Xem mẫu

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018

55

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ ĐÀ NẴNG THỜI PHÁP THUỘC (1888-1950)
URBAN DEVELOPMENT STRATEGY OF DANANG IN FRENCH COLONIAL PERIOD
(1888-1950)
Lê Minh Sơn
Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; leminhson@hotmail.com
Tóm tắt - Đà Nẵng hiện nay là một thành phố quan trọng bậc nhất
của miền Trung, địa vị này không phải tự nhiên mà có được, nó phải
được hậu thuẫn tốt nhờ vào vị trí địa lý vốn có và sự gây dựng một
nền tảng vững chắc từ quá khứ. Bài viết này của tác giả là một
nghiên cứu lý thuyết, bằng cách khảo cứu các hồ sơ, tư liệu, văn bản
hành chính cũ liên quan đến vấn đề xây dựng đô thị Đà Nẵng trong
thời kỳ Pháp thuộc, nhằm phân tích những ý đồ chiến lược của
người Pháp về kiến trúc và quy hoạch tại Đà Nẵng từ năm 1888 1950. Những việc làm này của họ đã đem lại cho thành phố Đà Nẵng
ngày hôm nay những bài học gì ? Nhận xét về vấn đề quản lý và
phát triển đô thị Đà Nẵng ngày hôm này có tương xứng với những
gì mà lịch sử đã gây dựng nên hay chưa?

Abstract - Danang is the most important city in the Central
Vietnam. This role does not come naturally; it has to be wellsupported by its inherent geographical location and the building of
a solid foundation from the past. This article is a theoretical study,
researching the history documents, data, administrative
documents related to urban planning of Danang during the colonial
period to analyse the French's strategic intention of urban planning
and architecture in Danang during 1888 - 1950. What are the
lessons they have brought to Da Nang today? Would comments on
the management and development of Da Nang today be
commensurate with what history has built up or not?

Từ khóa - Đà Nẵng thời Pháp thuộc; đô thị Đà Nẵng; quy hoạch
Đà Nẵng; Tourane; kiến trúc Đà Nẵng.

Key words - Da Nanng in French Colonial periode; Da Nang
urban; Da Nang planning; Tourane; Da Nang architecture.

1. Đặt vấn đề
Nhắc đến Huế người ta dễ tưởng nhớ đến chốn cố đô của
triều Nguyễn, Sài Gòn thì được ví như hòn ngọc Viễn Đông,
Hà Nội thì là thủ phủ của toàn cõi Đông Dương. Nhưng khi
nói đến Đà Nẵng, liệu rằng chúng ta có thể tìm thấy một hình
ảnh đại diện nào? Phải chăng vì thành phố này không có tầm
quan trọng trong con mắt của người Pháp?
Ngược dòng lịch sử, trong suốt thời kỳ thuộc địa Pháp
(1888-1950), với tham vọng muốn biến Đà Nẵng trở thành
một trong ba thành phố nhượng địa quan trọng bậc nhất của
Pháp tại Việt Nam, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer
đã chỉ đạo Cơ quan Xây dựng Đông Dương nghiên cứu lập
nên một đồ án kiến trúc bền vững và có tầm nhìn chiến lược
cho vùng đất này. Thực vậy, trong 62 năm hiện diện, người
Pháp đã tạo cho thành phố một sự thay đổi ngoạn mục từ
quy hoạch hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho đến xây
dựng các công trình kiến trúc kiểu mẫu.
Mục tiêu của bài viết tập trung vào việc trả lời cho các
câu hỏi sau: Vì sao người Pháp lại xác định Đà Nẵng là vị
trí chiến lược; Nguyên tắc quy hoạch và quản lý kiến trúc
đô thị của người Pháp cho Đà Nẵng; cuối cùng là đưa ra
những nhận định về sự phát triển của thành phố Đà Nẵng
trong giai đoạn hiện nay có tương xứng với những gì mà
người Pháp đã gây dựng nên hay chưa.
Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính,
trọng tâm là nghiên cứu tàng thư (Archival Research),
nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm của các đối
tượng tiếp cận từ quan điểm của nhà nghiên cứu.

