trở thành những nguyên  tắc toàn cầu mà có thể được xem là xuất phát từ một nhóm các quốc gia hoặc khu vực cùng chung chí hướng. Khi các chính phủ bắt đầu thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng và xây dựng một tiến trình  triển khai nhằm thúc đẩy việc thực hiện và tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, thì những cam kết và cơ chế hiện có của khu  vực đóng vai trò quan trọng trong việc giữ cho các chính phủ hợp tác với nhau về những vấn đề tham nhũng trong  một khuôn khổ quen thuộc và với các đối tác quen thuộc. Thêm vào đó, các nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới phải  tiếp tục hợp tác chặt chẽ và mạnh mẽ thông qua Công ước chống Hối lộ của OECD và cơ chế giám sát liên quan của  công ước này để giảm bớt thói quen hối lộ quan chức nước ngoài trong các giao dịch kinh doanh quốc tế. Các nước  OECD phải thể hiện ý chí chính trị thông qua việc thực thi các bộ luật hình sự hóa hành vi hối lộ đó. Trong khi các công cụ quốc tế và các khuôn khổ đa phương là một công cụ có giá trị trong cuộc chiến toàn cầu chống  tham nhũng, thì nhiệm vụ biến ý chí chính trị thành hành động cụ thể sẽ vẫn là một vấn đề có tầm quan trọng lớn .  Hoa Kỳ cam kết hợp tác với tất cả các đối tác trên thế giới để đảm bảo rằng trong 15 năm tới hành động hiệu quả  chống tham nhũng sẽ trở thành bản năng thứ hai của hầu hết các chính phủ trên thế giới. [1] Stability Pact là tổ chức đuợc hình thành theo sáng kiến của EU dành cho các nước Đông Nam Âu nhằm thúc đẩy  hòa bình, dân chủ, tôn trọng nhân quyền và thịnh vượng kinh tế, vì sự ổn định của toàn khu vực. Chống tham nhũng  là một trong những ưu tiên của tổ chức này. (http Chống tham nhũng ở cấp cao Tham nhũng quy mô lớn của các quan chức nhà nước cấp cao – tham nhũng ở cấp cao – là mối đe dọa cụ thể đối với  nền dân chủ và pháp quyền ở các nước đang phát triển. Loại hình tham nhũng này làm suy yếu trách nhiệm giải trình 
  6. về tài chính, cản trở đầu tư nước ngoài, làm giảm hiệu quả kinh tế và làm giảm lòng tin vào các hệ thống pháp lý và tư  pháp. Theo Ngân hàng Thế giới, mỗi năm có 1.000 tỉ đô­la được chi cho các vụ hối lộ, và theo Liên Hợp Quốc, chỉ riêng  châu Phi đã có hơn 400 triệu đô­la bị ăn cắp và tẩu tán ra nước ngoài. Tham nhũng ở cấp cao là một vấn đề liên quan  đến phát triển, bởi nó làm suy giảm sự phát triển kinh tế và khiến cho những vấn đề quan trọng trở nên thiếu hiệu  quả, như cuộc chiến chống đói nghèo. Ở nhiều nơi trên thế giới, các quan chức tham nhũng ở cấp cao vơ vét cho đầy  túi tham thay vì đầu tư cho phát triển, như xây dựng đường xá, trường học và bệnh viện mới. Trong những năm gần đây, Hoa Kỳ và các đối tác quốc tế đã đề ra những biện pháp mới để ngăn không cho các  quan chức sử dụng của cải mà họ tích lũy được thông qua những hành vi tham nhũng và họ cũng đang tìm những  cách thức mới để tìm lại tài sản của mình. Năm 2006, để chống tham nhũng ở cấp cao, Hoa Kỳ đã thực hiện Chiến lược Quốc gia nhằm quốc tế hóa nỗ lực  chống tham nhũng ở cấp cao. Chiến lược này đã đưa cuộc chiến chống tham nhũng ở cấp cao lên một tầm mới với sự  tham gia của các đối tác nước ngoài của Hoa Kỳ và các cơ quan tài chính của Hoa Kỳ tham gia vào một nỗ lực mạnh  mẽ hơn nhằm đưa ra những biện pháp tốt nhất để phát hiện và tịch thu các quỹ đã bị lấy cắp, tăng cường chia sẻ  thông tin và đảm bảo trách nhiệm lớn hơn đối với viện trợ phát triển. Hai khía cạnh quan trọng của cuộc chiến chống tham nhũng cấp cao là lôi ra ánh sáng các quan chức tham nhũng,  thu hồi và phân phối hợp lý tiền của thu được từ các vụ tham nhũng. Đưa ra ánh sáng những quan chức cấp cao tham nhũng Ngày 12/1/2004, Tổng thống Bush ra Tuyên bố 7750, trao cho ngoại trưởng thẩm quyền pháp lý đặc biệt để xác định  những người không được phép vào Mỹ do liên quan đến tham nhũng của công có ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích  quốc gia của Mỹ, bao gồm:     *      Hoạt động kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp Hoa Kỳ;     *      Những mục tiêu viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ;     *      An ninh của Hoa Kỳ trước tội phạm và khủng bố xuyên quốc gia;     *      Sự ổn định của các quốc gia và thể chế dân chủ. Mục đích của tuyên bố này là ngăn không cho những người đó được vào Mỹ để hưởng lợi từ những hành vi tham  nhũng của họ và phát đi một thông điệp mạnh mẽ rằng Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ các nỗ lực quốc tế chống tham nhũng  của công xảy ra ở bất cứ đâu. Thu hồi tài sản Hoa Kỳ cũng đang hợp tác với các đối tác quốc tế để truy tìm và thu hồi tài sản tham nhũng. Đồng thời, Hoa Kỳ còn  hỗ trợ các cuộc điều tra nước ngoài để thu hồi tài sản thông qua việc sử dụng các công cụ tịch thu tài sản và điều tra  thực thi luật pháp. Trong những năm gần đây, các nhà chức trách Hoa Kỳ đã trả lại cho nhiều quốc gia hàng triệu đô­la mà các nhà lãnh  đạo cũ của họ đã biển thủ.
