Xem mẫu

  1. CHẾ ĐỘ CHUNG VỀ NGHĨA VỤ Chương I. Thực hiện nghĩa vụ 1.Các nguyên tắc chung về thực hiện nghĩa vụ 2.Bắt buộc thực hiện nghĩa vụ Chương II. Lưu thông nghĩa vụ Chương III. Chấm dứt nghĩa vụ 1.Các trường hợp đặc biệt của việc chấm dứt nghĩa vụ theo hợp đồng 2.Các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ theo quy định của pháp luật 3.Các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ theo thoả thuận Nghĩa vụ, một khi được xác lập, chịu sự chi phối của một chế độ chung. Luật không thiết lập sự phân biệt giữa các nghĩa vụ tuỳ theo nguồn gốc xác lập để xây dựng các quy tắc chi phối quan hệ giữa các chủ thể. Như đã nói, quan hệ nghĩa vụ được thiết lập giữa một bên là người có quyền yêu cầu một điều gì đó và bên kia là người có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Trong trường hợp điển hình, sự đáp ứng được thực hiện và yêu cầu được thoả mãn. Có trường hợp trước khi được thực hiện, quan hệ nghĩa vụ có sự thay đổi về chủ thể - chủ thể có, chủ thể nợ hoặc cả hai. Pháp luật cũng dự kiến những tình huống trong đó, nghĩa vụ chấm dứt, dù không được thực hiện. Chương I THỰC HIỆN NGHĨA VỤ Ðịnh nghĩa. Thực hiện nghĩa vụ là việc người có nghĩa vụ đáp ứng đúng và đầy đủ các yêu cầu của người có quyền: chuyển quyền sở hữu, giao tài sản, trả nợ,... Thực hiện nghĩa vụ, hiểu theo nghĩa rằng nghĩa vụ được hoàn thành, .là một trong những cách thức chấm dứt nghĩa vụ được dự liệu trong luật viết hiện hành (BLDS Ðiều 380 khoản 1). Song, trường hợp nghĩa vụ được hoàn thành là trường hợp duy nhất mà trong đó nghĩa vụ chấm dứt sau khi đã được thực hiện đúng và đầy đủ.
  2. Trong tất cả các trường hợp khác, nghĩa vụ được chấm dứt mà chưa được thực hiện xong thậm chí, có thể không bao giờ được thực hiện. Việc thực hiện nghĩa vụ có thể tự nguyện nhưng cũng có thể không tự nguyện. Luật viết có những quy tắc chung cho tất cả các trường hợp thực hiện nghĩa vụ. Bên cạnh đó, luật cũng có những quy tắc riêng được áp dụng cho trường hợp nghĩa vụ được thực hiện một cách không tự nguyện. Mục I. Các quy tắc chung về thực hiện nghĩa vụ I - Các bên trong quan hệ thực hiện nghĩa vụ 1. Trường hợp tổng quát Người thực hiện nghĩa vụ. Người thực hiện nghĩa vụ có thể là người có nghĩa vụ, nhưng cũng có thể là người thứ ba. Một cách hợp lý, nếu có một người nào đó sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của người có quyền, thì người này không thể từ chối. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp mà khái niệm “đáp ứng yêu cầu của người có quyền” được xây dựng không chỉ bằng các yếu tố khách quan (nội dung của sự đáp ứng) mà còn cả bằng các yếu tố chủ quan (nhân thân hoặc phẩm chất nghiệp vụ của người đáp ứng hoặc cả hai). Một người thuê một họa sĩ vẽ chân dung cho mình vì tin rằng chỉ có người họa sĩ này mới có thể thực hiện được cho mình một bức chân dung mà mình mong muốn. Người thuê trong trường hợp này có quyền từ chối đề nghị của một người khác về việc thực hiện nghĩa vụ thay người họa sĩ đã giao kết hợp đồng. Giả sử người thứ ba thực hiện nghĩa vụ và người có quyền yêu cầu cũng chấp nhận việc thực hiện đó, thì người thực sự có nghĩa vụ không còn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền yêu cầu; tuy nhiên, người có nghĩa vụ không nhất thiết không còn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách tuyệt đối. Trên nguyên tắc, người thứ ba thực hiện nghĩa vụ thay thế người có quyền yêu cầu và trở thành người có quyền này đối với người thực sự có nghĩa vụ. Nếu người thứ ba thực hiện nghĩa vụ có ý định tặng cho đối với người thực sự có nghĩa vụ, thì việc tặng cho sẽ có tác dụng của một vụ bù