nơi thuận tiện cho việc thiết lập cơ sở thương mại và quân sự
trong cuộc bành trướng thế lực của họ ở Viễn Đông, bởi vì
nếu Đà Nẵng ở trong tay của họ sẽ là một hải cảng không thể
chiếm được và sẽ là một cứ điểm quan trọng nhất để khống
chế các công cuộc ở thương Á [1].
Vị trí và vẻ đẹp của Vịnh Đà Nẵng đã được Toàn quyền
Đông Dương Paul Doumer ghi chú trong một chuyến hành
trình khám phá Annam vào năm 1897: “mọi thứ trở nên rõ
ràng trước mắt, Đà Nẵng xuất hiện thật đắm say, không
một cảnh thần tiên nào của Địa Trung Hải mà vừa đẹp và
vừa lớn lao đến như vậy. Ta lấy vịnh đẹp nhất của Pháp là
Villefranche-sur-Mer để làm ví dụ, thì phải lấy diện tích
của nó nhân lên mười đến hai mươi lần, và lấy các vùng
đất cùng độ cao của các dãy núi tại đó nhân lên cả trăm
lần ta mới có được như Vịnh Đà Nẵng (…) Thật vậy khung
cảnh ở đây đủ khiến những kẻ muốn khám phá phải đi từ
Pháp sang Viễn Đông để thưởng thức biết bao sự quyến rũ
và kỳ thú” [2, tr.333].
2.2. Hải cảng giá trị với các ưu điểm được thiên nhiên
ban tặng
Người Pháp thực sự đã có cái nhìn xa và thấu đáo về
khả năng cũng như tương lai tốt đẹp của hải cảng Đà Nẵng.
Các nhà chức trách của thành phố đã xin ý kiến từ chính
quyền Đông Dương để ra sức tập trung nạo vét lòng sông
và cửa sông nhằm mục đích xây dựng nên một thương cảng
lớn có giá trị, tận dụng được những ưu điểm về điều kiện
thiên nhiên vốn có. Thật vậy, so với Sài Gòn và Hải Phòng
thì Đà Nẵng có lợi thế hơn hẳn về phương diện hàng hải,
từ cửa Hàn đến bến chính trong sông chỉ cách 3km (Sài
Gòn cách biển 80km, Hải Phòng cách 40km). Năm 1904,
trong một văn bản mà Phòng Thương mại Đà Nẵng gửi cho
Ban Thương mại và Kỹ nghệ Đông Dương đã khẳng định
rõ về giá trị của hải cảng này như sau: “như chúng tôi đã
nói, Đà Nẵng đối với chúng tôi là một hải cảng tốt đẹp nhất
nhất Đông Dương. Để trở thành đầu não của con đường
hàng hải tại xứ này; nó đem lại cho các đường viễn dương

2. Đà Nẵng, vị trí chiến lược và hải cảng quan trọng bậc
nhất của người Pháp
2.1. Vị trí chiến lược
Nhờ một vị trí địa dư đặc biệt, một địa thế thiên nhiên tốt
đẹp về nhiều phương diện, Đà Nẵng đã được Tây Phương
chú ý từ rất sớm. Riêng người Pháp đã xem bán đảo này là

56

mọi sự dễ dàng: tàu vô thẳng, không phải tốn phí về hoa
tiêu dẫn đạo, không chậm trễ vì phải chờ đợi thủy triều”
[3]. Tất cả những công lao xây dựng hải cảng của người
Pháp được tập trung trong khoảng thời gian từ 1897-1933,
và 90% những gì thuộc hải cảng này được người Pháp để
lại cho Việt Nam vào năm 1953 [4, tr.345].
3. Đồ án quy hoạch thành phố có tầm nhìn xa đã được
người Pháp lập ra cho Đà Nẵng như thế nào?
Chính thức trở thành thành phố nhượng địa của người
Pháp vào năm 1888, tuy nhiên phải đến năm 1897, với sự
cương quyết của Toàn quyền Đông Dương thì chính quyền
thành phố mới thực sự bắt tay vào việc triển khai thực hiện
đồ án quy hoạch và kiến trúc để xây dựng thành phố. Toàn
quyền Đông Dương Paul Doumer đã viết: “quả thật vậy, từ
1888-1897, Tourane chưa tương xứng với một xứ sở mà
chúng ta đã xây dựng từ hơn 10 năm nay, lẽ ra nơi này phải
đang phát triển kinh tế rất nhanh chóng (…) ai là người
chịu trách nhiệm cho kết quả tồi như vậy, cho việc thiếu
động lực và những sáng kiến tư nhân, thiếu cả những hành
động thực sự. Đúng là người Pháp đến đây còn ít, thế chính
quyền họ làm gì? Họ đang ở đâu?” [2, tr.338].