  7. Hoa Kỳ cũng sẽ hợp tác với các đối tác quốc tế để đưa ra những biện pháp tốt nhất trong việc xác định, truy tìm,  phong tỏa và thu hồi tải sản có được một cách phi pháp thông qua tham nhũng quy mô lớn và hợp tác với các trung  tâm tài chính quốc tế khác để xây dựng và tăng cường những biện pháp hiệu quả nhất ngăn không cho tài sản tham  nhũng vào đất nước, tăng cường chia sẻ thông tin tài chính đáng nghi ngờ, khuyến khích và xây dựng mối quan hệ  đối tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân. Ngoài những biện pháp này, Tài khoản để đối phó với những thách thức thiên niên kỷ (MCA) của Tổng thống Bush ­  một chương trình cung cấp viện trợ cho các chính phủ nước ngoài cam kết lãnh đạo đất nước công minh, đầu tư cho  nhân dân và khuyến khích tự do kinh tế ­ là phần thưởng cho những quốc gia xóa bỏ hoàn toàn tham nhũng. Hiểu rõ nạn tham nhũng: Những luật lệ về tính minh bạch và tự do thông tin Donald F. Kettl     Mặc dù chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn tham nhũng ở Hoa Kỳ, nhưng những quy định chống lại những thông  lệ của tham nhũng và luật pháp nhằm tăng tính minh bạch của chính phủ cũng đã giảm được tham nhũng thông qua  việc theo dõi các hoạt động của chính phủ một cách sát sao để bài trừ sự lãng phí, gian lận, và sự lạm dụng chức  quyền. Tự do thông tin và những luật “Minh bạch” là hai trong số những công cụ chống tham nhũng này. Tác giả  Donald F. Kettl là giám đốc của Viện Nghiên cứu Chính phủ Fels tại Đại học Pennsylvania, và là tác giả của cuốn Hệ  thống dưới sự căng thẳng: An ninh Nội địa và Chính trị Hoa Kỳ, tái bản lần thứ nhất (2007). Người Mỹ lâu nay thường sử dụng hai cách tiếp cận rất khác nhau trong việc bài trừ nạn tham nhũng. Cách tiếp cận  thứ nhất – và là cách tiếp cận có nguồn gốc sâu xa nhất là quy định của luật pháp. Nếu có một hành vi nào đó mà  công dân hay các đại biểu dân cử cảm thấy không đúng đắn hay không vừa lòng, thì phản ứng manh tính bản năng  sẽ là soạn ra một quy định cấm hành vi đó. Điều này dẫn đến sự ra đời của rất nhiều quy định, đôi khi còn của cả một  bộ máy điều tiết nhằm ngăn chặn không cho một vấn đề được phép tái diễn. Những cuộc điều tra Watergate về việc Chính quyền Tổng thống Nixon đã sử dụng quyền lực của tổng thống như thế  nào vào thập niên 1970 đã làm nảy sinh một cách tiếp cận thứ hai trong việc bài trừ nạn tham nhũng. Chỉ riêng các  quy định đã tỏ ra không đủ để ngăn chặn sự lạm dụng chức quyền một cách phổ biến. Hơn nữa, nhiều nhà cải cách  lo ngại sâu sắc về sự tập trung quyền lực nhà nước và bức màn bí mật luôn bao bọc quanh nó. Quốc hội Hoa Kỳ đã  cố gắng giảm bớt tham nhũng thông qua một số chương trình mới nhằm tăng cường tính minh bạch. Tất nhiên không thể xóa bỏ hoàn toàn nạn tham nhũng được. Có nhiều cơ hội để lái các quy định luật pháp theo cách  thức làm bóp méo các mục đích chung để phục vụ lợi ích cá nhân và không thể loại bỏ hoàn toàn nạn tham nhũng  chỉ bằng luật pháp. Nhưng theo cách tiếp cận của người Mỹ vào những năm 1970 thì có thể hạn chế tham nhũng nhờ  việc vén các bức màn bí mật và làm sáng tỏ hoạt động của chính phủ thông qua việc tăng cường quyền lực cho các  điều tra viên, nhằm giám sát chính phủ, loại bỏ các hành vi lãng phí, gian lận và lạm dụng chức quyền. Cách tiếp cận  này có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống chính trị Hoa Kỳ, và cũng gợi lại những gì mà vị tổng thống thứ tư của nước  Mỹ ­ James Madison đã viết năm 1822: “Một chính phủ vì dân mà không có sự phổ biến thông tin cho dân chúng  hoặc không có phương tiện để tiếp cận thông tin thì chỉ là sự bắt đầu cho một trò hề hoặc chính là một tấn thảm kịch,  hoặc có lẽ là cả hai thứ đó. Tri thức sẽ luôn thống trị sự ngu dốt, và nhân dân chính là người bầu ra các thống đốc của  họ, họ có quyền và họ cần phải biết những gì chính phủ của họ đang làm”. Tự do thông tin
