Xem mẫu

  1. Chương 2 Vai trò quản lý của nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động 1. Khái niệm Quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động là sự tác động của nhà nước thông qua các chính sách để điều chỉnh công tác tuyển mộ, tuyển chọn, đào tạo và giáo dục định hướng quan hệ lao động, thannh lý hợp đồng trong hoạt động xuất khẩu lao động nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. 2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động 2.1 Xuất phát từ vấn đề kinh tế Theo thống kê của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khoản thu nhập của người lao đông của nước ngoài mỗi năm đạt tới 65,5 tỷ USD, trong khi đó hàng năm tổng các khoản viện trợ chính thức (ODA) chỉ đạt mức 51 tỷ USD. Người đi làm việc ở nước ngoài thường có mức thu nhập bình quân cao hơn trong nước từ 6 đến 10 lần. Chênh lệch về thu nhập là nguyên nhân khiến nhiều nước tận dụng mọi thời cơ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tại Việt Nam cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong hơn 10 năm (1991 - hết tháng 6/2003) theo cơ chế mới đã đưa được gần 250.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đem lại thu nhập hàng năm 1 -1,5 tỷ USD. Xuất khẩu lao động làm tăng ngân sách quốc gia, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần giải quyết việc làm trong nước. 2.2 Xuất phát từ vấn đề việc làm Việt Nam là một quốc gia có cơ cấu dân số trẻ với tỉ lệ số người trong độ tuổi lao động là 67% dân số cả nước.. Hàng năm, Việt Nam phải tạo ra hơn 1 triệu việc làm mới, khoảng gần 8 triệu lao động thiếu việc làm, hàng chục
  2. vạn bộ đội phục viên, lao động dôi dư ở khu vực Nhà nước... Trong những năm qua, nhờ chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, trong đó có việc giải quyết việc làm trong nước; tuy nhiên so với số lượng lao động cần giải quyết việc làm hàng năm cũng chỉ đạt 35% nhu cầu. Chính vì vậy, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp vô cùng quan trọng, không chỉ trước mắt mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài.2.3 Xuất phát từ vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.Xuất khẩu lao động mang lại một nguồn ngoại tệ mạnh cho đất nước góp phần tăng nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.Người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc sẽ học tập được tác phong làm việc công nghiệp sản xuất lớn, thái độ đúng đắn trong công việc... cùng với một tay nghề vững chắc khi về nước họ sẽ là nguồn nhân lực đáng quý tham gia vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.Lực lượng lao động này nếu làm việc tôt sẽ góp phần tăng thêm uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tăng cường sự hiểu biết và góp phần thúc đẩy quan hệ hơp tác giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. 2.4 Lợi thế lao động xuất khẩu của Việt Nam Thứ nhất, xuất khẩu lao động đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định : "Phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động", hoạt động xuất khẩu lao động trong những năm gần đây đã được sự quan tâm chú ý của các ngành, các cấp và các tầng lớp dân cư trong xã hội. Thứ hai, nguồn lao động nước ta dồi dào, theo thống kê số lượng người trong độ tuổi lao động tính đến tháng 7/2002 là 40.694.360 người, mỗi năm bình quân có thêm hơn 1 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động đó. Thứ ba, cơ cấu dân số nước ta thuộc loại trẻ, đại bộ phận (53%) ở độ tuổi
  3. dưới 30, dưới 40 là 78%, chỉ có 22% dân số ở độ tuổi trên 40. Thứ tư, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, có sức cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Thứ năm, Việt Nam đang không ngừng tiến xa hơn trên con đường hội nhập với thế giới, trong khi thị trường lao động quốc tế cũng không ngừng tăng trưởng và đa dạng. Đây là cơ hội quan trọng để Việt Nam tham gia và phát huy lợi thế của mình trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. 3. Vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động 3.1. Công tác hoạch định chính sách, chiên lược. Với vai trò to lớn của mình, hoạt động xuất khẩu lao động là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động này một cách hiệu quả. Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 22/9/1998 của Bộ chính trị về xuất khẩu lao động vầ chuyên gia nêu rõ: “xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước khác”. Chỉ thị đã đưa ra một số chủ trương nhằm định hướng cho hoạt động quản lý xuất khẩu lao động: · Cùng với việc giải quyết việc làm trong nước là chính thì việc xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện dại hóa đất nước; là một bộ phận của hợp tác quốc tế, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước. · Xuất khẩu lao dộng và chuyên gia phải được mở rộng và đa dạng hóa hình