trừ nghĩa vụ; còn nếu người thứ ba không có ý định đó, thì sẽ trở thành người thế quyền của người có quyền yêu cầu và người thực sự có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với người này. Người tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ. Người tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ, trên nguyên tắc, phải là người có quyền yêu cầu hoặc người đại diện của người này (người giám hộ, người được ủy quyền,...). Thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của người không có quyền, người có nghĩa vụ, vẫn còn nghĩa vụ, phải thực hiện nghĩa vụ
  3. (một lần nữa) đối với người có quyền yêu cầu và có quyền yêu cầu người tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ lần thứ nhất hoàn lại cho mình khoản lợi mà người sau này được hưởng do việc thực hiện nghĩa vụ đó. Người có quyền yêu cầu không nhất thiết là người đã tham gia vào việc xác lập quan hệ nghĩa vụ. Có người trở thành người có quyền yêu cầu do hiệu lực của việc di chuyển di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Có người trở thành người có quyền yêu cầu do được chuyển nhượng quyền yêu cầu, có hoặc không có đền bù. Quyền yêu cầu biểu kiến. Trong luật của Pháp, việc thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của một người không có quyền yêu cầu vẫn có thể có tác dụng giải phóng người có nghĩa vụ trong một số trường hợp mà người tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ là người có quyền yêu cầu biểu kiến. Một trong những ví dụ về quyền yêu cầu biểu kiến được xây dựng như sau: người có quyền yêu cầu chết; người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cho người thừa kế theo pháp luật của người chết; ít lâu sau, một người khác xuất trình một di chúc hữu hiệu do người chết để lại, theo đó, người thừa kế theo pháp luật đã bị truất quyền hưởng di sản. Tất nhiên, nếu không thực sự có quyền yêu cầu, người có quyền yêu cầu biểu kiến không thể thụ hưởng việc thực hiện nghĩa vụ; nhưng dẫu sao, người có nghĩa vụ vẫn được giải phóng; người có quyền yêu cầu biểu kiến, ở trong tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật đối với người thực sự có quyền yêu cầu và do đó phải hoàn trả cho người sau này những gì mình đã nhận nhầm. Có thể tin rằng giải pháp được chấp nhận trong luật của Pháp liên quan đến quyền yêu cầu biểu kiến cũng được thừa nhận trong luật Việt Nam, dù luật viết không có quy định gì liên quan. Tuy nhiên, các điều kiện áp dụng lý thuyết về quyền yêu cầu biểu kiến không được xác định rõ ràng trong khung cảnh của luật thực định. Điều chắc chắn: người có quyền yêu cầu biểu kiến phải ngay tình; còn những điều kiện khác… 2. Trường hợp có nhiều chủ thể của quan hệ nghĩa vụ a. Nghĩa vụ theo phần Mỗi người có một phần nghĩa vụ riêng rẽ. Nếu mỗi người có một phần nghĩa vụ nhất định và riêng rẽ với nhau, thì mỗi người chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình (BLDS Ðiều 303). Sau khi phần nghĩa vụ riêng rẽ được thực hiện xong, nghĩa vụ coi như chấm dứt đối với người thực hiện, dù những người khác có nghĩa vụ chưa thực hiện (thậm chí không thực hiện) phần nghĩa vụ của họ đối với người có quyền yêu cầu. Phân chia nghĩa vụ theo phần là quy tắc thuộc luật chung được áp dụng một cách đương nhiên trong trường hợp nhiều người có cùng một nghĩa vụ đối với một