Hình 1. Bản đồ quy hoạch thành phố Đà Nẵng được người
Pháp lập năm 1931, hệ thống đường phố được quy hoạch theo
mô thức “ô bàn cờ” đơn giản của phương Tây, lấy đường Quai
Courbet (Bạch Đằng) làm trục xuất phát điểm. (Nguồn:
http://belleindochine.free.fr/images/Plan/cite/Tourane2.JPG)

Lê Minh Sơn

3.1. Nguyên tắc quy hoạch thành phố không tập trung
các cơ quan hành chính vào một khu vực
Là một trong 5 thành phố thuộc địa tại Việt Nam được
hưởng quy chế thị xã như ở nước Pháp [5] (Đà Nẵng, Sài
Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Chợ Lớn), do đó bắt buộc Đà
Nẵng phải tuân thủ và áp dụng Luật Cornudet cho công tác
quy hoạch đô thị như ở chính quốc.
Luật Cornudet dựa trên cơ sở tổ chức hình thái đô thị
không phải theo các cơ hội phát triển nhà đất và những
luồng di dân, mà theo một phương pháp quy hoạch dự đoán
trước quá trình phát triển và coi trọng tính thẩm mỹ đô thị
ẩn sau các nguyên tắc về chỉnh trang [6].
Vào năm 1920, Đà Nẵng có khoảng 10.000 người dân,
lúc này thành phố phải lập lại bản đồ quy hoạch chỉnh trang
và mở rộng thành phố. Tổng toàn quyền Đông Dương
Maurice Long lúc bấy giờ đã khẩn thiết kêu gọi các chuyên
gia đô thị không nên tập trung tất cả các cơ quan hành chính
nhà nước vào một khu vực [7], do đó nguyên tắc quan trọng
đầu tiên của đồ án này là không phát triển thành phố co cụm
lại tại khu vực trung tâm, việc mở rộng thành phố bắt buộc
phải tính đên số lượng dân số gia tăng trong những chu kỳ
tiếp theo. Thực sự với tầm nhìn xa của mình, từ năm 1901
người Pháp đã mở rộng khu nhượng địa ở Đà Nẵng về phía
Tây và Tây Bắc, phía Đông thì vượt sông Hàn, chiếm trọn
bán đảo Tiên Sa để dự trữ cho sự phát triển mở rộng thành
phố về sau này. Thật vậy, sự tính toán này của người Pháp
là hoàn toàn xác đáng, vì đến năm 1954 khi người Pháp rời
Việt Nam thì thành phố mà họ quy hoạch chỉ mới phát triển
thêm một phần nhỏ ở khu vực đất dự trữ mở rộng.
3.2. Mỗi công trình kiến trúc phải là một sản phẩm văn hóa
Muốn tạo ra một hình ảnh đô thị hấp dẫn cho Đà Nẵng
thì những sự xây dựng phải dựa trên một cấu trúc chặt chẽ
về bố cục và mang tính biểu tượng đặc trưng của địa
phương. Với cái nhìn nhân văn này của người Pháp thì đối
với họ: “một thành phố không chỉ là những đường phố và
nhà cửa gom góp lại vì đó chỉ là những phương tiện che
chở như một mai rùa, vỏ ốc của một nhân quần; một thành
phố là một công trình nghệ thuật mà nhiều thế hệ dân
chúng đã tham gia trong khi họ chịu đựng phần nào những
hoàn cảnh đã có từ trước” [8].
Trên thực tế, người Pháp chưa bao giờ có ý định xây
dựng những công trình ở Đà Nẵng với mục đích khuếch
trương ưu thế văn hóa của họ như đã làm với Hà Nội, Sài
Gòn, bởi vì Đà Nẵng trong mắt người Pháp là một vùng đất
rất lành [9].
Paul Bert, Thống sứ Trung kỳ (Annam) đã nhận định
“mặc dầu những công trình công quyền được xây dựng một
cách đơn lẻ, nhưng các công trình này đã tạo ra một mối
quan hệ thường trực và hòa trộn vào không gian thành phố
(…), giai đoạn 1880-1890 là một bước ngoặt trong nhận
thức chúng ta về văn hóa của người Annam, xu hướng tạo
ra một nền văn hóa pha trộn giữa chủ nghĩa duy lý của
phương Tây với triết học của phương Đông đang dần dần
phát triển” [10]. Do đó, hầu hết những công trình thuộc địa
được người Pháp xây dựng tại Đà Nẵng đều không quá to
lớn về kích thước, hình thức thì có sự dung hòa giữa hai
nền kiến trúc Âu-Á.