  4. thức, thị trường, xuất khẩu lao động phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đáp ứng nhu cầu của nước ngoài về nhu cầu, số lượng và ngành nghề. Xuất khẩu lao động và chuyên gia một mặt phải đảm bảo sức cạnh tranh trên cơ sở tăng cường lực lượng đào tạo kĩ thuật và chuyên gia, nâng dần tỷ trọng lao động có chất lượng cao trong tổng số lao động xuất khẩu và nâng cao trình độ quản lý của đơn vị xuất khẩu lao động. · Phát triển, khuyến khích đào tạo nghề gắn với nhu cầu thị trường lao động, đào tạo ngoại ngữ, giáo dục ý thức pháp luật; làm rõ quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nghiệp và người lao động, tôn trọng phong tục tập quán, văn hóa, hòa nhập thị trường lao động quốc tế. Nghị định số 08/2003/NĐ-CP 10/02/2003, trong đó yêu cầu các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hỗ trợ trong việc cung cấp thông tin và làm việc với các cơ quan chức năng, tổ chức nước sở tại để mở rộng thị trường lao động. Nghị định số 81/2003/NĐ –CP ngày 17/7/2003 đã cụ thể hóa quy định cụ của Bộ luật lao động tạo cơ sở cho hoạt động quản lý xuất khẩu lao động và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động. Ngoài ra còn có Luật người lao động Việt Nam đi làm việc với nước ngoài và một số quy định, nghị định khác. 3.2 Tổ chức bộ máy quản lý Theo điều 5, nghị định 81/2003 quy định “Cơ quan quản lý Nhà nước về lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài là Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội . Bộ này có nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về lao động Việt Nam ở nước ngoài trong phạm vi cả nước”. Trách nhiệm của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội trong hoạt động xuất
  5. khẩu: - Phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu phát triển thị trường, xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch về xuất khẩu lao dộng để chỉ đạo thực hiện. - Nghiên cứu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, cơ chế xuất khẩu lao động trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền, hướng dẫn và tổ chức thực hiện; - Đàm phán, kí kết các điều ước quốc tế về đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo ủy quyền; - Quy định hồ sơ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; danh mục các nghề và công việc cấm; - Xây dựng và hướng dẫn thực hiện kế hoạch đào tạo lao động xuất khẩu, quy định chương trình đào tạo, bồi dưỡng người lao động, cán bộ, doanh nghiệp xuất khẩu lao động, cán bộ quản lý lao động ở nước ngoài; - Thanh tra, kiểm tra các cá nhân, tổ chức vầ doanh nghiệp có liên quan đến việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trách nhiệm của các bộ, ngành có liên quan - Bộ Ngoại giao chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhiệt Nam ở nước ngoài; cung cấp kịp thời cho Bộ Ngoại giao, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và các bộ ngành chức năng thông tin về thị trường lao động ở nước ngoài và tình hình người lao động Việt Nam ở nước sở tại. - Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội quản lý quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động, lệ phí cấp giấy phép, phí đào tạo- giáo dục định hướng, phí dịch vụ xuất khẩu lao động… - Bộ Công an cấp hộ chiếu cho người lao động theo quy định của pháp luật và trong phạm vi trách nhiệm của mình phối hợp với Bộ Lao động- Thương
