- Trang Chủ
- Luật học
- Chức năng bào chữa, buộc tội và xét xử trong các mô hình tố tụng hình sự trên thế giới
Xem mẫu
- Soá 11/2020 - Naêm thöù möôøi laêm
CHỨC NĂNG BÀO CHỮA, BUỘC TỘI VÀ XÉT XỬ TRONG CÁC
MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN THẾ GIỚI
Cao Thị Ngọc Hà1
Cao Thị Huyền Nga2
Tóm tắt: Trên thế giới tồn tại ba mô hình tố tụng hình sự (TTHS) là mô hình tố tụng tranh tụng, mô
hình tố tụng thẩm vấn (TTTV) và mô hình tố tụng pha trộn. Sự tồn tại của chức năng bào chữa, buộc tội,
xét xử ở ba mô hình này có những điểm khác biệt cơ bản. Mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản của
tố tụng hình sự với mô hình tố tụng hình sự nhìn ở góc độ của phép duy vật biện chứng là mối quan hệ
giữa nội dung và hình thức. Nhận thức và điều chỉnh một cách có ý thức mối quan hệ giữa các chức năng
cơ bản của tố tụng hình sự phù hợp với điều kiện lịch sử, truyền thống văn hóa, pháp lý và lợi ích của
Nhà nước trong đấu tranh chống tội phạm ở mỗi quốc gia trong quá trình phát triển lịch sử của mình
chính là cách thức hình thành mô hình tố tụng hình sự ở quốc gia đó. Bài viết dưới đây sẽ làm rõ sự tồn
tại của các chức năng này trong từng mô hình tố tụng hình sự cụ thể.
Từ khóa: Chức năng bào chữa, mô hình tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng hình sự.
Nhận bài: 14/10/2020; Hoàn thành biên tập: 28/10/2020; Duyệt đăng: 04/11/2020.
Abstract: In the world, there exist three models of criminal proceedings: the model of litigation
proceedings, the model of interrogation proceedings and the mixed procedural model. The existence of
the justification, accusation and adjudication functions in these three models has basic differences. The
relationship between the basic functions of criminal proceedings and the criminal procedure model from
the perspective of dialectical materialism is the relationship between content and form. Awareness and
conscious adjustment of the relationship between fundamental functions of criminal proceedings in
accordance with historical conditions, cultural traditions, legal traditions and State interests in the fight
against crimes In each country in its historical development process is the way to form the criminal
proceedings model in that country.The following article will clarify the existence of these functions in each
specific criminal proceeding model.
Keywords: Justification function, criminal procedure model, criminal procedure law.
Date of receipt: 14/10/2020; Date of revision: 28/10/2020; Date of Approval: 04/11/2020.
1. Chức năng bào chữa, buộc tội, xét xử tranh tụng có điều kiện, cơ hội, quyền và nghĩa
trong mô hình tố tụng tranh tụng vụ bình đẳng trong việc chứng minh luận điểm
Mô hình tố tụng tranh tụng là loại hình TTHS của mình. Mô hình tố tụng tranh tụng ý thức rõ
xuất hiện đầu tiên so với mô hình TTHS thẩm rệt và phân định rạch ròi về sự tồn tại 3 chức
vấn hay pha trộn. Mô hình này ban đầu xuất hiện năng bào chữa, buộc tội và xét xử. Việc phân vai
và áp dụng ở Hy Lạp cổ đại, sau đó được đưa vào các chủ thể gắn chặt với sự tồn tại và vận hành
La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Mô của các chức năng này, theo đó: Chủ thể buộc tội
hình tố tụng tranh tụng hoạt động theo nguyên bao gồm cơ quan điều tra, cơ quan công tố, bị
tắc “không có tố cáo thì không có xét xử”. Cách hại. Chủ thể bào chữa bao gồm người bị tình nghi
thức mà mô hình tố tụng tranh tụng tìm đến sự phạm tội, bị can, bị cáo và người bào chữa của
thật khách quan của vụ án là tạo ra và bảo đảm họ. Chủ thể xét xử là Tòa án (thẩm phán, bồi
thủ tục tố tụng, quy trình xét xử thực sự công thẩm đoàn). Chứng minh tội phạm là trách nhiệm
bằng để các bên thực hiện nhiệm vụ của mình của bên buộc tội. Bên bào chữa được tạo điều
theo cách của mình trong suốt quá tình giải quyết kiện tối đa các điều kiện, quyền năng để thực
vụ án. Công bằng ở đây là bảo đảm cho các bên hiện chức năng bào chữa, chứng minh sự vô tội,
1
Tiến sỹ, Phó trưởng bộ môn, Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
2
Thạc sỹ, Giảng viên, Trường Đại học Lao động - Xã hội.