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018

Hình 2. Trung tâm Văn hóa Đà Nẵng, số 32 đường Bạch Đằng.
Một công trình kiến trúc được xây dựng trong thuộc địa Pháp
(khoảng 1906), hình thức là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc
Tân Cổ điển châu Âu với nét duyên dáng khiêm nhường của
hương vị Á Đông (Nguồn: Tư liệu của tác giả)

Hình 3. Bảo tàng Chăm Đà Nẵng là bảo tàng Chăm duy nhất
trên thế giới, được xây dựng từ năm 1915. Đây là tấm gương
tiêu biểu cho sự pha trộn kiến trúc Tây phương và kiến trúc bản
địa. Hệ khung nhà được thiết kế theo phong cách Tân Cổ điển,
trên các đầu cột lại trang trí các họa tiết của kiến trúc Chăm.
(Nguồn: Tư liệu tác giả)

3.3. Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về xây dựng
Ở Đà Nẵng hay bất cứ thành phố thuộc địa nào khác tại
Việt Nam, mọi sự xây dựng từ cơ quan công quyền cho đến
nhà ở nhỏ lẻ đều phải tuân thủ các bộ quy tắc xây dựng
soạn thảo từ nước Pháp (Luật Cornudet). Sở Kiến trúc và
Quy hoạch đô thị trung ương Đông Dương tại Hà Nội là cơ
quan cuối cùng có trách nhiệm phê duyệt và chịu mọi trách
nhiệm [11], những công trình xây dựng sai quy định ngay
lập tức bị đình chỉ và bị phạt nặng, nếu vẫn tiếp tục sai
phạm thì sẽ bị cấm xây dựng 3 năm [12]. Việc này nhằm
mục đích đảm bảo kiến trúc không làm phá hỏng ý đồ thiết
kế quy hoạch ban đầu của thành phố.
4. Những bài học và những nhận định về sự phát triển
đô thị Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay (đến 2018)
Thứ nhất: Về vị trí của Đà Nẵng, ngay từ năm 1535
bán đảo này đã lọt vào tầm ngắm của người Bồ Đào Nha
(năm 1595 - người Tây Ban Nha, năm 1613 - người Anh,
năm 1633 - người Hà Lan và sau hết là người Pháp năm
1744). Bao nhiêu đó thôi cũng đã nói lên được giá trị không
thể phủ nhận của vùng lãnh thổ này, đặc biệt là về hải cảng
và vị trí quốc phòng. Tác giả muốn nhấn mạnh ở đây là vị
trí phòng thủ quân sự của bán đảo Sơn Trà, cả người Pháp
hay người Mỹ trong giai đoạn trước 1972 tuyệt đối không
can thiệp hay động chạm gì đến khu vực này, họ chỉ xem
đây là đảo quan sát (l’îlot de l’Observatoire). Bán đảo này
có cấp độ rộng và phức tạp (về hình dạng, chức năng, ý
nghĩa vật chất và tượng trưng) nên đến nay vẫn ít được
nghiên cứu, việc mở rộng thành phố trong những năm gần
đây đã thực sự đe dọa đến di sản mội trường này. Chính vì
bán đảo này có ý nghĩa quyết định đối với thành phố nên