  6. binh và Xã hội trong việc phòng các hành vi vi phạm pháp luật về hoạt động xuất khẩu lao động. - Bộ Y tế phối hợp với Bộ Tài chính quy định phí kiểm tra sức khỏe cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài, và chỉ đạo cơ sở y tế tổ chức kiểm tra sức khỏe và chịu trách nhiệm về sức khỏe. - Bộ Thương mại và Ngân hàng nhà nước Việt Nam nghiên cứu trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền các chính sách tạo điều kiện để người lao động và doanh nghiệp xuất khẩu lao động được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. - Bộ Văn hóa- Thhoong tin phối hợp với các bên liên quan định hướng và chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động; xử lý kịp thời và nghiêm minh các trường hợp đưa thông tin thiếu chính xác làm ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu lao động. Việc quản lý hoạt động xuất khẩu lao động không chỉ là trách nhiệm vai trò của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội mà là sự phối hợp quản lý của các Bộ, ngành có liên quan và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu trong nước và nước ngoài. 3.3 Chỉ đạo thực hiện Trên cơ sơ chiến lược mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, với nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đã chỉ đạo vụ, cục, ngành có liên quan và các doanh nghiệp cung ứng và tiếp nhận lao động cả ở trong nước và nước ngoài phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và phát luật của Nhà nước. Tuy nhiên việc chỉ đạo này chỉ mang tầm vĩ mô và Nhà nước không thể quản lý và chỉ đạo một cách trực tiếp đối với người lao động.Hoạt động xuất
  7. khẩu lao động của nước ta chủ yếu vẫn phải thông qua các công ty môi giới. Chính phủ ta và chính phủ nước bạn ký kết các hiệp định, thoả thuận về việc đưa và tiếp nhận lao động ở tầm vĩ mô, còn công việc cụ thể được giao cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam và các công ty môi giới tiến hành. Với sự biến động của thị trường cũng như tình hình chính trị của thế giới thay đổi, Nhà nước vẫn phải đảm bảo vai trò trong việc nghiên cứu thị trường để có sự thay đổi chính sách phù hợp hơn. Như đã nói ở trên, hoạt động xuất khẩu chủ yếu thông qua các các công ty môi giới, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng được cấp giấy phép xuất khẩu lao động. Đối tượng được cấp giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần mà nhà nước giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp thuộc cơ quan trung ương các tổ chức chính trị xã hội và doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại Việt Nam, các doanh nghiệp khác do thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định. Tất cả các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài và người lao động đi làm việc theo hợp đồng lao động cá nhân ở nước ngoài đều phải đăng kí hợp đồng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.tương ứng với mỗi hình thức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài thì việc đăng kí hợp đồng có sự khác nhau, cụ thể là: - Doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài thì phải đăng ký tại Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. - Đối với người lao động đi theo hợp đồng cá nhân thì đăng kí tại Sở Lao động Thương binh Xã hội địa phương nơi người lao động cư trú. - Đối với người Việt Nam ở nước ngoài thì đăng kí với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại. Để đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động là m việc tại nước ngoài
  8. Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 163/2004/QĐ-TTg 08/9/2004 về việc thành lập, quản lý và sử dụng quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động. Mục đích của quyết định này nhằm phát triển thị trường lao động ngoài nước, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, đồng thời hỗ trợ rủi ro cho người lao động và doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động. Nguồn của quỹ hỗ trợ bao gồm : Ngân sách Nhà nước cấp, đóng góp của các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động (Doanh nghiệp trích 1% số thu phí dịch vụ xuất khẩu lao động để đóng góp vào quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động và được hoạch toán vào chi phí doanh nghiệp). Sử dụng quỹ này nhằm hỗ trợ chi phí cho hoạt động thị trường lao động mới; hỗ trợ đào tạo nguồn lao động xuất khẩu, hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp để giải quyết rủi ro gặp phải. Trong hoạt động xuất khẩu lao động khó tránh khỏi những rủi ro do sự biến động về tình hình an ninh cũng như chính trị của thế giới. Lao động Việt Nam cũng không tránh khỏi sự cố đó, điển hình như vụ bạo loạn ở Liby năm 2011. Có khoảng 10,000 người Việt Nam ở Libya, hầu hết là công nhân, làm việc trong ngành xây dựng. Với tình hình biến động ngày càng gia tăng ở Libya, lao động Việt Nam đứng trước tình thế vô cùng khó khăn khi bị mắc kẹt không thể trở về nước. Có một câu hỏi được ra là người lao động Việt Nam sẽ về nước ra sao và nếu có thì bằng phương tiện gì. Trong buổi họp báo tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam ở Hà Nội ngày 22 tháng 2 Khi được hỏi: “Việt Nam có phản ứng như thế nào trước tình hình ở Libya và đã có những biện pháp gì để bảo vệ công dân của nước mình tại đây,” phát ngôn viên Nguyễn Phương Nga trả lời: “Chúng tôi quan tâm với những diễn biến hiện nay ở Libya và hy vọng là tình hình sớm ổn định.” Trước tình
