Xem mẫu
- MỤC LỤC
MỞ ĐẨU
PHẦN I : CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1.1 Khái niệm và vị trí của CSTT
1.2 Mục tiêu của CSTT
1.3 Các công cụ của CSTT
1.3.1 Nghiệp vụ thị trường mở
1.3.2 Dự trữ bắt buộc
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu
1.3.4 Quản lý hạn mức tín dụng
1.3.5 Quản lý lãi suất,tỷ giá
PHẦN II : THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA
CSTT 2009
2.1 Công cụ nghiệp vụ thị trưởng mở
2.2 Công cụ dự trữ bắt buộc
2.3 Công cụ cho vay tái chiết khấu
2.4 Công cụ hạn mức tín dụng
2.5 Công cụ lãi suất,tỷ giá
PHẦN III : ĐÁNH GIÁ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG
3.1 Đánh giá quá trình thực hiện CSTT năm 2009
3.1.1 Những việc đạt được trong việc thực thi CSTT năm 2009
3.1.2 Những vấn đề còn tồn tại trong việc thực thi CSTT năm
2009
3.2 Phương hướng CSTT cho năm 2010
KẾT LUẬN
1
- MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì
quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng
lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm
phát... Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng
các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt
là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy
tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì
việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể
của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi
và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh
tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách
tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Vượt xa những dự báo lạc quan nhất, chỉ số giá tiêu dùng (lạm
phát) tháng 12 tiếp tục giảm tháng thứ 3 liên tiếp, giúp cho lạm phát cả
năm 2008 chỉ dừng lại ở dưới 20%. Điều này tiếp tục khẳng định mục
tiêu chống lạm phát đã đạt hiệu quả rõ rệt, và mục tiêu số một hiện nay
là ngăn chặn suy thoái kinh tế nên Việt Nam sẽ áp dụng chính sách tiền tệ
nới lỏng có kiểm soát, giảm lãi suất để kích thích đầu tư và hiện đã đưa
lãi suất về gần với mức lãi suất trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính
thế giới. Đi liền với đó là tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng hoạt
động hiệu quả, tính thanh khoản được bảo đảm. Không để hệ thống ngân
hàng (quốc doanh và cổ phần) mất ổn định.
2
- PHẦN I : CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1.1 Khái niệm và vị trí của CSTT
Khái niệm : CSTT là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung
ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình
nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc
làm ,tăng trưởng kinh tế.
Vị trí : trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô
của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan
trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ .Song nó
cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính
sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại. Đối với
Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách
tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm
cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2 Mục tiêu của CSTT
• Ổn định giá trị đồng tiền
• Tăng công ăn việc làm
• Tăng trưởng kinh tế
• Ngăn ngừa lạm phát
1.3 Các công cụ của CSTT
1.3.1 Nghiệp vụ thị trưởng mở. NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trương
mở là công cụ của chính sách tiền tệ mà NHTW thường dùng ,mua
hoặc bán trái phiếu của chính phủ cho công chúng.Khi muốn tăng
cung tiền NHTW chỉ đạo mua trái phiếu trên thị trường. Ngược lại
để cắt giảm cung tiền,NHTW thực hiện nghiệp vụ bán trái phiếu.
3
- Mục tiêu xây dựng và phát triển Thị trường TPCP là mở rộng thị
trường, tăng cường tính thanh khoản trên thị trường TPCP, liên kết
thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, và tăng cường công tác
giám sát thị trường
1.3.2 Dự trữ bắt buộc: là quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ
giữa tiền mặt và tiền gửi mà các NHTM bắt buộc phải tuân thủ để
đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao
hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ
tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Đây là một trong những công cụ của ngân
hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm
thay đổi số nhân tiền tệ.
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu : Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện
cho vay ngắn hạn đối với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết
khấu bằng việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu (đối với thương
phiếu) và hạn mức cho vay tái chiết khấu.
1.3.4 Quản lý hạn mức tín dụng là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ
của các NHTM không được vượt quá một lượng nào đó trong một
thời gian nhất định(một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức
cung tiền của mình.