  8. Một trong những thành tố quan trọng nhất của chiến lược này là Luật về Tự do Thông tin (FOIA). Đạo luật này được  thông qua lần đầu tiên năm 1966, quy định rằng về nguyên tắc, các tài liệu của chính phủ thuộc quyền sở hữu của  dân chúng, và dân chúng có quyền được xem nội dung các tài liệu của chính phủ. Luật này chuyển trách nhiệm  chứng minh truyền thống từ một quan niệm vốn có trước đó rằng các tài liệu này sẽ được giữ kín và chỉ những công  dân chứng minh được lý do cần thiết thì mới được xem những tài liệu này, sang một quy ước mới cho phép dân chúng  tự do tiếp cận tài liệu của chính phủ trừ khi nhà nước có lý do chính đáng để không tiết lộ thông tin (ví dụ như vì lý do  an ninh quốc gia hay bảo mật thông tin cá nhân). Quan trọng hơn, luật này đã tạo ra nền tảng cho những cải cách  liên tiếp sau đó: các công dân có quyền biết về chính phủ của họ và về những gì mà chính phủ đang làm. Một luật đi kèm khác, Luật Thông tin Cá nhân năm 1974, cũng đã quy định rằng công dân có quyền biết thông tin mà  chính phủ đã thu thập về họ. Ví dụ, Cơ quan Điều tra Liên bang đã cất giữ một số hồ sơ cá nhân. Dư luận chỉ trích  rằng cơ quan này đã vi phạm quyền cá nhân khi thu thập thông tin cho những hồ sơ này, rằng các thông tin này có  thể không đúng và chính phủ có thể sử dụng thông tin này chống lại các cá nhân trong khi họ không biết về những  thông tin mà cơ quan này đã thu thập. Theo Luật Thông tin Cá nhân, các công dân được phép có một bản sao những  hồ sơ cá nhân mà chính phủ đã thu thập về họ, thậm chí nếu cần thiết, họ có thể không thừa nhận tính xác thực của  thông tin trong các hồ sơ này. Đạo luật này cũng hạn chế cơ hội phổ biến thông tin cá nhân của chính phủ. Luật Tự  do Thông tin và Luật Thông tin Cá nhân đã không chỉ tạo ra nền tảng luật pháp về minh bạch chính sách của chính  phủ mà còn đòi hỏi các cơ quan chính phủ phải đưa ra các hướng dẫn rõ ràng để thực thi luật, và chính điều này lại  làm cho bản thân chính sách về sự minh bạch trở nên minh bạch hơn. Tính minh bạch của chính phủ Năm 1976, Quốc hội cùng với Chính phủ đã thông qua Đạo luật Ánh dương. Với rất ít ngoại lệ, chủ yếu liên quan đến  an ninh quốc gia và bảo mật thông tin cá nhân, Luật này quy định rằng các cuộc họp của chính phủ phải được công  khai trước dân chúng. Các cơ quan công quyền cần phải thông báo trước về các cuộc họp sắp diễn ra và chương  trình nghị sự của mình, đồng thời phải công khai trước dân chúng kết quả của những cuộc họp này. Thêm vào đó, đạo  luật này cũng định nghĩa rõ ràng “cuộc họp” nhằm ngăn chặn các nhóm quan chức chính phủ tụ họp để đưa ra các  quyết định, nhưng lại nói rằng đó là cuộc họp không chính thức. Hai năm sau, Quốc hội thông qua thêm một đạo luật nữa: Luật Tổng Thanh tra, quy định rằng các quan chức cấp cao  tại tất cả các cơ quan liên bang phải tiến hành thanh tra và kiểm toán độc lập. Các viên Tổng Thanh tra này có toàn  quyền kiểm tra hoạt động, ngân sách và đội ngũ viên chức của các cơ quan liên bang. Chính quyền của Tổng thống  Jimmy Carter đã ủng hộ đạo luật này. Khi Ronald Reagan kế nhiệm ông, vị tổng thống mới này đã bãi nhiệm toàn bộ  16 viên Tổng Thanh tra, dẫn tới một mối lo ngại rộng khắp rằng tổng thống không thể kiểm soát được những hành vi  lãng phí của chính phủ. Ronald Reagan đã trả lời bằng cách tái bổ nhiệm 5 Tổng Thanh tra và bổ nhiệm 11 Tổng  Thanh tra mới; đồng thời tuyên bố rằng mỗi người trong số họ hãy “tinh anh hơn một con chó săn”. Các Tổng Thanh  tra thường đưa ra các báo cáo đối với những vụ việc lớn, từ việc quản lý tồi của chính quyền liên bang đến các trở  ngại trong quản lý hợp đồng. Các báo cáo của họ thường gây ra những xung đột chính trị sâu sắc và mặc dù nhiều  lần vai trò của họ đã có nguy cơ bị giảm sút, nhưng họ vẫn là một phần quan trọng trong chính sách minh bạch của  chính phủ liên bang. Đây đều là những sáng kiến của chính phủ liên bang, và các quy định của những đạo luật này chỉ áp dụng cho các  cơ quan liên bang. Tuy nhiên, phần lớn các bang trên khắp nước Mỹ cũng đều đã thông qua các đạo luật tương tự (nói  chung, luật pháp của các bang thường được áp dụng cho hoạt động của các chính quyền thành phố và thị trấn ở địa  phương). Từ những năm 1970, tính minh bạch đã trở nên quan trọng không kém gì so với các cách tiếp cận điều  chỉnh trong nỗ lực bài trừ nạn tham nhũng của Hoa Kỳ.