57

muốn gìn giữ Sơn Trà đòi hỏi phải có sự vào cuộc của
người đứng đầu chính quyền và nhóm chuyên gia thuộc
nhiều ngành khác nhau (đô thị, địa lý, sinh thái, kiến trúc
sư, kỹ sư chuyên môn, v.v…).
Thứ 2: Bản đồ quy hoạch thành phố của người Pháp
vạch cho Đà Nẵng trong thời Pháp thuộc chỉ dự trù phát
triển cho một lượng dân số tối đa là 150.000 người, trong
điều kiện kinh tế xã hội của nửa trước thế kỷ XX [4, tr.279],
đồ án này được Toàn quyền Đông Dương giao trọng trách
cho kiến trúc sư - nhà quy hoạch đô thị Pháp nổi tiếng ở
chính quốc đảm nhận [13]. Ngày nay, dân số Đà Nẵng đã
tăng một cách đột biến (năm 2017 là 1,066 triệu người),
khu trung tâm thành phố thực sự quá tải và gây ra nhiều hệ
lụy đáng tiếc. Như vậy, lãnh đạo chính quyền thành phố đã
thực sự chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, mời các nhà quy
hoạch đô thị tầm cỡ quốc tế để phối hợp, lập nên một đồ án
quy hoạch có chất lượng và xứng tầm hay chưa?
Thứ 3: Hệ thống pháp lý của chính quyền thực dân đối
với kiến trúc và quy hoạch đô thị là rất rõ ràng, minh bạch,
khoa học. Việc cấp phép và giám sát công trình xây dựng
bắt buộc các đối tượng phải tuân thủ thực hiện nghiêm. Đà
Nẵng trong những năm gần đây, ở trung tâm thành phố chỉ
có một mô hình kiến trúc duy nhất đó là kiểu nhà tháp. Với
mong muốn thu được nhiều lợi nhuận và đẩy nhanh tiến độ
thi công, do truyền thống thiên về số lượng, nguồn vốn có
hạn của một số chủ đầu tư (đầu tư ngắn hạn hơn là dài hạn),
và một phần do sự thao túng thị trường của giới bất động
sản, nên buộc các dự án tận dụng tối đa mật độ và xây dựng
nhiều tầng, sử dụng các sơ đồ mẫu mà không quan tâm đến
môi trường xây dựng và các hình thái đô thị đã tồn tại trước
đó. Vấn đề này cho thấy trình độ quản lý quy tắc xây dựng
của thành phố còn hạn chế.
Thứ 4: Từ năm 1913, người Pháp đã ban hành một bộ
quy tắc ứng xử cho các các công trình lịch sử, kể từ năm
1914 thì đạo luật này được áp dụng cho xứ Trung Kỳ
(Annam) nhằm đảm bảo việc bảo tồn những công trình đáng
chú ý nhất về nghệ thuật và lịch sử. Theo thống kê vào năm
2013, tại khu vực trung tâm thành phố Đà Nẵng có khoảng
10 công trình kiến trúc thuộc địa Pháp còn tồn tại (tuổi thọ
trên dưới 100 năm), nhưng đến năm 2018, số lượng chỉ còn
lại phân nửa, việc biến mất một cách đột ngột này đem đến
cho người dân một sự hoài nghi. Như vậy, việc trước hết mà
thành phố cần phải làm là thành lập một nhóm chuyên gia
(mời các chuyên gia nước ngoài) để đánh giá giá trị thực của
những công trình kiến trúc thuộc địa (giá trị về tuổi thọ, giá
trị sử dụng, phong cách nghệ thuật, kỹ thuật xây dựng, mốc
đánh dấu lịch sử, v.v.) sau đến phải xếp loại chúng và cuối
cùng mới đưa vào hạng mục bảo tồn.
5. Kết luận
Từ năm 1888-1950, Đà Nẵng ở trong thời kỳ thuộc địa
Pháp với tên gọi là Tourane. Có 3 điểm quan trọng nhất để
người Pháp chọn và muốn phát triển Đà Nẵng thành một
thành phố thuộc địa quan trọng, đó là vị trí phòng thủ chiến
lược, khả năng khai thác hải cảng cực kỳ thuận lợi và vẻ
đẹp trời phú của Vịnh Đà Nẵng.
Việc lập bản đồ quy hoạch phát triển thành phố thuộc
địa của người Pháp phải giao cho những nhà quy hoạch đô
thị, những kiến trúc sư tầm cỡ thế giới, có kinh nghiệm và