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
giảm nhẹ tội hoặc giảm hình phạt. Suốt quá trình thẩm phán cùng với bồi thẩm đoàn sẽ quyết định
tố tụng, bên buộc tội và bên bào chữa được bình xem “sự thật” nào có tính thuyết phục hơn. Như
đẳng với nhau trong việc sử dụng các nguồn lực vậy, từ sự phân tích trên có thể thấy, các chức
và phương tiện pháp luật cho phép để thực hiện năng tố tụng được phân định rất rõ ràng và cụ
chức năng tố tụng của mình. Trong giai đoạn tiền thể, các chức năng này độc lập với nhau trong
xét xử, bên buộc tội và bên bào chữa đều có quá trình giải quyết vụ án. Chức năng bào chữa
quyền lập hồ sơ gồm các chứng cứ và tài liệu mỗi giữ vị trí rất quan trọng trong mô hình tố tụng
bên thu được. Bộ tài liệu này chỉ phục vụ mục tranh tụng, nó xuất hiện và tồn tại độc lập, bình
đích của từng bên trong tố tụng và chưa có giá trị đẳng với chức năng buộc tội. Các quyền năng
chứng minh. Khi ra phiên tòa, chỉ có chứng cứ của chủ thể thực hiện chức năng bào chữa được
được trình bày và thẩm tra tại phiên tòa bằng lời đảm bảo và ghi nhận bình đẳng với các quyền
nói mới có giá trị chứng minh. Thẩm phán và bồi của chủ thể thực hiện chức năng buộc tội.
thẩm đoàn chỉ chứng minh luận điểm của mình Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm cơ bản,
về việc chấp nhận chứng cứ và quan điểm của mô hình tố tụng tranh tụng còn có một số nhược
bên buộc tội hay bên gỡ tội. Mô hình tố tụng điểm. Đó là người có nhiệm vụ xét xử tham gia
tranh tụng có ưu điểm là đề cao tính công bằng một cách thụ động vào phiên tòa và là người
và dân chủ trong hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, “không chuyên nghiệp”, đó chính là thành viên
vai trò của thẩm phán, bồi thẩm đoàn thường thụ đoàn bồi thẩm3. Trách nhiệm của bên công tố là
động (trong việc nghiên cứu chứng cứ…) và mô buộc tội, bên bào chữa là gỡ tội. Cả hai bên chỉ
hình này quá đề cao lợi ích cá nhân nên chưa thấy dùng những chứng cứ có lợi cho việc thực hiện
hết được tầm quan trọng của lợi ích công cộng trách nhiệm của mình mà thôi. Điều này làm cho
trong giải quyết vụ án hình sự. Ngoài ra, tố tụng chứng cứ hay quan điểm riêng của một bên khi
tranh tụng dễ bỏ lọt tội phạm và là hình thức tố đưa ra tại phiên tòa không bao giờ phản ánh hoàn
tụng tốn kém so với các hình thức tố tụng khác, toàn sự thật của vụ án. Trong khi bồi thẩm đoàn
kể cả tiền bạc và thời gian; bất lợi cho người là người dân không có kiến thức về pháp luật. Họ
nghèo do phải bỏ chi phí rất cao để thuê mướn ra phán quyết về sự thật khách quan của vụ án
luật sư; vai trò của các cơ quan tư pháp ít được chỉ thông qua việc nghe bên buộc tội và bên bào
phát huy so với hình thức tố tụng thẩm vấn… chữa xét hỏi nhân chứng và tranh luận theo quan
Mô hình tranh tụng có những đặc điểm như: điểm chủ quan của mình. Điều này hết sức rủi ro
bên buộc tội và bên bào chữa là hai bên tranh cho mục đích tìm ra sự thật khách quan của vụ
tụng đối trọng nhau và hoàn toàn bình đẳng với án. Bên cạnh đó, việc quá đề cao sự đối tụng giữa
nhau về địa vị tố tụng. Tòa án giữ vai trò độc lập các lợi ích cá nhân làm cho mô hình tranh tụng
đối với các bên để đưa ra phán quyết cuối cùng. không phản ánh được hết tầm quan trọng của
Đồng thời, Tòa án chỉ giải quyết vụ án trên cơ sở việc bảo vệ lợi ích công cộng trong các vụ án