1.3.5 Quản lý lãi suất : NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một
trần lãi suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo
giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế
và NHTW có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình.
4
- PHẦN II : THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA
CSTT 2009
2.1 Công cụ Nghiệp vụ thị trường mở (OMO - open market operations)
Thị trường trái phiếu chính phủ:
Thị trường phát hành và giao dịch trái phiếu chính phủ (TPCP) năm 2009
có những nét đặc trưng riêng khi trong năm này, lần đầu tiên, Chính phủ
thực hiện việc phát hành TPCP ngoại tệ qua TTCK Việt Nam và hệ thống
giao dịch trái phiếu chính phủ chuyên biệt chính thức hoạt động tại Sở
GDCK Hà Nội. Những tổng kết chính về thị trường trái phiếu :
1) Thị trường sơ cấp :
- So với năm 2008, tỷ lệ thành công của các phiên đấu thầu trái phiếu
chính phủ bằng VND trong năm 2009 có xu hướng giảm mạnh. Cụ thể,
năm 2008 huy động 6.060 tỷ đồng/26.600 tỷ đồng khối lượng gọi thầu, tỷ
lệ thành công 22,78%; năm 2009 huy động 2.578,5 tỷ đồng/62.700 tỷ đồng
khối lượng gọi thầu, tỷ lệ thành công 4,18%.
-Tính đến ngày 30/11/2009, Sở GDCK Hà Nội (HNX) đã tổ chức 58
phiên đấu thầu, trong đó, đấu thầu trái phiếu bằng VND tổ chức 52 phiên,
huy động được 2.578,5 tỷ đồng/khối lượng gọi thầu 62.700 tỷ đồng, tỷ lệ
thành công 4,11%; đấu thầu trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ
(USD) 6 phiên, huy động được 387,11 triệu USD, tương đương 6.774 tỷ
đồng (ước tỷ giá 17.500 đồng)/khối lượng gọi thầu 550 triệu USD, tương
đương 9.625 tỷ đồng, tỷ lệ thành công là 70,38%. Tổng nguồn vốn huy
động được từ đấu thầu trái phiếu bằng USD và VND là 9.352 tỷ
đồng/khối lượng gọi thầu 72.325 tỷ đồng.
5
- 2) Thị trường thứ cấp:
- Kết quả giao dịch từ ngày 24/9/2009 đến 15/12/2009:
+ Giao dịch thông thường: tổng KLGD là 89,7 triệu trái phiếu với GTGD
đạt 9.220,6 tỷ đồng. Giao dịch mua bán lại: tổng giá trị mệnh giá trái
phiếu giao dịch đạt 1.204 tỷ đồng với GTGD lần một là 406,56 tỷ đồng.
23/30 thành viên có giao dịch, trong đó bao gồm 12 CTCK (68% giá trị giao
dịch) và 11 NHTM (32% giá trị giao dịch).
=> Giao dịch trái phiếu có xu hướng giảm rõ rệt từ tháng 6/2009: Giá trị
giao dịch của 6 tháng đầu năm chiếm hơn 70% tổng giá trị giao dịch cả
năm 2009.
Tháng 9/2009: Hệ thống giao dịch Trái phiếu Chính phủ chuyên biệt chính
thức được Sở GDCK Hà Nội (HNX) đưa vào vận hành và ra mắt vào ngày
24/09/2009 tới với mục tiêu phát huy tối đa tầm quan trọng của kênh huy
động vốn này đối với nền kinh tế
Vốn trái phiếu Chính phủ: Trong khoảng 145,6 nghìn tỷ đồng, tương
đương với 8 tỷ USD, thuộc gói kích thích kinh tế sử dụng cho năm
2009, trái phiếu Chính phủ là phần vốn chủ lực.
Nhiệm vụ chi với trái phiếu Chính phủ năm 2009 bao gồm hai khoản
chính là 56 nghìn tỷ đồng trong kế hoạch, 7.183 tỷ đồng vốn trái phiếu
chuyển nguồn từ năm 2008 sang.
6
- - Thực hiện giải ngân: năm 2009 là 45 nghìn tỷ đồng, đạt 80,4% kế
hoạch giao. Phần chuyển nguồn từ năm 2008 sang năm 2009 thực hiện
hoàn thành 100%.