  9. Các vấn đề khác Tất nhiên là các chính sách đưa ra không phải lúc nào cũng đạt được kết quả như mong muốn. Các quan chức chính  phủ vẫn bị kết tội là đã sử dụng vị trí để tư lợi, trong đó có cả việc đảm bảo việc làm trong tương lai cho những doanh  nhân mà các quan chức này đã đàm phán hợp đồng và việc nhận hoa hồng trong các vụ đàm phán khác. Số lượng  Tổng Thanh tra dường như là quá nhỏ so với số lượng các vụ việc và các hoạt động mà họ phải điều tra. Như vậy,  chắc chắn là họ sẽ tập trung hơn vào một số vụ việc so với các vụ việc khác, và điều này dẫn tới hiện tượng bỏ qua  một số vấn đề và đôi khi các Tổng Thanh tra sẽ lựa chọn các vụ việc vì những lý do chính trị. Ngoài ra, các biện pháp đảm bảo tính minh bạch này tốn kém bởi vì chúng làm cho bộ máy hành chính trở nên cồng  kềnh hơn. Các cơ quan liên bang phải thành lập một bộ phận chịu trách nhiệm xem xét yêu cầu của dân chúng về  các hồ sơ và thông tin, phải xây dựng các quy trình mới để công khai hoạt động, kết quả; và yêu cầu phải báo trước  các cuộc họp như trong Đạo luật Ánh dương đã quy định khiến cho các cơ quan liên bang gặp khó khăn trong việc  hành động nhanh do các cuộc họp đều phải chờ được thông báo trước cho dân chúng. Hơn nữa, không phải tất cả  mọi nơi trong chính phủ đều có sự minh bạch. Ngành tư pháp, đặc biệt là ở cấp liên bang, đã phản đối một số nội  dung trong phong trào minh bạch hoá, nhất là đối với việc đưa lên truyền hình những buổi tranh tụng và phán quyết  của toà. Tuy nhiên, làn sóng minh bạch hóa đang dâng cao trong chính quyền Hoa Kỳ cũng đã thu được nhiều thành quả tốt  đẹp. Nó giúp khôi phục lòng tin đối với chính quyền và xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng sau vụ điều tra Watergate  hồi đầu thập kỷ 70. Nó làm tăng sự quan tâm của dân chúng đối với chính quyền. Mặc dù quá trình minh bạch hóa đã  gây ra một số trở ngại về thủ tục hành chính, nhưng ngay cả những người phản đối xu thế này cũng phải miễn cưỡng  công nhận rằng mức độ minh bạch đã được cải thiện ở các cấp. Sự minh bạch không thay thế vị trí hàng đầu của các  quy định pháp luật trong việc chống lại nạn tham nhũng, và nó cũng không loại bỏ hoàn toàn nạn tham nhũng, nhưng  chắc chắn rằng nó đã giúp cho cuộc chiến chống tham nhũng trở nên mạnh mẽ và dân chủ hơn. Các quan điểm trong bài báo này không phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ. Các cách tiếp cận hiệu quả trong việc bài trừ nạn tham nhũng Một giải pháp hiệu quả đối với nạn tham nhũng phải được bắt đầu từ hai nhận thức không thể thiếu: thứ nhất là không  có một hệ thống hay một xã hội nào là không có nạn tham nhũng, và thứ hai là chúng ta cần phải bắt đầu nỗ lực ngay  từ những bước đi căn bản nhất trong việc xây dựng sự hiểu biết chung về điều chúng ta muốn ám chỉ khi nói đến  tham nhũng. Các cách tiếp cận đa phương diện là quan trọng nhất. Ngay cả khi nguồn lực của chúng ta rất nhỏ, các cán bộ của  USAID vẫn giải quyết tốt mọi việc trong thời gian hợp tác với chính phủ của nước chủ nhà đối tác và với các nhà tài  trợ, để bảo đảm triển khai một cách tiếp cận chung trong việc thực hiện những cải cách chống tham nhũng, và để bảo  đảm rằng các nguồn lực ngoại giao cũng như các nguồn lực từ các chương trình hỗ trợ phải được sử dụng một cách  có hiệu quả. Kinh nghiệm của USAID tại Kenya là một ví dụ tiêu biểu chứng minh cho những gì có thể đạt được thông  qua hỗ trợ các nhà cải cách và các thể chế trên nhiều mặt trận. Trong khi các sự kiện tại đất nước này khiến nước Mỹ  quyết định giảm bớt sự trợ giúp của mình đối với một số cơ quan chính phủ (ví dụ như Ban Đạo đức của Chính phủ)  thì một chương trình hỗ trợ trước đó của Hoa Kỳ và của các nhà tài trợ khác đã giúp cơ quan này thu thập những  thông tin quan trọng hiện vẫn đang được Ủy ban Tài chính Công của Nghị viện Kenya sử dụng; đồng thời, USAID  cũng đã trao một khoản viện trợ xây dựng năng lực cho chính phủ và tiếp tục có ảnh hưởng lớn tới cuộc tranh luận 