Lê Minh Sơn

58

tầm nhìn xa.
Luật pháp quy định của người Pháp về xây dựng rất
nghiêm, bắt buộc tất cả mọi đối tượng thực hiện. Không có
việc sử dụng cơ chế “mềm” để điều chỉnh và nắn lại dự án
so với thiết kế đã được phê duyệt ban đầu.
Vấn đề bảo tồn các di tích lịch sử địa phương rất được
người Pháp quan tâm, mặc dầu Đà Nẵng chỉ là một thành
phố thuộc địa.
Những chuyển biến tích cực gần đây chứng tỏ Đà Nẵng
đang quan tâm phát triển sáng tạo thành phố một cách tích
cực. Tầm nhìn chiến lược và cơ sở hạ tầng mà người Pháp
đã gây dựng trong thời thuộc địa là một bài học lớn về đô
thị hóa cho Đà Nẵng. Do đó, chính quyền nên chung tay
xây dựng thành phố bằng cách tận dụng những ưu điểm của
vị trí địa lý, những di tích lịch sử. Đổi mới thành phố nhưng
không đánh mất đi bản sắc địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Taboulet, La Geste Francaise en Indochine, Paris, 1956, pp. 405.
[2] Paul Doumer, L’Indo-Chine Francaise, Paris, 1930.
[3] Nội dung được trích dẫn trong một biên bản của Phòng Thương mại
Đà Nẵng lưu giữ, đề ngày 24/4/1904.
[4] Võ Văn Dật, Lịch sử Đà Nẵng, Tiểu luận Cao học Sử học, Viện Đại
học Huế, 1974.

[5] Vũ Quốc Thông, Pháp chế sử Việt Nam, Sài Gòn, 1970, trang 309.
[6] Emmanuel Pouille, Hà Nội: Hernest Hébrard và vấn đề đô thị hóa
ở Đông Dương, Dự án đào tạo chuyên ngành đô thị Hà Nội (IMV),
2005, trang 121-122.
[7] Corinne Nacinovic, Kiến trúc của các công trình công cộng thời
thuộc địa ở Hà Nội và ảnh hưởng đối với quá trình phát triển đô thị,
Tập san Nghiên cứu kiến trúc đô thị và xã hội, NXB Khoa học Kỹ
thuật, 2005, trang 168.
[8] Lưu Anh Rô, “Xứ Quảng theo dòng lịch sử”, NXB Đà Nẵng, 2015,
trang 122-123.
[9] Từ 1888-1945 người Pháp êm ả cai trị Đà Nẵng, êm ả kinh doanh
trên khu nhượng địa mà không bận tâm đối phó với bất cứ một biến
cố nào, đó là một điểm khác thường so với Hà Nội và Sài Gòn, Võ
Văn Dật, Lịch sử Đà Nẵng, NXB Nam Việt, 2007, trang 302.
[10] Ch. Pédelahore de Loddis, Hanoi, miroir de l’architecture
indochinoise, Architecture francaise outre-mer, Paris, Mardaga,
trang 296.
[11] Emmanuel Pouille, Hà Nội: Ernest Hébrard và vấn đề đô thị hóa
ở Đông Dương, Tập san Nghiên cứu kiến trúc đô thị và xã hội,
NXB Khoa học Kỹ thuật, 2005, trang 121.
[12] Bénédicte Renaud, Placer la première loi de planification
urbaine (1919-1924) dans la réflexion actuelle: le cas de
l’Auvergne, IN SITU, 2016.
[13] Ví dụ đồ án quy hoạch chỉnh trang và mở rộng các thành phố lớn
như: Sài Gòn, Hà Nội, Đà Lạt, Đà Nẵng và Phnôm-Pênh
(Campuchia) đều do nha quy hoạch đô thị-kiến trúc sư nổi tiếng
thế giới lúc bấy giờ là Hernest Hébrard, Giám đốc Sở Xây dựng
Đông Dương chủ trì thiết kế, Lê Minh Sơn, Kiến trúc Đông
Dương, NXB Xây dựng, trang 39.

(BBT nhận bài: 03/4/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 24/4/2018)

nguon tai.lieu . vn