  4. người, nếu không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác. Tuy nhiên, quy tắc này lại rất hiếm khi được áp dụng trong thực tiễn: nếu nghĩa vụ được xác lập theo ý chí, thì người có quyền yêu cầu thường không quên đòi hỏi việc thiết lập tình trạng liên đới giữa những người có nghĩa vụ; nếu nghĩa vụ được xác lập do hành vi trái pháp luật, thì luật đã quy định rõ về tình trạng liên can hoặc liên đới giữa những người có nghĩa vụ, như ta sẽ thấy sau đây. Ví dụ điển hình về loại nghĩa vụ phân chia được theo phần được ghi nhận trong trường hợp di sản được phân chia cho những người thừa kế: mỗi người thừa kế chịu trách nhiệm trả nợ di sản tương ứng với phần quyền của mình trong khối tài sản có thuộc di sản (BLDS Điều 640 khoản 3). b. Nghĩa vụ liên đới Những người có nghĩa vụ phải liên đới thực hiện nghĩa vụ. Khi có nhiều người cùng liên đới chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ (Ðiều 304 khoản 1). Ta nói rằng đối với người có quyền yêu cầu, thì giữa những người có nghĩa vụ liên đới không có sự phân chia nghĩa vụ. nguồn gốc của nghĩa vụ liên đới. Nghĩa vụ liên đới có thể được xác lập theo thoả thuận giữa các bên liên quan hoặc theo quy định của pháp luật, như đã nói ở trên. Thực ra, nghĩa vụ liên đới còn có thể phát sinh theo ý chí đơn phương, như trong trường hợp một người lập di chúc quyết định rằng những người thừa kế phải liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng một người nào đó. Người làm luật chủ động thiết lập tình trạng liên đới giữa những người có nghĩa vụ trong một số trường hợp đặc thù. Ý nghĩa của sự liên đới pháp định có thể rất khác nhau, tuỳ theo đặc điểm của căn cứ xác lập nghĩa vụ. Có trường hợp tình trạng liên đới được thiết lập theo luật như một cách mà người làm luật suy đoán ý chí đích thực của những người có nghĩa vụ. Ví dụ, khi nhiều người cùng bảo lãnh cho một người thực hiện một nghĩa vụ, thì giữa những người bảo lãnh có sự liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (BLDS Điều 369). Thông thường, sự suy đoán của người làm luật không mang tính áp đặt tuyệt đối: các bên có thể loại bỏ sự suy đoán về tình trạng liên đới bằng các thoả thuận ngược lại. Có trường hợp tình trạng liên đới được thiết lập theo luật như một biện pháp chế tài đối với những người cùng “chung sức” gây thiệt hại cho một người khác. Theo BLDS Điều 620, trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại, thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.
  5. Cơ sở hiện thực của tình trạng liên đới. Học thuyết pháp lý phương Tây nói rằng tình trạng liên đới giữa những người có nghĩa vụ được giải thích bằng nghĩa vụ đại diện của người có nghĩa vụ liên đới cho tất cả những người có nghĩa vụ liên đới. Gọi là “nghĩa vụ”, bởi vì người có nghĩa vụ liên đới không thể tuỳ ý từ bỏ vai trò đại diện của mình, như một người được uỷ quyền theo thoả thuận từ bỏ việc uỷ quyền. Do mỗi người có nghĩa vụ liên đới đại diện cho tất cả những người có nghĩa vụ mà tất cả các giao dịch tác động đến một người có nghĩa vụ hoặc do một người có nghĩa vụ xác lập sẽ phát sinh hiệu lực đối với tất cả những người có nghĩa vụ. Hiệu lực của tình trạng liên đới. Trong trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới, thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình (Ðiều 304 khoản 3). Nhắc lại rằng người có nghĩa vụ liên đới chỉ phải thực hiện “phần nghĩa vụ liên đới của mình” đối với người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ: giữa những người có nghĩa vụ liên đới, quan hệ nghĩa vụ lại mang tính chất theo phần riêng rẽ, mỗi người có nghĩa vụ liên đới chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình đối với người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Ta nói rằng người có nghĩa vụ liên đới có trách nhiệm đóng góp phần của mình vào việc thực hiện nghĩa vụ. Nhưng nếu một trong số những người có nghĩa vụ liên đới mất khả năng thanh toán, thì