+ Nguồn vốn trái phiếu chính phủ dành cho giao thông, thủy lợi tính tới
nay chỉ đạt 45,1% kế hoạch, trong đó trung ương chỉ đạt
33,5%; địa phương đạt 36,8%
+Vốn trái phiếu Chính phủ cho y tế và giáo dục có mức độ giải ngân rất
thấp. Y tế chỉ đạt 35,2%, giáo dục 60% .Cụ thể như với thành phố Hà
Nội, vốn trái phiếu chính phủ dành cho lĩnh vực y tế năm 2008 chuyển
sang năm 2009 là 70 tỷ đồng, nhưng mới thanh toán được khoảng 1,8 tỷ
đồng.
+Với Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn, vốn trái phiếu Chính phủ
tỷ lệ thực hiện thấp hơn so với các nguồn vốn khác. Cho đến tháng
9/2009, Bộ này mới thực hiện được 2.219 tỷ đồng, trên tổng số vốn trái
phiếu Chính phủ thuộc kế hoạch được giao và kế hoạch bổ sung là 4.150
tỷ đồng, chỉ bằng 53%.
+Ở Bộ Giao thông Vận tải, tình hình có khả quan hơn. Nguồn trái phiếu
chính phủ thực hiện 9 tháng đầu năm 2009 đạt 65,1% kế hoạch, giải ngân
đạt 60,3% kế hoạch.
2.2 Dự trữ bắt buộc
Quyết định về dự trữ bắt buộc có hiệu lực thi hành kể từ kỳ duy trì dự trữ
bắt buộc tháng 3 năm 2009 và thay thế Quyết định số 3158/QĐ-NHNN
7
- ngày 19 tháng 12 năm 2008 và Điều 2 Quyết định số 2951/QĐ-NHNN
ngày 03 tháng 12 năm 2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Nội dung :
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới
12 tháng bằng đồng Việt Nam áp dụng như sau:
+ Các ngân hàng thương mại Nhà nước (không bao gồm Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam), Ngân hàng thương mại
cổ phần Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100%
vốn nước ngoài, công ty tài chính là 3% trên tổng số dư tiền gửi phải dự
trữ bắt buộc.
+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng
thương mại cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân
hàng hợp tác là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
-Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng đồng
Việt Nam áp dụng như sau:
Các ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, Ngân
hàng thương mại cổ phần nông thôn, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng hợp tác,
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, Quỹ tín dụng nhân dân trung
ương là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
-Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 12 tháng bằng ngoại tệ áp dụng như sau:
8
- + Các ngân hàng thương mại Nhà nước (không bao gồm Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam), Ngân hàng thương mại
cổ phần Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100%
vốn nước ngoài, công ty tài chính là 7% trên tổng số dư tiền gửi phải dự
trữ bắt buộc.
+Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng thương
mại cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng
hợp tác là 6% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng ngoại
tệ áp dụng như sau:
+ Các ngân hàng thương mại nhà nước (không bao gồm Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam), Ngân hàng thương mại
cổ phần Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100%
vốn nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính là 3% trên
tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng
thương mại cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân
hàng hợp tác là 2% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
2.3 Cho vay tái chiết khấu
Ngày 10/4/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành
Quyết định số 837/QĐ-NHNN thay thế cho quyết định số 173/QĐ-NHNN
ngày 23/1/2009 .Theo Quyết định , các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
9
- hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam được áp dụng từ ngày 10/4/2009 đều giảm
1,0%/ năm so với các mức lãi suất đã được quy định ở Quyết định
173/QĐ-NHNNN ngày 23/1/2009.
Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 8,0%/năm xuống còn 7,0 %/năm; lãi
suất tái chiết khấu giảm từ 6,0%/năm xuống còn 5,0 %/năm; lãi suất cho
vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp
thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối
với các ngân hàng giảm từ 8,0%/năm xuống còn 7,0 %/năm.