  10. chính trị và các cuộc điều tra tại đất nước này. Và tất nhiên sẽ không một tiến bộ nào trong số này có thể đi xa đến  như vậy nếu không có vai trò tiên quyết của xã hội dân sự Kenya – là đối tác của USAID và là những người luôn đi  tiên phong trên mặt trận chống tham nhũng từ nhiều năm nay. Xã hội dân sự luôn luôn là một đối tác không thể thiếu. Các chính phủ thường không tự cải cách, ngay cả khi đội ngũ  lãnh đạo ủng hộ mạnh mẽ những cải cách này. Chúng ta thường thu được những thành quả tốt đẹp nhất khi các cộng  đồng địa phương tham gia vào việc giám sát triển khai các dự án phát triển và ngân sách. Tại Côlômbia, cộng đồng  veedur (các ủy ban giám sát của công dân) đã thay đổi những tập quán về tuyển dụng tại các trường học địa phương  và cấm công nhân xây dựng làm đường sử dụng nguyên vật liệu kém phẩm chất. Ở Mali, người dân đóng thuế tại một  huyện ở Bamako đã phát hiện ra những điều không nhất quán trong ngân sách địa phương, và điều này đã khiến cho  một số quan chức địa phương bị kết tội và cách chức. Các chương trình của USAID tại Rwanda, Tanzania và nhiều  nơi khác cũng đã có những thành quả tương tự. Các cách tiếp cận về xây dựng thể chế tỏ ra thích hợp ở những nơi chính quyền cơ sở được thành lập và ở những nơi  có cam kết chính trị mạnh mẽ đối với việc thay đổi cách tiến hành các công việc chung. Các chương trình hỗ trợ của  USAID đã giúp Ủy ban Chống tham nhũng của Inđônêxia và Tòa án Thương mại Nam Phi đạt được những thành quả  quan trọng, nhưng trong những môi trường ít thuận lợi hơn, các thể chế chuyên biệt như vậy hoạt động không được tốt  lắm. Tài liệu của các ủy ban chống tham nhũng trên khắp thế giới đều xác nhận điều này là đúng. Huy động các nguồn lực, cam kết chính trị, các thành quả phát triển thông qua việc lồng ghép các mục tiêu và  nguyên tắc chống tham nhũng có thể là một chiến lược mang lại thành công. USAID theo đuổi cách tiếp cận này một  phần là để đối phó với hiện tượng thiếu nguồn lực dành cho công việc quản trị nhà nước có tính truyền thống hơn và  một phần là vì chúng ta đã thấy rằng nạn tham nhũng rất khó bị đẩy lùi nếu chỉ tiếp cận từ phía quản trị nhà nước.  Nhưng quan trọng hơn là chúng ta đã chứng kiến nhiều ví dụ về các cộng đồng và chính phủ đang phấn khích xung  quanh những cải cách liên quan đến phân phối dịch vụ và nâng cao vị thế kinh tế của họ trên trường quốc tế. Những  ví dụ này chỉ ra rằng đây là một vùng đất hứa cho các nỗ lực cao hơn. Mặt khác, chúng ta cũng ý thức được nguy cơ  của việc tự tin rằng những cải cách mà chúng ta đang thúc đẩy đã có tác động chống tham nhũng, nhưng chúng ta lại  chưa khớp được các cải cách này trong các bản kế hoạch, trong đàm phán, hoặc chưa dự báo được kết quả của một  hoạt động cải cách. Trong khi thấy được cách tiếp cận nào là có hiệu quả cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng thì chúng ta cũng phát  hiện ra một số cách tiếp cận không mang lại hiệu quả:     * Các chương trình nâng cao nhận thức dân chúng không bị ràng buộc với cải cách     * Các cải cách không có các chương trình nâng cao nhận thức dân chúng     * Không có cách tiếp cận dài hạn     * Các khuyến nghị không dựa trên nghiên cứu và thu thập số liệu     * Các chương trình do các nhà tài trợ cấp vốn và được coi là chương trình của các nhà tài trợ (sự thiếu tinh thần làm  chủ). USAID sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với các chính phủ, các tổ chức đa phương và cộng đồng các tổ chức phi chính  phủ nhằm đảm bảo một sự phối hợp chiến lược và hiệu quả giữa các hoạt động ngoại giao và các chương trình hợp  tác của Chính phủ Hoa Kỳ. Quản trị nhà nước tốt và trách nhiệm giải trình sẽ tạo điều kiện đưa dân chúng thoát khỏi  đói nghèo, nâng cao chất lượng y tế và giáo dục, tăng cường an ninh biên giới, mở rộng phạm vi tự do cá nhân, thực  hiện các chiến lược kinh tế và phát triển bền vững, và tạo ra các nền dân chủ vững mạnh hơn.