người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ mất khả năng thu nhận phần đóng góp thực hiện nghĩa vụ của người đó ? Nên nghĩ rằng trong trường hợp này, sự tổn thất phải được chia sẻ giữa những người có nghĩa vụ còn khả năng thanh toán (kể cả người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ), dù luật viết không có quy định rõ ràng ở điểm này. Trong trường hợp người có quyền đã chỉ định một trong số những người có nghĩa vụ liên đới thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, nhưng sau đó lại miễn cho người đó, thì những người còn lại cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ (Ðiều 304 khoản 4). Bãi bỏ tình trạng liên đới. Người có quyền có thể bãi bỏ tình trạng liên đới cho những người có nghĩa vụ liên đới. Khi đó, những người có cùng nghĩa vụ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ riêng rẽ và nếu, sau khi đã bãi bỏ tình trạng liên đới, người có quyền miễn cho một người có nghĩa vụ thực hiện phần nghĩa vụ của người sau này, thì những người còn lại vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ (đã được riêng rẽ hóa) của họ (Ðiều 304 khoản 5). c. Nghĩa vụ “liên can” nguồn gốc. Nghĩa vụ liên can (obligation “in solidum”) phát sinh trong khuôn khổ trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, từ việc nhiều người gây ra thiệt hại cho người khác. Tình trạng liên can hình thành trong điều kiện giữa những người cùng gây thiệt hại cho người khác không hề có sự đồng lòng (rõ ràng hoặc mặc nhiên) trong việc thực hiện hành vi gây thiệt hại: nếu những người cùng gây thiệt hại cùng hợp
  6. tác (với đầy đủ ý thức về việc mình làm) trong việc gây thiệt hại, thì nghĩa vụ mang tính chất liên đới. Ví dụ về tình trạng liên can có thể được hình dung như sau: một người lái xe ô tô trên đường một chiều quá tốc độ cho phép, do tránh một người đi môtô ngược chiều, lao thẳng lên lề đường và tông phải một người đi bộ; giữa người lái ôtô và người đi môtô rõ ràng không có sự thông đồng trong việc gây tai nạn; nhưng cả hai đều có trách nhiệm như nhau trong việc bồi thường thiệt hại cho người đi bộ. Luật hiện hành không có quy định riêng về nghĩa vụ liên can mà chỉ có quy định chung cho cả nghĩa vụ liên can và nghĩa vụ liên đới có nguồn gốc tư hành vi trái pháp luật, tại BLDS Điều 620. Nói cách khác, khi xác định trách nhiệm của những người cùng gây thiệt hại cho một người khác, người làm luật không phân biệt tùy theo có hay không có sự thông đồng giữa những người gây thiệt hại. Chế độ pháp lý. Cũng như người có nghĩa vụ liên đới, người có nghĩa vụ liên can phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại (Ðiều 620). Thế nhưng, khác với nghĩa vụ liên đới, nghĩa vụ liên can, trong mối quan hệ nội bộ giữa những người cùng liên can, được chia sẻ cho mỗi người có nghĩa vụ dựa theo mức độ lỗi của mỗi người (cùng điều luật); nếu không xác định được mức độ lỗi thì mỗi người có nghĩa vụ liên can bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau (cùng điều luật). Người có nghĩa vụ liên can, sau khi thực hiện xong toàn bộ nghĩa vụ có quyền yêu cầu những người khác có nghĩa vụ liên can thực hiện việc đóng góp cho mình phần nghĩa vụ mà những người này phải thực hiện. Nếu những người khác có nghĩa vụ liên can không tự giác thực hiện nghĩa vụ đóng góp, thì người thực hiện toàn bộ nghĩa vụ cũng có quyền yêu cầu cưỡng chế thực hiện, theo luật chung. Cơ sở hiện thực của nghĩa vụ liên can. Trong học thuyết pháp lý phương Tây, tình trạng liên can không được xây dựng trên cơ sở đại diện như tình trạng liên đới. Mỗi người liên can có nghĩa vụ của riêng mình đối với người có quyền yêu cầu; và chỉ do sự trùng hợp