yêu cầu của các bên chứ không tự ý giải quyết hình sự. Chính điều này dẫn đến việc áp dụng
những gì ngoài yêu cầu của các bên. Mục đích tràn lan hình thức đàm phán nhận tội dẫn đến khả
của mô hình tố tụng tranh tụng là tìm ra sự thật năng bỏ lọt những tội phạm nghiêm trọng có tác
khách quan của vụ án nhưng việc tìm ra sự thật động lớn tới trật tự xã hội. Ngoài ra, mô hình này
chỉ bắt đầu từ giai đoạn xét xử. Mọi thông tin thu cho thấy, năng lực của luật sư có vai trò quyết
được trong quá trình điều tra đều chưa được xem định tới phán quyết của đoàn bồi thẩm. Điều này
xét cho đến khi được trình bày trước Tòa án. Mỗi dẫn đến tình trạng các luật sư giỏi sẽ được nhiều
bên đều trình bày “sự thật của phía mình” và người muốn thuê và gây nên bất công cho người
3
https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201311/mo-hinh-to-tung-hinh-su-cua-mot-so-nuoc-tren-the-gioi-va-mot-
so-goi-mo-cho-viet-nam-trong-qua-trinh-sua-doi-bo-luat-to-tung-hinh-su-292909/.
- Soá 11/2020 - Naêm thöù möôøi laêm
nghèo vì không có điều kiện thuê luật sư giỏi, Trong mô hình TTTV, chức năng bào chữa có
vốn lấy chi phí rất cao. Do đó, mặc dù bảo vệ xuất hiện nhưng rất mờ nhạt. Sự tham gia của luật
quyền công dân rất tốt song mô hình này cũng sư bào chữa không mang tính bắt buộc trong mô
dễ gây ra sự bất công cho người nghèo so với hình tố tụng này. Trong quá trình tố tụng, luật sư
người giàu. có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải trình bày
2. Chức năng bào chữa, buộc tội, xét xử chứng cứ như trong mô hình tố tụng tranh tụng.
trong mô hình tố tụng thẩm vấn Vai trò của luật sư được xem như là sự bổ sung
Mô hình TTHS thẩm vấn là mô hình TTHS mà cho việc đi tìm sự thật của Tòa án và để đảm bảo
trong đó các chức năng cơ bản như chức năng buộc rằng các hoạt động tố tụng diễn ra đúng luật và
tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử tập quyền lợi của người bị buộc tội được bảo đảm.
trung vào một cơ quan nhà nước. Mô hình này có Như vậy, sự tham gia của luật sư trong mô hình
các dấu hiệu đặc trưng như: Không có các bên độc TTTV rất “hình thức” và không được coi trọng. Ở
lập vì hoạt động tích cực của các bên bị thay thế hình thức tố tụng này, quyền của bị can, bị cáo hầu
bởi hoạt động của cơ quan nhà nước trong TTHS như bị tước đoạt; bị cáo không có quyền bào chữa,
- cơ quan tiến hành tố tụng; Bị cáo hoàn toàn phụ việc tra tấn là biện pháp thường xuyên để lấy
thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng và là đối tượng cung. Mô hình TTTV nghiêng về chức năng buộc
xem xét của những cơ quan này. Ở góc độ pháp lý, tội nhiều hơn và hoạt động của Tòa án, xét về một
mô hình TTHS thẩm vấn chính là sự vận dụng khía cạnh nào đó cũng là chủ thể thực hiện hoạt
phương pháp điều chỉnh mệnh lệnh hành chính vào động buộc tội thông qua việc xét hỏi, thẩm tra tại
hoạt động TTHS. Tòa.“Thẩm phán không chỉ thực hiện chức năng
Xuất phát từ mục tiêu của TTTV là tìm đến xét xử mà còn thực hiện cả chức năng điều tra,
chân lý khách quan và xác định sự thật tuyệt đối chức năng buộc tội và một phần nào đó chức năng
của vụ án, vì vậy phương thức điều tra, thẩm vấn bào chữa. Bị cáo bị hạn chế khả năng bào chữa,
là phương thức chủ yếu được áp dụng trong tất cả họ không được coi là chủ thể của quá trình tố tụng
các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án. Trong mà là đối tượng truy cứu của tố tụng”4.