  11. Cái giá của nạn tham nhũng John Sullivan và Alexsandr Shkolnikov     John Sullivan là Giám đốc điều hành của Trung tâm Doanh nghiệp Tư nhân Quốc tế (CIPE), một tổ chức trực thuộc   Phòng Thương mại Hoa Kỳ. Aleksandr Shkolnikov là cán bộ chương trình của CIPE. Dưới đây là đoạn trích từ một bài   báo của hai tác giả này viết về cái giá của nạn tham nhũng đối với các doanh nhân và các tầng lớp công dân nói   chung. Phần trích này xuất hiện lần đầu tiên trong bài báo “Đấu tranh chống tham nhũng: Triển vọng và giải pháp cho   khu vực tư nhân”, tháng 9/2004, in trên cuốn Cải cách Kinh tế ­ một ấn phẩm của CIPE. Tại sao phải đấu tranh chống tham nhũng? Tại nhiều nền kinh tế, tham nhũng mang tính định chế và việc hàng ngày  đối mặt với nạn tham nhũng còn có vẻ dễ hơn là việc đấu tranh chống lại nó. Coi tham nhũng là một vấn đề kinh tế có  nghĩa là tham nhũng không chỉ đơn giản là một hành vi ứng xử sai trái. Điều này có nghĩa là khi nó mang lại lợi ích  cho một số ít cá nhân thì nó cũng gây ra những tổn thất cho xã hội, cho khu vực tư nhân và cho chính phủ trong dài  hạn. Tham nhũng cần phải được loại bỏ tận gốc vì những lý do sau: Phân bổ nguồn lực không hợp lý Các nguồn lực nếu không được trực tiếp dành cho sản xuất hàng hóa và dịch vụ thì thường là mục tiêu cho tham  nhũng. Những nguồn lực này bao gồm cả các nguồn lực trực tiếp trong chuyển tiền mặt và các nguồn lực gián tiếp  như việc duy trì quan hệ với các quan chức chính phủ hay việc cung cấp giấy phép hoạt động hoặc giấy phép sản  xuất cho một doanh nghiệp ít hiệu quả hơn. Tham nhũng cũng khiến các nguồn lực bị phân bổ thiếu hợp lý trong khi  lẽ ra chúng phải được sử dụng để cung cấp các dịch vụ công cộng. Số tiền thu được do cấp phép hoặc số thu từ thuế,  thay vào việc được sử dụng để đóng góp cho ngân sách, lại chạy vào túi các quan chức chính phủ tham nhũng. Như  vậy, các nguồn lực không được sử dụng một cách hiệu quả nhất; nói cách khác, chúng chỉ trở nên có hiệu quả nhất  đối với các doanh nghiệp có quan hệ tốt và có được hợp đồng với chính phủ. Tiếp tay cho các chính sách và các điều luật sai lầm và vô trách nhiệm Trong các hệ thống bị tham nhũng, các nhà làm luật thường đưa ra các chính sách và các điều luật không có lợi cho  môi trường kinh tế chính trị nói chung. Trái lại, các điều luật và chính sách này thường mang lại lợi ích cho một số ít  người thân của các nhà hoạch định chính sách hoặc cho những người mua chuộc các quan chức chính phủ để họ  thông qua một điều luật ưu đãi. Mức độ đầu tư thấp hơn Tham nhũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư  chắc chắn sẽ xa lánh những môi trường có nạn tham nhũng hoành hành, bởi lẽ tham nhũng sẽ làm tăng chi phí kinh  doanh của họ và sẽ hủy hoại sự nghiêm minh của pháp luật. Tham nhũng cũng thường đi đôi với mức độ rủi ro cao,  và điều này luôn khiến các nhà đầu tư e ngại. Giảm cạnh tranh và tính hiệu quả Việc các quan chức chính phủ đòi hối lộ để cung cấp hoặc từ chối các dịch vụ (như cấp môn bài và giấy phép) sẽ hạn  chế số lượng các công ty có thể tham gia vào thị trường, tạo ra một môi trường “xin­cho” buộc các công ty không  muốn hoặc không có khả năng chi các khoản tiền hối lộ gia nhập vào nền kinh tế phi chính thức. Cơ chế xin­cho 