mà tất cả các nghĩa vụ của những người có liên can có cùng một đối tượng. Chính vì tất cả các nghĩa vụ liên can có cùng một đối tượng mà nếu một trong số những người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền yêu cầu, thì tất cả những người khác có nghĩa vụ liên can cũng được giải phóng. Tuy nhiên, cũng vì không có mối quan hệ đại diện giữa những người có nghĩa vụ liên can mà việc đốc thúc thực hiện nghĩa vụ đối với một người chỉ phát sinh hiệu lực đối với người đó; việc người có quyền yêu cầu từ chối thực hiện quyền yêu cầu đối với một người có nghĩa vụ liên can cũng chỉ phát sinh hiệu lực đối với người sau này. Bởi vậy, nghĩa vụ liên can còn được gọi là nghĩa vụ liên đới không hoàn hảo (obligation solidaire imparfaite). c. Nghĩa vụ chia được và nghĩa vụ không chia được
  7. Sự khác biệt giữa nghĩa vụ liên đới và nghĩa vụ không chia được. Trong nghĩa vụ liên đới, đối tượng của nghĩa vụ có thể được phân chia thành nhiều phần nghĩa vụ nhỏ, nếu người có quyền muốn; đơn giản, người có quyền có thể yêu cầu bất kỳ người có nghĩa vụ nào thực hiện toàn bộ nghĩa vụ cho mình. Trong nghĩa vụ không chia được (giả sử có nhiều người cùng có nghĩa vụ), thì mỗi người có phần nghĩa vụ của mình; nhưng đối tượng của nghĩa vụ lại không thể được chia: mỗi người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, không phải vì có sự liên đới giữa những người có nghĩa vụ, cũng không phải vì người này có trách nhiệm thực hiện toàn bộ, mà vì nghĩa vụ không thể được thực hiện theo phần (Ðiều 307 khoản 1). Giao một vật đặc định, không làm một việc là các ví dụ về nghĩa vụ không chia được theo phần. Nguồn gốc của nghĩa vụ không chia được theo phần. Nghĩa vụ không chia được theo phần thường có nguồn gốc từ tính chất không thể phân chia của đối tượng của nghĩa vụ. Một vật đặc định được đem cầm cố; người cầm cố chết và để lại hai người thừa kế theo pháp luật. Mỗi người thừa kế chỉ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tương ứng với phần quyền của mình trong khối di sản; tuy nhiên, nghĩa vụ tôn trọng quyền đối vật của chủ nợ nhận cầm cố là không thể phân chia: mỗi người thừa kế không chỉ có nghĩa vụ tôn trọng một nửa quyền đối vật đó mà phải tôn trọng toàn bộ quyền này. Nghĩa vụ không phân chia được theo phần cũng có thể có nguồn gốc từ sự thoả thuận giữa các bên trong quan hệ nghĩa vụ. Sự thoả thuận đó có thể rõ ràng hoặc mặc nhiên. Ví dụ về thoả thuận mặc nhiên nhằm thiết lập tình trạng không thể phân chia của nghĩa vụ có thể được xây dựng như sau: một người giao kết với hai nhà thầu - A và B - để xây dựng cho mình một căn nhà, trong đó, B phụ trách việc xây dựng phần mái nhà và A đảm nhận tất cả những công việc khác. Sự phân công giữa những người có nghĩa vụ là rõ ràng; nhưng nghĩa vụ chỉ được coi là hoàn thành một khi căn nhà được xây dựng hoàn chỉnh. II. Đối tượng của việc thực hiện nghĩa vụ Khái niệm. Ðối tượng của việc thực hiện nghĩa vụ là sự đáp ứng của người có nghĩa vụ đối với người có quyền. Ðể có thể nói rằng nghĩa vụ được thực hiện đúng và đầy đủ, thì sự đáp ứng phải phù hợp với tính chất và phạm vi của nghĩa vụ. a. Các quy tắc chung Tính chất của nghĩa vụ. Khi vật phải giao là vật đặc định, thì người có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó và đúng tình trạng như đã cam kết (Ðiều 294 khoản 2); nếu là vật cùng loại, thì phải giao đúng số lượng và chất lượng như đã thỏa thuận và nếu không có thỏa thuận về chất lượng, thì phải giao vật đó với chất lượng trung