mô hình TTTV, mặc cả nhận tội là điều không tồn Với bản chất không đặt nặng hình thức như
tại. Phiên tòa theo mô hình TTTV thực chất là sự tố tụng tranh tụng, tố tụng thẩm vấn coi sự thật
tiếp tục của quá trình điều tra liên tục, nối tiếp chứ sau cùng của vụ án là mục đích được mong chờ,
không phải là sự cạnh tranh giữa các bên đối trọng do đó, những sai phạm không đáng kể trong thủ
nhau và thời điểm mấu chốt là quá trình thẩm tra, tục có thể được bỏ qua nếu mục đích chứng
xét hỏi tại Tòa án. Thẩm phán xét xử dựa trên việc minh tội phạm vẫn được giải quyết. Thủ tục
nghiên cứu hồ sơ và chủ động đặt các câu hỏi để phiên tòa đơn giản, nhanh chóng. Việc xét xử
kiểm tra, xác minh lại các chứng cứ đã thu thập không cần thiết phải có mặt đầy đủ những người
được. Trong mô hình TTTV, các chức năng bào tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thẩm
chữa, buộc tội và xét xử không được phân biệt tra lại tại phiên tòa và gánh nặng xét hỏi do Tòa
rạch ròi và một chủ thể có thể được giao thực hiện án đảm nhận. Tuy nhiên, với việc thẩm phán
hai chức năng tố tụng. Cơ quan điều tra và cơ quan luôn chiếm ưu thế nổi trội hơn trong suốt quá
công tố là chủ thể buộc tội, cơ quan công tố giữ vai trình giải quyết vụ án nên giai đoạn xét xử tại
trò quan trọng trong giai đoạn điều tra như trực phiên tòa chỉ đơn thuần là xác minh lại những
tiếp tiến hành điều tra, chỉ đạo hoạt động điều gì đã được tìm thấy ở giai đoạn trước đó. Chứng
tra… Tòa án cũng có thể chứng minh sự thật cứ là do thẩm phán điều tra tập hợp nên việc
khách quan của vụ án bằng việc tự tiến hành điều thẩm vấn bị xem là đi ngược lại nguyên tắc vô
tra, thu thập chứng cứ. tư, khách quan và việc tranh luận tại phiên tòa
4
Lê Tiến Châu (2008), Chức năng xét xử trong TTHS Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học, tr.47.
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
trở nên vô nghĩa. Trên thực tế, bị cáo có thể phải động tố tụng hầu như được tiến hành bí mật, hạn
trải qua một thời gian bị giam giữ, thiếu thốn chế sự tham gia của bị can, người bào chữa… Mọi
những điều kiện cần thiết cho việc bào chữa. Do hoạt động tố tụng đều được ghi thành văn bản, bị
đó, so với tố tụng tranh tụng, quyền bào chữa can hầu như bị tách khỏi quá trình tố tụng. Tuy
của người bị buộc tội ở tố tụng thẩm vấn thực nhiên ở giai đoạn xét xử, phiên tòa được tiến hành
chất chỉ là quyền mang tính hình thức, vai trò công khai, quyền bình đẳng trước phiên tòa và
của người bào chữa bị coi nhẹ và quyền của quyền bào chữa của bị can, bị cáo được đảm bảo,
người bị buộc tội không được bảo đảm. các bên có quyền và nghĩa vụ như nhau trong việc
Cùng với sự phát triển của lịch sử, hình thức đưa ra các chứng cứ và yêu cầu, lúc này Tòa án
TTTV tiếp tục có những thay đổi theo hướng các đóng vai trò là người trọng tài đảm bảo cho các
chức năng dần dần được xác định cụ thể và rõ bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. “Nếu
ràng hơn. Mặc dù không hoàn toàn giữ vai trò như kết hợp hai hình thức tố tụng này với nhau thì
trọng tài, vị trí trung tâm nhưng chức năng xét sẽ có một hình thức khác tốt hơn rất nhiều so với
xử đã có nhiều biểu hiện độc lập hơn so với chức một hệ thống đứng riêng rẽ”5.
năng buộc tội. Quyền dân chủ của bên bị buộc Như vậy, ở mô hình TTHS pha trộn, chức
tội được quan tâm hơn; chức năng bào chữa ngày năng bào chữa cũng được coi trọng, thể hiện ở
càng trở nên quan trọng và điều này cũng có việc quy định về quyền của các chủ thể thực hiện
nghĩa là phạm vi chức năng buộc tội ngày càng chức năng bào chữa. Mô hình này cũng áp dụng
thu hẹp lại. cơ chế thực hiện chức năng bào chữa là tự bào
3. Chức năng bào chữa, buộc tội và xét xử chữa và nhờ người khác bào chữa. Quyền bào
trong mô hình tố tụng pha trộn chữa của người bị buộc tội được ghi nhận.