  9. hình đó, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các doanh nghiệp có lao động xuất khẩu ở Libya đưa lao động Việt Nam về nước. Đến ngày 9-3 toàn bộ lao động Việt Nam về nước an toàn. 3.4. Kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động xuất khẩu lao động. Để thuận lợi cho việc thanh tra , kiểm tra hoạt động của tổ chức, cá nhân trong hoạt động xuất khẩu lao động Chính phủ ban hành Nghị định số 144/2007/NĐ – CP ngày 10/9/2007 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài. Nghị định này quy định các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức phạt, thẩm quyền xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.· Vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài bao gồm:a) Hành vi vi phạm điều kiện hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ.b) Hành vi vi phạm quy định về việc đăng ký hợp đồng, báo cáo việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.c) Hành vi vi phạm quy định về tuyển chọn, ký kết và thanh lý hợp đồng với người lao động.d) Hành vi vi phạm quy định về bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ, kiến thức cần thiết cho người lao động.đ) Hành vi vi phạm quy định về thu, nộp, quản lý, sử dụng tiền môi giới, tiền ký quỹ và tiền dịch vụ; đóng góp Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước;e) Hành vi vi phạm quy định về tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và quản lý người lao động ở ngoài nước.g) Hành vi vi phạm của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và một số đối tượng liên quan khác.· Các hình thức xử phạt - Hình thức xử phạt chính:Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
  10. nước ngoài bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt chính sau:a) Cảnh cáo;b) Phạt tiền.Mức quy định phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 40.000.000 đồng. - Hình thức xử phạt bổ sung:Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm còn bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau:a) Thu hồi Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (sau đây gọi là Giấy phép);b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính;c) Buộc về nước.3.5 Quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về xuất khẩu lao độngỦy ban nhân dân tỉnh có vai trò nhất định trong việc quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động trong phạm vi địa phương. Cấp tỉnh đảm nhận công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương chính sách về xuất khẩu lao động và tạo nguồ và giới thiệu người lao động có ý thức tổ chức, trình độ tay nghề…để tham gia dự tuyển đi làm việc ở nước ngoài. Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất khẩu lao động tai địa phương, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động. 4. Thành tựu đạt được và hạn chế của quản lý Nhà nước về XKLD 4.1 Thành tựu · Kết quả đạt được Theo số liệu báo cáo từ các doanh nghiệp, tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài trong tháng 7/2011 là 8.026 người. Trong đó Đài Loan 2.992 người; Hàn Quốc 2.355 người; Nhật Bản 694 người; Malaysia 812 người; Lào 298 người; UAE 91 người, Ả rập Xê út 211 người, Macao 89 người, Campuchia 167 người, Israel 156 người, Algeria 117 người và các thị trường khác là 44 người. Như vậy, tổng số lao động đưa đi trong 7 tháng đầu năm 2011 là 54.352