  8. bình (cùng điều luật); nếu là vật đồng bộ, thì phải giao đồng bộ (cùng điều luật). Người có nghĩa vụ trả tiền phải trả đủ tiền (Ðiều 295 khoản 1). Người có nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc phải thực hiện đúng công việc hoặc không được thực hiện chính công việc không được làm, theo thỏa thuận (Ðiều 296). Người có nghĩa vụ không được phép tự mình thay đổi một nghĩa vụ bằng một nghĩa vụ có tính chất khác: người cam kết xây dựng một công trình, bán một tài sản không thể làm chấm dứt nghĩa vụ của mình bằng cách trả một số tiền. Trong trường hợp người có quyền đồng ý tiếp nhận một nghĩa vụ khác thay thế cho nghĩa vụ đã được xác lập, thì ta nói rằng nghĩa vụ được thực hiện đúng và đầy đủ bằng cách thực hiện nghĩa vụ thay thế. Phạm vi của nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ không được phép tự mình chia cắt nghĩa vụ thành nhiều phần để thực hiện, cho dù nghĩa vụ có thể được chia cắt. Theo BLDS Ðiều 306 khoản 2, nếu nghĩa vụ phân chia được theo phần, thì người có nghĩa vụ có thể thực hiện từng phần nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, điều đó chỉ có nghĩa rằng nếu việc phân chia nghĩa vụ thành nhiều phần để thực hiện không gây thiệt hại cho người có quyền, thì việc thực hiện nghĩa vụ theo phần mới có thể được luật chấp nhận trong trường hợp không có thỏa thuận khác. Một người có nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng cho một người khác phải trả tiền cấp dưỡng hàng tháng đầy đủ trong một lần, nếu không có thỏa thuận khác, chứ không thể chia nghĩa vụ thành 30 phần để thực hiện trong 30 ngày của tháng, dù rõ ràng, nghĩa vụ trả tiền có thể chia được. Tuy nhiên, nếu người có nghĩa vụ chết mà có để lại nhiều người thừa kế và không có người quản lý chính thức di sản, thì hẳn những người thừa kế đương nhiên có quyền chia các nghĩa vụ có thể chia được thành nhiều phần nghĩa vụ tương ứng với phần quyền hưởng di sản của mình để thực hiện. b. Một số trường hợp đặc thù Nghĩa vụ trả một số tiền. Nghĩa vụ trả một số tiền chỉ có thể được thực hiện một khi đối tượng của nghĩa vụ được xác định bằng một con số nhân với đơn vị tiền tệ được dùng làm phương tiện thanh toán. Theo BLDS Điều 295 khoản 2, tiền phải trả là Đồng Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Điều đó có nghĩa rằng nếu pháp luật không có quy định khác, thì số tiền phải trả theo luật Việt Nam được xác định bằng một con số nhân với Đồng Việt Nam. Trên nguyên tắc, số tiền phải trả là số tiền được ghi nhận ở thời điểm mà đối tượng của nghĩa vụ được xác định, đúng hơn nữa là ở thời điểm mà đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định. Thông thường, một khi số tiền phải trả được xác định đầy đủ (tức là bằng một con số nhân với đơn vị tiền tệ), thì người có nghĩa vụ chỉ phải trả đúng con số đó, không nhiều hơn. Tuy nhiên, có trường hợp ngoài số nợ gốc, người có nghĩa vụ còn phải trả một số tiền lãi. Mặt khác, trong điều kiện sức mua
  9. của đồng tiền không ổn định, các bên có thể thoả thuận (hoặc đối với nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, Toà án có thể quyết định) về việc quy số tiền phải trả thành một số lượng tài sản nào đó khác có giá trị ổn định (ví dụ vàng, đô la Mỹ). Trong trường hợp thứ hai này, số tiền phải trả có thể sẽ khác số tiền được xác định ở thời điểm xác định đối tượng của nghĩa vụ một khi, ở thời điểm thực hiện nghĩa vụ, giá của tài sản quy đổi có biến động. Nghĩa vụ trả tiền có thể được thực hiện bằng cách chuyển giao tiền mặt. Cũng theo BLDS Điều 295 khoản 2, thì tiền mặt được chuyển giao phải là tiền Đồng Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trên thực tế, có rất nhiều vụ mua bán tài sản có giá trị lớn mà nghĩa vụ trả tiền được thực hiện dưới hình thức chuyển giao một số vàng hoặc đá quý