Song từ cuối tháng 11/2009 để phù hợp với diễn biến mới của nền kinh
tế, NHNN đã điều chỉnh biên độ ấn định tỷ giá xuống +/-3%, theo đó bắt
đầu từ tháng 12/2009 lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết
khấu cũng được điều chỉnh tăng lên 1%. Việc điều chỉnh tăng giảm lãi
suất và biên độ tăng giảm tỷ giá đã thực sự khuyến khích sản xuất và
xuất khẩu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội.
2.4 Hạn mức tín dụng
Bản chất của hạn mức tăng trưởng tín dụng của NHNN đặt ra nhằm thực
thi chính sách tiền tệ, tránh nguy cơ lạm phát cũng như tăng trưởng quá
nóng và không bền vững của nền kinh tế.
Đến nay, mức tăng trưởng tín dụng đã tiến gần đến giới hạn do Ngân
hàng nhà nước quy định (NHNN mới công bố mức tăng trưởng tín dụng
của các NHTM đến hết quý 3/2009 đạt 28%, sát ngưỡng mục tiêu năm
10
- 2009 là 30%) nên nhiều người không khỏi băn khoăn hoạt động của các
ngân hàng thương mại thời gian tới sẽ ra sao. Phải chăng các ngân hàng
thương mại sẽ phải giảm hoặc thậm chí ngừng cấp tín dụng cho nền
kinh tế để giữ mức 30%.
Qua phân tích, chúng tôi thấy, mặc dù dư nợ tín dụng đã tăng khá cao; tuy
nhiên, lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát. Nếu so với tháng 12/2008, CPI
tính đến cuối tháng 9 tăng 4,11%. Cho dù CPI tháng 9 tăng cao hơn so với
các tháng đầu năm 2009, nhưng chỉ ở mức 0,62% và chủ yếu là do giá một
số hàng thiết yếu trên thị trường thế giới tăng và nhu cầu tăng đột biến
về một số hàng hoá, dịch vụ vào những ngày lễ đặc biệt như Quốc khánh,
lễ khai giảng năm học mới, lễ Vu Lan, và Tết Trung thu. Như vậy, việc
tăng chỉ số giá tiêu dùng trong thời gian qua vẫn ở mức hết sức an toàn.
Nền kinh tế của chúng ta đã thoát khỏi thời kỳ khó khăn nhất và đang dần
lấy lại đà tăng truởng, GDP tăng đều qua các quý từ 3,14% (quý 1) đến
4,46% (quý 2) và 5,76% (quý 3) là nhờ chính sách hỗ trợ lãi suất và sự tăng
trưởng tín dụng trong thời gian qua. Chắc chắn rằng, thời gian tới, nền
kinh tế vẫn tiếp tục cần vốn cho đầu tư phát triển để đưa GDP cả năm
đạt ít nhất 5% như chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc hội thông qua. Để
11
- chống suy thoái, tăng trưởng tín dụng của hầu hết các nước đều cao hơn
các năm trước đây. Ở Trung Quốc, tỷ lệ này đến nay đã vào khoảng 40%.
Vì vậy, chúng ta không thể kiềm chế sự phát triển của nền kinh tế để cố
định mức tăng trưởng tín dụng ở 30% một cách chủ quan, trong khi tăng
trưởng tín dụng chưa gây ra hiệu ứng đáng lo ngại về lạm phát. Hay nói
cách khác, chắc chắn NHNN sẽ tiếp tục có sự điều chỉnh thích hợp và
hoạt động của các ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục ổn định.
2.5 Lãi suất, tỷ giá:
Từ ngày 1/2/2009 lãi suất cơ bản 8,5% hạ xuống còn 7%
Nhà nước cho biết việc điều chỉnh giảm lãi suất nêu trên là nhằm
triển khai các giải pháp cấp bách của Chính phủ, ngăn chặn suy giảm kinh
tế, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động, trong
điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế thế giới.
Những ngày đầu năm 2009, lãi suất cả cho vay và huy động tiếp tục
được hạ xuống. Theo nhận định chung của nhiều chuyên gia, lãi suất sẽ
tiếp tục xu hướng hạ trong năm 2009.