  11. người. Trong đó, thị trường Đài Loan 20.504 lao động, Hàn Quốc 13.541 lao động, Malaysia 5.886 lao động, Nhật Bản 3.527 lao động, Ả rập Xê út 2.627 lao động, Lào 2.460 lao động, Campuchia 1.561 lao động, Macao 1.189 lao động, UAE 805 lao động, Cộng hòa Síp 398 lao động, Israel 185 lao động, Algeria 173 lao động và các thị trường khác 1.496 lao động. · Về công tác phát triển thị trường xuất khẩu lao động Trong năm 2009, nước ta đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết các hiệp định, thoả thuận với nhiều nước để tạo khung pháp lý đưa lao động đi, quản lý và bảo vệ quyền lợi của người lao động tại các nước này. Kết quả là ta đã ký được Thỏa thuận với Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), với Cộng hòa Ca-dắc-xtan, Hiệp định hợp tác chuyên gia với CHDCND Lào; ký kết Thoả thuận với Tổ chức IMM JAPAN về hợp tác phái cử và tiếp nhận tu nghiệp sinh. Trong những năm qua, ta đã thực hiện các giải pháp nhằm ổn định và thúc đẩy thị trường truyền thống thông qua các hoạt động tuyên truyền, quảng bá về lao động Việt Nam tại một số thị trường: Tổ chức hội thảo giới thiệu về chính sách và nguồn lao động Việt Nam ở Nhật Bản, tổ chức Ngày lao động Việt Nam ở Hàn Quốc, tổ chức Hội nghị hợp tác lao động với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào... Qua đó đã quảng bá thêm hình ảnh của lao động Việt Nam với giới sử dụng lao động, tiếp tục đưa lao động sang các nước này trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế. Trong công tác chỉ đạo triển khai thị trường, ta đã tiếp tục chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thị trường, quy định các điều kiện tối thiểu về hợp đồng, về lộ trình mở rộng để thí điểm, rút kinh nghiệm. Kết quả là đã mở rộng được các thị trường một cách vững chắc, tránh được các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh làm giảm quyền lợi của người lao động và tránh được tình trạng đưa đi ồ ạt sang các thị trường mới khi chưa có biện pháp quản lý phù hợp.· Về công tác xây dựng văn bản
  12. quy phạm pháp luật: Trong những năm vừa qua, với Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các văn bản hướng dẫn được ban hành, hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài nhìn chung đã đồng bộ, tạo hành lang pháp lý để điều chỉnh hoạt động xuất khẩu lao động, phù hợp với tình hình thực tế trong nước và quốc tế, tạo thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về thực hiện chương trình hỗ trợ các huyện nghèo giảm nghèo nhanh và bền vững, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 71/2009/QĐ-Tg về hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 – 2020.· Về công tác quản lý lao động ở nước ngoàiTrong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh hưởng xấu đến tình hình việc làm và thu nhập của lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, Bộ đã phối hợp với Bộ Ngoại giao chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền lợi của người lao động theo đúng quy định của pháp luật; cung cấp thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp về các quy định pháp luật của nước nhận lao động đối với các trường hợp người lao động mất việc làm và hướng xử lý trong trường hợp người lao động gặp khó khăn trong việc làm và thu nhập; yêu cầu các doanh nghiệp theo dõi sát sao tình hình người lao động ở nước ngoài, kịp thời có biện pháp bảo vệ quyền lợi của người lao động. Trong bối cảnh một số tổ chức phản động lưu vong tăng cường can thiệp, xúi giục, kích động, lôi kéo lao động ta ở nước ngoài vào các hoạt động của chúng để làm mất ổn định cộng đồng lao động, phá hoại chính sách xuất khẩu lao động của ta, Bộ đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan an ninh và Bộ Ngoại giao đấu tranh để ngăn ngừa các các hoạt động chống phá
  13. của chúng; chỉ đạo thực hiện các biện pháp quản lý lao động tốt hơn; tuyên truyền, giáo dục người lao động nắm được âm mưu của chúng để chủ động phòng tránh. · Về công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất khẩu lao độngCông tác thanh tra, kiểm tra đã được tăng cường, trong đó tập trung thanh tra một số lĩnh vưc như thu chi tài chính, đào tạo, phổ biến kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi. Qua đó đã phát hiện, chấn chỉnh, ngăn ngừa những sai phạm của các doanh nghiệp, xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về xuất khẩu lao động. Trong năm qua, đã xử lý vi phạm hành chính đối với 98 doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, bao gồm các vi phạm quy định về việc đăng ký hợp đồng, tuyển chọn lao động, quản lý lao động ở nước ngoài và vi phạm quy định về chế độ báo cáo. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, đã chấn chỉnh các hoạt động không đúng quy định pháp luật của các doanh nghiệp, từ đó, tạo cho các doanh nghiệp nền nếp hoạt động tuân thủ pháp luật, hạn chế các vụ việc phát sinh.