Trong quá trình tồn tại, vận động và phát Có thể thấy rằng, các mô hình TTHS đều
triển, các mô hình TTHS đã có sự giao thoa, tiếp giống nhau ở một điểm là đều tồn tại ba chức năng
nhận những yếu tố tích cực của nhau, xuất hiện cơ bản của TTHS, nhưng điểm khác nhau là nhận
ở nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới. Qua thức về sự tồn tại ba chức năng đó, tổ chức vận
nghiên cứu về mô hình TTHS cho thấy, hiện nay hành các chức năng cơ bản, qua đó xác định địa vị
gần như không còn mô hình TTHS thuần túy là pháp lý của các chủ thể thực hiện chức năng. Dù
tranh tụng hay thẩm vấn. Tuy nhiên, mặc dù có áp dụng mô hình TTHS nào thì trong TTHS cũng
sự tiếp thu các yếu tố tích cực của mô hình khác, luôn tồn tại ba chức năng cơ bản: buộc tội, bào
song các quốc gia vẫn giữ lại những nội dung cơ chữa và xét xử. Việc phân định hợp lý thẩm quyền
bản nhất, đặc trưng nhất của TTHS ở quốc gia của các chủ thể gắn với các chức năng cơ bản của
mình mà không chuyển hẳn sang mô hình TTHS TTHS là điều kiện quan trọng bảo đảm mục tiêu,
khác. Như vậy, từ sự giao thoa, tiếp nhận các yếu hiệu quả của TTHS.
tố tích cực, tiến bộ giữa các mô hình TTHS làm Giống với mô hình TTHS nhiều nước trên
xuất hiện mô hình TTHS mới – mô hình TTHS thế giới, trong TTHS Việt Nam cơ quan điều tra,
pha trộn. Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội; chức
Ở mô hình này, vai trò của luật sư bào chữa năng bào chữa do người bị giữ trong trường hợp
không đến mức đối lập với bên buộc tội như trong khẩn cấp, người bị buộc tội và người bào chữa
mô hình tố tụng tranh tụng. Trong khi đó, một số của họ thực hiện; xét xử là chức năng thuộc về
quy định của mô hình tố tụng tranh tụng lại được Tòa án. Song, trong các quy định cụ thể về thẩm
áp dụng như quyền phản đối lời buộc tội, quyền quyền, trình tự, thủ tục TTHS và thực tiễn giải
giữ im lặng và nguyên tắc suy đoán vô tội. Ở giai quyết vụ án hình sự ở nước ta đang thể hiện sự
đoạn trước xét xử (khởi tố và điều tra) các hoạt mâu thuẫn, chồng lấn giữa các chức năng cơ bản
5
Lê Tiến Châu (2008), Chức năng xét xử trong TTHS Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học, tr.54.
- Soá 11/2020 - Naêm thöù möôøi laêm
của TTHS; yêu cầu về sự bình đẳng giữa các bên định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS
trong việc thực thi các chức năng tố tụng của (buộc tội, bào chữa, xét xử) và quy định quyền,
mình, nhất là sự bình đẳng giữa bên buộc tội và nghĩa vụ của các chủ thể theo sự phân chia các
bên gỡ tội chưa được bảo đảm; Toà án là cơ quan chức năng cơ bản này của TTHS, phù hợp với
xét xử, nhân danh công lý ra phán quyết về vụ điều kiện cụ thể của Việt Nam.