Ngày 7/1/2009, Ngân hàng Đầu tư - Phát triển (BIDV) đã quyết định giảm
lãi suất lần thứ nhất trong năm 2009. Mức giảm khá sâu và đưa đáy lãi
suất thấp nhất về 6,5%, thấp hơn cả lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà
nước.
12
- Trong khi đó, Ngân hàng Quân đội từ ngày 6/1 đã điều chỉnh giảm lãi suất
tiền gửi của khách hàng cá nhân bằng đồng Việt Nam, mức giảm từ 0,2%
đến 0,53% và USD có mức giảm từ 0,2% đến 0,3%.
Nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người
dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi
các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; các NHTM nhà nước giảm lãi
suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-
6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp
xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động
giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009)
- Tỷ giá:
Trong quá trình thực hiện chính sách kích thích kinh tế, một nội dung
quan trọng, nhạy cảm mà NHNN triển khai khá tốt là việc điều hành cơ
chế tỷ giá phù hợp với diễn biến của thị trường theo hướng nới lỏng thận
trọng, tạo điều kiện cho các tín dụng mở rộng tín dụng hiệu quả. Thực
hiện hoán đổi ngoại tệ để giảm bớt căng thẳng mất cân đối giữa nguồn
và sử dụng nguồn vốn Việt Nam đồng và ngoại tệ; đồng thời mở rộng
biên độ tỷ giá mua bán USD/VND của các NHNN từ +/-3% lên +/-5% kể
từ ngày 24/3/2009. Song, từ cuối tháng 11/2009 để phù hợp với diễn biến
mới của nền kinh tế, NHNN đã điều chỉnh biên độ ấn định tỷ giá xuống
+/-3%, theo đó bắt đầu từ tháng 12/2009 lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng được điều chỉnh tăng lên 1%. Việc điều
chỉnh tăng giảm lãi suất và biên độ tăng giảm tỷ giá đã thực sự khuyến
khích sản xuất và xuất khẩu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã
hội.
13
- PHẦN III : ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỊNH HƯỚNG
1) Thành Tựu:
1. NHNN đã kịp thời chỉ đạo các ngân hàng thương mại thực hiện
chương trình hỗ trợ lãi suất 4%
Nhằm hỗ trợ nền kinh tế trong bối cảnh bị tác động bởi suy thoái tài chính
toàn cầu, Chính phủ đã quyết định thực hiện kế hoạch kích cầu thông qua
lãi suất và NHNN có trách nhiệm triển khai nhiệm vụ này.
Tính đến ngày 24/12/2009, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất bằng đồng Việt
Nam đạt hơn 412 nghìn tỷ đồng.
Các chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp đánh giá đây là một trong
những giải pháp kích thích kinh tế tối ưu với chi phí thấp, phù hợp với
điều kiện nước ta, có tác động tích cực giúp nhiều doanh nghiệp và hộ
sản xuất giảm chi phí vay vốn, giảm giá thành sản phẩm, duy trì và mở
rộng sản xuất, kinh doanh, đồng thời tạo việc làm, góp phần bảo đảm an
sinh xã hội, ngăn chặn suy giảm kinh tế. Việc triển khai cơ chế hỗ trợ lãi
suất cũng thể hiện sự nỗ lực lớn và khả năng thực thi chính sách của hệ
thống ngân hàng.
2. Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt và hiệu quả, góp
phần duy trì các chỉ số tiền tệ và kinh tế vĩ mô ở mức hợp lý
14
- Nhìn chung, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng
thân trong, hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở
̣ ̣
rộng tín dụng hiệu quả. Đặc biệt, NHNN đã quyết tâm thực hiện giữ
nguyên lãi suất cơ bản trong 10 tháng (áp dụng 7%/năm từ tháng 2 đến
tháng 11/2009).
Trong bối cảnh các nguồn cung ngoại tệ bị suy giảm do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, NHNN đã thực hiện nhiều biện
pháp để ổn định thị trường. Trong đó có việc điều hành linh hoạt tỷ giá
bình quân liên ngân hàng phù hợp với tín hiệu thị trường và mục tiêu đẩy
mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
Từ cuối tháng 11/2009, để phù hợp với diễn biến mới của nền kinh tế và
trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá, lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng
và cán cân thanh toán quốc tế, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm
biên độ ân đinh tỷ giá xuống +/-3% kể từ ngày 26/11/2009, đồng thời điều
́ ̣
chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 26/11/2009 tăng
thêm 5,4% so với ngày 25/11/2009.