· Về công tác đào tạo nghề cho người lao độngThực hiện chủ trương nâng cao chất lượng lao động, tăng dần tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đi làm việc ở nước ngoài, Bộ đã đẩy mạnh tiến độ triển khai thực hiện đề án đào tạo nghề cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế đặt hàng đấu thầu giai đoạn 2008 – 2010. · Về công tác triển khai chính sách hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ Thực hiện Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững, ngay từ tháng 5 năm 2009, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định, song song với việc phối hợp với các cơ quan liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện, Bộ đã chỉ đạo triển khai thí điểm tại các huyên nghèo của một số tỉnh, cụ thể như sau:- Chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ tập trung hỗ trợ doanh nghiệp khai thác hợp đồng;
  14. yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tích cực tham gia và hướng dẫn các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đăng ký tham gia đề án; thẩm định và lựa chọn những hợp đồng tốt để tuyển chọn lao động huyện nghèo. - Phối hợp với các bộ ngành thực hiện đơn giản hoá quy trình thủ tục cho người lao động khi tham gia chương trình, cụ thể đã đề xuất với Bộ Công an cho phép các đơn vị chức năng thực hiện việc cấp hộ chiếu cho lao động huyện nghèo thông qua doanh nghiệp; kiến nghị với Ngân hàng Chính sách Xã hội nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện quy định về quy trình, thủ tục giải ngân đối với lao động huyện nghèo vay vốn đi xuất khẩu lao động, v.v.;- Tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền nhằm chuyển tải kịp thời và đầy đủ chính sách hỗ trợ của nhà nước đến với người lao động huyện nghèo bằng nhiều hình thức. Thực hiện tuyên truyền thông qua các kênh truyền hình, đài phát thanh và báo chí trung ương và địa phương.4.2 Hạn chế trong công tác quản lý của nhà nước về vấn đề xuất khẩu lao động· Xử phạt quá nhẹXử phạt nhẹ, thiếu cương quyết trong xử lý vi phạm, đã có những ý kiến cho rằng, cơ quan quản lý nhà nước đang bảo vệ lợi ích cho doanh nghiệp mà chưa thực sự quan tâm tới những khó khăn của người lao động. Điển hình là vụ ở Công ty OSC Hải Phòng, sau khi người lao động nộp tiền cho công ty nhưng sau 4 năm vẫn không thể đi xuất khẩu ở Cộng hòa Séc được. Hiện nay, có rất nhiều người lao động đang phải gánh nợ từ việc xuất khẩu lao động bất thành do doanh nghiệp thiếu trách nhiệm và với cách quản lý chỉ bằng công văn yêu cầu hoặc phạt hành chính với mức phạt vài triệu đến vài chục triệu đồng của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. · Các vụ lừa đảo trong xuất khẩu lao động Mặc dù Chính phủ, Bộ LĐTB&XH cùng các ngành hữu quan đã có những văn bản, thông tư, chính sách hướng dẫn... liên quan đến xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, thông tin đến người lao động chúng ta làm chưa tốt. Lợi dụng
  15. việc người dân không nắm bắt đầy đủ thông tin nên các công ty mạo danh, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người lao động. · Việc quản lý sau khi đã đưa lao động sang nước ngoài làm việc còn lỏng lẻo bởi vậy đã dẫn đến tình trạng nhiều lao động bỏ trốn cư trú bất hợp pháp trên nước bạn mà gần đây nhất là vụ việc lao động Việt Nam tại Hàn Quốc bỏ trốn. Việt Nam có trên 60.000 lao động đang làm việc tại thị trường này, thì có gần 9.000 người đang cư trú bất hợp pháp (đứng đầu về số lượng so với các quốc gia phái cử). Theo đại diện Cơ quan Phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc (HRD) tại Việt Nam cho biết, hiện cảnh sát tư pháp của Hàn Quốc đang tăng cường tổ chức các lực lượng để truy quét gắt gao lao động nước ngoài cư trú bất hợp pháp. Lao động bỏ trốn không phải vấn đề mới và đã được phía thị trường đối tác cảnh báo từ lâu. Để xảy ra hiện tượng thị trường tiếp nhận phản hồi xấu như hiện nay đó là hệ quả của cả một quá trình ngành lao động chạy theo số lượng, chưa thực sự chú trọng đến công tác tuyển lựa, giáo dục định hướng cho lao động. · Nhà nước chỉ chú trọng đưa người lao động làm việc ở nước ngoài để giải quyết nhu cầu trước mắt mà không quan tâm đến việc tạo việc cho họ khi trở về nước. Bởi vậy, sẽ dẫn đến tình trạng tái thất nghiệp. Người lao động không phát huy được những kinh nghiệm trong quá trình lao động ở nước ngoài.
nguon tai.lieu . vn