án, song Toà án lại được giao cả những thẩm Bên cạnh đó cần tạo lập cơ chế để bảo đảm
quyền khác thuộc chức năng buộc tội và chức sự bình đẳng thực sự giữa bên buộc tội và bên
năng gỡ tội. bào chữa trong việc thực thi các chức năng buộc
Ở Việt Nam hiện nay, mô hình TTHS là mô tội và bào chữa; đưa các chủ thể về đúng vị trí,
hình TTHS pha trộn, vì nó vừa có những đặc vai trò tố tụng của mình. Bên bào chữa được tạo
điểm của mô hình TTHS thẩm vấn, vừa có đặc cơ hội bình đẳng như Viện kiểm sát trong việc
điểm của mô hình TTHS tranh tụng. Cụ thể là sự thực hiện chức năng bào chữa, chứng minh bị
hạn chế tranh tụng trong giai đoạn điều tra do có can, bị cáo không phạm tội hoặc giảm tội, giảm
cách biệt về sự bình đẳng trong địa vị tố tụng của mức hình phạt. Toà án thực hiện chức năng xét
các bên, do hạn chế tính công khai của kết quả xử và phải thực sự là hiện thân của công lý, của
điều tra, kết quả điều tra được phản ánh trong hồ sự khách quan, vô tư trong quá trình xét xử vụ
sơ chính thức và là cơ sở cho hoạt động xét xử án. Tất cả phải hướng vào công lý, bảo vệ quyền
của Tòa án. Toà án nghiên cứu hồ sơ trước khi con người trong TTHS.
mở phiên toà xét xử và có vai trò tích cực trong Hai là: Khi xét xử, Tòa án tìm hiểu sự thật,
quá trình xét hỏi (dấu hiệu của mô hình TTHS nhận thức sự thật chủ yếu thông qua việc nghe các
thẩm vấn). Tại phiên tòa sơ thẩm diễn ra tranh bên hỏi, tranh luận, đối đáp. Trách nhiệm của Tòa
tụng công khai giữa các bên hoàn toàn bình đẳng án là kiểm tra sự thật thông qua việc tranh tụng
về địa vị tố tụng trong hoạt động chứng minh của các bên chứ không phải là tự mình đi tìm sự
trước Toà án. Các chức năng cơ bản trong TTHS thật thông qua việc xét hỏi. Tòa án không phải là
do các chủ thể khác nhau thực hiện, sự tách bạch bên tranh tụng nên không tham gia xét hỏi vào nội
về chức năng này tương đối rõ ràng mặc dù chưa dung vụ án mà chỉ là người điều khiển quá trình
thật triệt để (dấu hiệu của mô hình TTHS tranh xét hỏi. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để các
tụng). Lịch sử hình thành và phát triển TTHS ở bên tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, tôn trọng và
nước ta cũng cho thấy quá trình này chịu sự ảnh lắng nghe đầy đủ ý kiến của các bên, ra phán quyết
hưởng to lớn của mô hình TTHS của Pháp và Xô trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Do vậy,
viết mà hai mô hình này là hai mô hình TTHS cần xem xét thêm về những thẩm quyền không
lục địa đã tiếp thu nhân tố tích cực của mô hình thật sự phù hợp với chức năng xét xử như: khởi tố
tranh tụng nên được thừa nhận là mô hình pha vụ án, thẩm quyền được xét xử bị cáo theo khoản
trộn6. Thừa nhận mô hình TTHS Việt Nam hiện nặng hơn khoản mà VKS truy tố trong cùng một
nay là mô hình pha trộn và định hướng hoàn điều luật, quy định về nghĩa vụ chứng minh tội
thiện là xây dựng mô hình pha trộn thiên về tranh phạm của Tòa án...
tụng là giải pháp cần thiết và đúng đắn, phù hợp Ba là: Quy định đầy đủ các quyền và xây
với yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện dựng cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của
nay và phù hợp với trào lưu chung của lịch sử người bị buộc tội trong TTHS, đề cao vai trò
TTHS trên thế giới. Định hướng hoàn thiện mô của người bào chữa, mở rộng những bảo đảm
hình tố tụng hình sự ở Việt Nam thời gian tới cần tố tụng cho chức năng bào chữa để bảo đảm hơn
tập trung vào các nội dung sau đây: nữa quyền của các chủ thể này, mở rộng tính
Một là: Tăng cường yếu tố tranh tụng, phân tranh tụng ngay từ giai đoạn điều tra./.
6
Nguyễn Thái Phúc (2015), Các chức năng của TTHS và vấn đề hoàn thiện mô hình TTHS ở Việt Nam hiện nay,
Hội thảo khoa học Các chức năng của TTHS trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Học viện Khoa
học xã hội, tr. 28.
nguon tai.lieu . vn