3. Triển khai đồng bộ cac giải pháp về điều hành tín dụng nhăm
́ ̀
khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô
và an sinh xã hội
Cụ thể, NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện các giải pháp về
tín dụng và lãi suất để vừa chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm an toàn hoạt động và ngăn ngừa nguy
cơ tái lạm phát…
Trong đó, đáng chú ý là việc thực hiện Nghị quyêt số 30a/2008/NQ-CP cua
́ ̉
Chinh phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với
́
62 huyện nghèo.
4. Hiện đại hoá hoạt động ngân hàng và phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt
NHNN đã chỉ đạo các đơn vị trong toàn ngành tiếp tục triển khai giai đoạn
II Chỉ thị 20/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị 05 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về trả lương qua tai khoan cho cac đôi
̀ ̉ ́ ́
tượng hưởng lương từ ngân sach nhà nước theo hướng tập trung nâng cao
́
chât lượng cung ứng dich vụ và gia tăng cac tiên ich phat triên thanh toan
́ ̣ ́ ̣ ́ ́ ̉ ́
̀ ̀
không dung tiên măt.̣
15
- Hiện hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng giai đoạn II được đưa
vào vận hành từ tháng 11/2008 với khả năng xử lý 2 triêu giao dich/ngay đã
̣ ̣ ̀
gop phân rât quan trong tăng cường khả năng cung cấp các dịch vụ thanh
́ ̀ ́ ̣
toán điện tử hiện đại, tiện ích cao cho xã hội.
5. Hạ nhiệt thị trường vàng
Quyết định cho phép nhập khẩu vàng trong thời điểm nhạy cảm đã được
xem như một liều thuốc giải nhiệt hiệu quả và kịp thời đối với cơn sốt
vàng (trung tuần tháng 11/2009). Trước đó, hoạt động nhập khẩu vàng đã
bị tạm ngừng một năm rưỡi.
Từ thời điểm đó tới nay, với sự ổn định của tỷ giá USD/VND trên thị
trường tự do và nguồn cung vàng không còn khan hiếm, giao dịch trên thị
trường vàng diễn ra khá ổn định.
6. Tăng cường hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế
Năm 2009, NHNN đã chủ trì đàm phán với các tổ chức tài chính, tiền tệ
quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)… thực hiện nhiều chương trình, dự án
về phát triển kinh tế- xã hội.
Đồng thời thực hiện lý kết các văn bản hợp tác trao đổi thông tin thanh tra
giám sát ngân hàng với 12 cơ quan quản lý ngân hàng các nước, vùng lãnh
thổ; tiếp tục thể hiện vai trò tích cực trong tiến trình hợp tác tài chính tiền
tệ khu vực ASEAN, ASEAN+3, SEACEN, APEC...
Đặc biệt, sự kiện Thống đốc NHNN được toàn thể Thống đốc các nước
thành viên IMF/WB bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Thống đốc IMF/WB
nhiệm kỳ 2008-2009 cho thấy sự ghi nhận và đánh giá cao của cộng đồng
tài chính tiền tệ quốc tế đối với những thành tựu mà Việt Nam đã đạt
được trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội.
7. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính
NHNN đã hoàn thành việc thống kê và công bố Bộ thủ tục hành chính
thuộc phạm vi, chức năng quản lý của NHNN, và là đơn vị hoàn thành
sớm nhất giai đoạn 1 - giai đoạn rà soát và thống kê tất cả các thủ tục
hành chính thuộc lĩnh vực hoạt động ngân hàng, đảm bảo đúng yêu cầu và
16
- có chất lượng. Hiện nay, NHNN tiếp tục tập trung rà soát các thủ tục
hành chính còn lại để đề xuất đơn giản hoá tối thiểu 30% các quy định về
thủ tục hành chính theo đúng yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ.