  12. thường dẫn đến chủ nghĩa bảo hộ thương mại và cũng dẫn đến thực tế là những đầu vào được sản xuất kém chất  lượng hoặc không có hiệu quả sẽ làm giảm năng suất, tính hiệu quả và tính cạnh tranh. Nhìn một cách tổng thể, sự  thiếu cạnh tranh gây tổn hại cho người tiêu dùng vì họ phải chấp nhận những hàng hóa hàm chứa tiến bộ công nghệ  thấp, những hàng hóa kém chất lượng và phải trả những mức giá cao hơn cho những hàng hóa này. Giảm nguồn thu của nhà nước đối với các hàng hóa và dịch vụ thiết yếu Trốn thuế ­ một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với nguồn thu ngân sách của chính phủ ­ là hiện tượng phổ biến  tại các quốc gia có nạn tham nhũng hoành hành. Lý do là các doanh nghiệp trong khu vực phi chính thức không báo  cáo lợi nhuận của họ và kéo theo đó là hiện tượng trốn thuế. Ngoài ra, các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực  kinh tế chính thức cũng sẽ chi các khoản tiền hối lộ thay vì đóng thuế khi cơ quan thuế có hiện tượng tham nhũng  hoặc khi cơ hội vi phạm luật thuế trở nên lan tràn. Hơn nữa, các viên chức chính phủ tham nhũng cũng chiếm đoạt  các khoản phí và tiền thuế mà họ thu được từ các doanh nghiệp lẽ ra phải được nộp vào ngân sách nhà nước. Hiện  tượng này làm giảm nguồn thu mà chính phủ cần để cung cấp các hàng hóa và dịch vụ thiết yếu. Tăng chi tiêu công cộng Các dự án đầu tư công cộng thường tạo nhiều cơ hội để các quan chức chính phủ nhận hối lộ. Đơn giản là để có  nhiều cơ hội nhận được những lợi ích trực tiếp mỗi khi cung cấp một hợp đồng cho các “chiến hữu”, các quan chức  chính phủ sẽ tìm mọi cách để có càng nhiều dự án đầu tư công cộng càng tốt. Trên thực tế, những vụ bê bối kiểu này  không chỉ xảy ra ở các nước đang phát triển và có nạn tham nhũng hoành hành mà còn xảy ra tại nhiều quốc gia phát  triển, nơi mà nạn tham nhũng hoành hành ít hơn. Tại nhiều quốc gia, đôi khi còn xảy ra trường hợp các dự án được  cấp cho các “chiến hữu” không bao giờ kết thúc được do nguồn vốn nhà nước bị ăn cắp. Tham nhũng cũng là nguyên  nhân gây ra việc quản lý yếu kém các dự án đầu tư công cộng, khiến cho thâm hụt công khố trở nên trầm trọng và đe  dọa giảm tính hiệu quả của chính sách tài chính của nhà nước. Giảm năng suất và không thúc đẩy được sự sáng tạo Trong các hệ thống tham nhũng, các cá nhân và công ty thường dành thời gian và nguồn lực để tiếp tay cho nạn tham  nhũng (đưa hối lộ, nuôi dưỡng quan hệ với các quan chức tham nhũng) hơn là để đẩy mạnh các hoạt động phát triển.  Ngoài ra, tham nhũng cũng kìm chế sáng tạo vì các hệ thống tham nhũng thường thiếu các quy định của các thể chế  pháp luật nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Tăng chi phí kinh doanh (được coi như một khoản thuế đối với hoạt động kinh doanh) Thời gian và tiền bạc để hối lộ các quan chức chính phủ và để xoay sở với các điều luật phức tạp sẽ làm tăng chi phí  kinh doanh. Các chi phí này sẽ được chuyển sang cho người tiêu dùng thông qua việc tăng giá bán hoặc sản xuất ra  các sản phẩm chất lượng thấp, hoặc trở thành vật cản đối với các công ty muốn gia nhập thị trường. Ngoài ra, các hệ  thống tư pháp tham nhũng cũng sẽ hạn chế khả năng thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp, cản trở các hoạt động  bình thường và làm mất đi các cơ hội mới. Giảm mức độ tăng trưởng Tham nhũng gây tác động tiêu cực đối với các doanh nghiệp nhỏ vì các chi phí về thời gian và tiền bạc cho các quan  chức chính phủ tham nhũng trở nên quá sức đối với các doanh nghiệp nhỏ hơn là đối với các doanh nghiệp quy mô  lớn. Nói chung, các doanh nghiệp nhỏ thường khó tránh được nạn tham nhũng, và những doanh nghiệp này có xu 