8. Hoàn thiện thể chế về tiền tệ và thành lập các cơ quan đủ mạnh
để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của NHNN
Thực hiện chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2009 của Quốc
hội, NHNN đã hoàn thiện dự thảo Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các
tổ chức tín dụng (sửa đổi). Năm 2010, NHNN sẽ tập trung hoàn thiện 2
dự thảo Luật trên để trình Quốc hội thông qua, đồng thời xây dựng các
văn bản hướng dẫn để có thể áp dụng ngay sau khi Luật có hiệu lực thi
hành.
9. Điều hành hệ thống ngân hàng thương mại đứng vững
Năm 2009, trong khi có tới trên 140 ngân hàng tại Mỹ bị “sập tiệm”, các
vụ bê bối tài chính trên thế giới xuất hiện, thì tại Việt Nam, hệ thống
ngân hàng mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng đã đứng vững, vượt qua
khủng hoảng và tiếp tục phát triển.
Đặc biệt, NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc các
quy định về đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động kinh doanh, trong đó vốn
huy động từ thị trường tiền tệ liên ngân hàng chỉ được sử dụng để bù đắp
thiếu hụt dự trữ bắt buộc và đảm bảo khả năng năng thanh toán, không
được sử dụng để cho vay đối với tổ chức, cá nhân… đồng thời cũng tăng
cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng.
10. Xử lý các tin đồn trên thị trường tài chính - tiền tệ
Năm 2009 cũng là năm nhiều tin đồn tấn công vào thị trường tài chính -
tiền tệ. NHNN đã kịp thời lên tiếng, minh bạch thông tin, ổn định thị
trường.
Năm 2010, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị chú trọng công tác thông
tin, tuyên truyền về các biện pháp chỉ đạo và điều hành hoạt động tiền tệ
- ngân hàng, nhất là các nội dung liên quan đến hỗ trợ lãi suất, chính sách
tỷ giá, quản lý ngoại hối để các doanh nghiệp, tổ chức, người dân nắm
bắt được thông tin.
17
- Có thể nói, những khó khăn nhất đã qua, năm 2009 mặc dù phải đối mặt
với rất nhiều thách thức trong quá trình thực thi CSTT, nhưng với sự điều
hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình, về
cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu của năm 2009 là kiềm chế lạm phát
từ mức 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52%, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở
mức 5,2% và CSTT đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô.
Rõ năm 2009 là năm khá thành công với chính sách tiền tệ (CSTT) đó là
việc Chính phủ điều hành chính sách này linh hoạt và ít sốc hơn năm
2008; năm 2009, hệ thống tài chính ngân hàng đã trở lại trạng thái bình
thường và ổn định; thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối đến nay đã
thông suất và qua đó NHTM cho vay ra được, các DN tiếp cận được vốn
VND và ngoại tệ khi hoạt động kinh doanh của họ đã có dấu hiệu khởi
sắc từ cuối 2009
2) Hạn Chế
Trong 2009, chính sách tài khóa và tiền tệ đã phải nới lỏng để kích thích
kinh tế, gây sức ép khá lớn cho lạm phát và một số cân đối vĩ mô khác.
Chẳng hạn, việc hỗ trợ lãi suất giúp doanh nghiệp giảm chi phí, giảm giá
thành qua đó giúp họ vượt qua thời khắc khó khăn, nhưng mặt trái lại đẩy
tín dụng tăng cao và doanh nghiệp chuyển từ vay ngoại tệ sang vay VND
để hưởng lãi suất thấp, đồng thời, tăng nhu cầu mua ngoại tệ làm tăng
sức ép lên tỷ giá VND.
Có ý kiến cho là tín dụng tăng trưởng tới gần 40% là hơi cao quá; tình
trạng thị trường ngoại hối và tỷ giá chịu nhiều sức ép do cung cầu mất
cân đối và tâm lý tích trữ ngoại tệ kéo dài quá lâu. Chúng ta có tích cực
dùng các biện pháp thông tin, điều chỉnh tâm lý ứng xử trên thị trường,
song liều lượng không đủ và thời gian hơi chậm. Lẽ ra chúng ta có thể
18
- điều chỉnh tỷ giá sớm hơn, thay vì phải chờ tới cuối tháng 11. Hay các
giải pháp kỹ thuật như điều chỉnh lượng tiền ra lượng tiền vào có thể làm
tốt hơn...
-Cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu hướng nóng dần lên, một số
NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản; Tăng trưởng tín dụng có
dấu hiệu “nóng”; Tình trang khan hiếm ngoại tệ chưa được giải quyết
triệt để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến phức tạp. Như vậy, có thể thấy
nền kinh tế Việt Nam đã tạm qua giai đoạn suy giảm và đang bắt đầu hồi
phục với không ít khó khăn và nhiều nguy cơ đòi hỏi phải những nhà
hoạch định chính sách tiền tệ phải đối mặt để ngăn chặn
Tâm lý găm giữ ngoại tệ của DN và người dân vẫn chưa được giải tỏa
triệt để. Giá vàng trên thị trường thế giới luôn diễn biến phức tạp, khó
lường và thực sự đang có xu hướng tăng… Còn với chính sách hỗ trợ lãi
suất, sự phối hợp giữa ngân hàng với các Bộ, ngành thực hiện Quyết định
497/QĐ-TTg chưa thật tốt, nhiều vướng mắc chậm được giải quyết cho
nên nguồn vốn hỗ trợ chảy về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa
nhiều, mức lãi suất vay USD thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn đã phát
sinh hiện tượng khách hàng vay để trục lợi bằng cách vay ngân hàng này
gửi vào ngân hàng khác. Cũng qua chính sách hỗ trợ này được áp dụng khá
rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, ngành hàng và đối tượng thụ hưởng cho nên
xuất hiện tâm lý ỷ lại hoặc sử dụng vốn không đúng mục đích, không
kiểm soát được.
3) Giải Pháp 2010:
19
- Chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ cần giảm bớt mức độ nới lỏng hơn
song cũng không nên thắt chặt một cách đột ngột. Chính sách tiền tệ nếu
thắt chặt quá mức và đột ngột, có thể dẫn tới thiếu hụt thanh khoản, gây
khó khăn cho cả ngân hàng và doanh nghiệp. Tăng trưởng tín dụng từ 25-
30% là vừa phải, về chính sách tài khóa, thâm hụt ngân sách đề ra chỉ tiêu
dưới 6,2% GDP là hợp lý . Chúng ta cần tiếp tục chấp nhận thâm hụt
ngân sách cao để tăng cường đầu tư, thúc đẩy kinh tế và hỗ trợ các đối
tượng xã hội dễ bị tổn thương. Chính sách tiền tệ trong năm tới có vai trò
rất quan trọng và phải làm sao tạo sự ổn định của thị trường. Trong điều
kiện thị trường vốn của Việt Nam còn hết sức sơ khai, trách nhiệm của
ngành ngân hàng với tư cách một nguồn cung vốn cho sản xuất kinh
doanh là hết sức lớn.
Trong năm 2010, cần tập trung cố gắng giải phóng sức sản xuất, khai
thác nguồn lực đầu tư xã hội và đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án thông
qua đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế thị trường và thủ tục hành chính.
Nếu chúng ta làm tốt việc này, chắc chắn sẽ thu hút thêm nguồn vốn đầu
tư của khu vực dân doanh và nâng cao hiệu suất đầu tư xã hội. Đẩy mạnh
việc khai thác thị trường nội địa cũng là một hướng chính sách quan trọng
để phát triển sản xuất trong nước
- Chúng ta cần theo dõi tín hiệu của thị trường. Vừa qua ta đã có bước bỏ
hỗ trợ lãi suất 4% với các khoản vay ngắn hạn, đồng thời, tăng lãi suất cơ
bản thêm 1%, tính cả hai phần này, lãi suất đã tăng thêm khá lớn so với
năm ngoái. Vì vậy cân tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ
trợ lãi suất của Chính phủ; điều hành chính sách tiền tệ một cách thận
trọng, linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng,
kiềm chế lạm phát do Quốc hội đề ra
20
nguon tai.lieu . vn