  13. hướng hoạt động trong những môi trường cạnh tranh cao, vì thế, họ không thể chuyển chi phí dùng cho hối lộ lên vai  người tiêu dùng. Vì vậy, trong một môi trường tham nhũng, các doanh nghiệp nhỏ rất khó tồn tại và điều này làm tổn  hại đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế vì các doanh nghiệp nhỏ chính là động lực phát triển của hầu hết các nền  kinh tế trên thế giới. Giảm cơ hội việc làm trong khu vực tư nhân Tham nhũng buộc các doanh nghiệp phải gia nhập khu vực phi chính thức, tạo ra các rào cản đối với việc gia nhập thị  trường và làm tăng chi phí kinh doanh; do đó làm giảm cơ hội việc làm trong khu vực tư nhân vì các doanh nghiệp gặp  khó khăn trong việc tăng trưởng và mở rộng quy mô. Giảm số lượng công việc có chất lượng trong khu vực nhà nước Các chính phủ tham nhũng thường đưa ra các cơ hội việc làm được trả lương thấp nhằm bảo trợ cho các thành phần  quan trọng. Ngoài ra, chất lượng của các nghề nghiệp trong khu vực nhà nước cũng thường rất thấp tại các nền kinh  tế có nạn tham nhũng hoành hành, bởi lẽ các quan chức chính phủ thường dành các nguồn lực để moi tiền hối lộ hơn  là để cung cấp dịch vụ. Ví dụ, trong nhiều trường hợp, tại các cơ quan cấp giấy phép, các viên chức thường trì hoãn  và kéo dài thủ tục cấp phép nếu họ không nhận được tiền hối lộ hoặc quà biếu. Tăng nghèo đói và bất bình đẳng Tham nhũng làm giảm thu nhập tiềm năng của những người nghèo vì nó khiến khu vực tư nhân tạo ra ít cơ hội việc  làm hơn. Ngoài ra, thông qua việc hạn chế chi tiêu trong các dịch vụ công cộng, tham nhũng cũng làm gia tăng bất  bình đẳng – nó hạn chế cơ hội tiếp cận của người nghèo đối với các nguồn lực quan trọng như chăm sóc y tế và giáo  dục. Xói mòn tính nghiêm minh của pháp luật Tham nhũng tạo ra một nền văn hóa trong đó các quan chức chính phủ không phải chịu trách nhiệm đối với những  việc họ đã làm. Ngoài ra, trong một hệ thống tham nhũng, luật pháp và các quy phạm pháp luật trên giấy tờ không  được thực thi một cách thích hợp, nhất quán và công bằng. Các vấn đề được giải quyết không phải dựa trên luật pháp  mà phụ thuộc vào việc bạn quen biết những ai và sẵn sàng chi ra bao nhiêu tiền. Gây trở ngại cho các cải cách dân chủ theo định hướng thị trường Để xây dựng thành công nền kinh tế thị trường và xã hội dân chủ, các quốc gia cần phải xây dựng và phát triển các  thể chế có khả năng thực thi pháp luật và bảo đảm tính minh bạch của chính phủ, kể cả quá trình hoạch định chính  sách. Trong các hệ thống tham nhũng, việc thực hiện yêu cầu này và việc xây dựng các thể chế như vậy là một nhiệm  vụ hết sức khó khăn. Các quan chức chính phủ tham nhũng có trách nhiệm thực hiện cải cách nhưng lại tìm mọi cách  để tư lợi từ các khoản hoa hồng và các khoản tiền hối lộ. Ngoài ra, do nó hạn chế sự tham gia của dân chúng, tham  nhũng còn làm xói mòn tính hợp pháp của các cơ quan nhà nước và làm tổn thương tiến trình dân chủ vì nó không  khuyến khích sự tham gia của người dân. Tăng bất ổn định chính trị Nạn tham nhũng hoành hành sẽ làm tăng bất ổn định chính trị vì người dân luôn muốn thay đổi các lãnh đạo tham 
  14. nhũng vì họ là những người không thể đại diện cho lợi ích của nhân dân. Tăng tỷ lệ tội phạm Tham nhũng nuôi dưỡng một hệ thống có thái độ coi thường luật pháp cao và tạo ra một xã hội trong đó hệ thống lập  pháp, tư pháp và các thể chế thi hành pháp luật đều không có hiệu quả. Trong các hệ thống tham nhũng, tội phạm rất  dễ dùng tiền để chạy tội. Tham nhũng không chỉ dẫn đến tội phạm chính trị và tội phạm tập thể mà còn tạo điều kiện  thuận lợi các các hình thức tội phạm có tổ chức. Trích từ tạp chí Cải cách Kinh tế, số 0409, ngày 22/9/2004, bản quyền năm 2004 của, Trung tâm Doanh nghiệp Tư  nhân Quốc tế. Các quan điểm trong bài báo này không phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.
nguon tai.lieu . vn