được quy thành tiền. Ngoài ra, trong điều kiện pháp luật về quản lý ngoại hối ở Việt Nam còn đang được hoàn thiện, rất nhiều trường hợp nghĩa vụ trả tiền được thực hiện dưới hình thức chuyển giao ngoại tệ mạnh bằng tiền mặt. Ở các nước có hệ thống ngân hàng mạnh, việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền thường được thực hiện thông qua các dịch vụ ngân hàng: chuyển khoản, ngân phiếu, thẻ thanh toán,… . Một số nước còn quy định bắt buộc trả tiền qua ngân hàng trong một số trường hợp giao dịch có liên quan đến các tài sản có giá trị lớn. Nghĩa vụ lựa chọn và nghĩa vụ tuỳ nghi. Trong quan hệ nghĩa vụ lựa chọn, người có nghĩa vụ có thể cân nhắc giữa những đối tượng khác nhau của nghĩa vụ và lựa chọn đối tượng thích hợp nhất: giao hiện vật hoặc giao tiền mặt; trả tiền bằng Đồng Việt Nam hoặc bằng ngoại tệ;… Việc cân nhắc, lựa chọn cũng có thể do người có quyền thực hiện, nếu giữa hai bên đã có sự thoả thuận về quyền lựa chọn của người này. Trong quan hệ nghĩa vụ tuỳ nghi, nghĩa vụ chỉ có một đối tượng duy nhất, được xác định hoặc xác định được trước; nhưng người có nghĩa vụ có thể chủ động thay đổi đối tượng. Cần lưu ý rằng trường hợp nghĩa vụ mang tính chất tuỳ nghi, thì quyền lựa chọn không thuộc về người có quyền yêu cầu. III. Hoàn cảnh thực hiện nghĩa vụ Thời điểm thực hiện nghĩa vụ. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ là thời điểm mà nghĩa vụ đến hạn thực hiện. Cần phân biệt giữa thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ với thời hạn thực hiện nghĩa vụ: nghĩa vụ đến hạn phải được thực hiện ngay; còn nghĩa vụ được thực hiện trong một thời hạn là nghĩa vụ có thể được coi là thực hiện đúng, một khi việc thực hiện xảy ra vào lúc kết thúc thời hạn đó. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ thường do các bên thỏa thuận, đôi khi có thể do pháp luật quy định (Ðiều 290 khoản 1). Ví dụ: nhà thầu cam kết xây dựng xong công trình trong 9 tháng; hết tháng thứ 9, nghĩa vụ (bàn giao công trình) mới được coi là đến hạn
  10. thực hiện. Một khi nghĩa vụ có thời hạn thực hiện, thì người có quyền không thể yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ trước khi đến hạn: chủ công trình không có quyền yêu cầu nhà thầu tăng nhanh tiến độ xây dựng để kịp bàn giao công trình đúng thời hạn; người có nghĩa vụ, về phần mình, chỉ có thể thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn nếu có sự đồng ý của người có quyền (Ðiều 290 khoản 2); nếu người có nghĩa vụ đã tự ý thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn và người có quyền đã chấp nhận việc thực hiện nghĩa vụ, thì nghĩa vụ được xem như đã hoàn thành đúng thời hạn (cùng điều luật). Trên nguyên tắc, nghĩa vụ phải được thực hiện ngay lập tức, nghĩa là có thể được yêu cầu thực hiện ngay lập tức, nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn và pháp luật không có quy định về thời hạn (Ðiều 290 khoản 3). “Ngay lập tức” hiểu theo nghĩa rằng nghĩa vụ có thể được thực hiện hoặc được yêu cầu thực hiện bất kỳ lúc nào, nhưng người thực hiện hoặc người yêu cầu thực hiện phải thông báo cho bên kia biết trước trong thời gian hợp lý (cùng điều luật). Nghĩa vụ phải được thực hiện và tiếp nhận thực hiện ở thời điểm thích hợp. Vi phạm các quy định về thời điểm thực hiện hoặc tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ, người vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự (Ðiều 313 và 314). Có trường hợp thời điểm thực hiện nghĩa vụ đã được ấn định (thực hiện ngay lập tức hoặc sau một thời hạn), nhưng người có nghĩa vụ lại không thể thực hiện ở thời điểm đó. Luật nói rằng trong trường hợp này người có nghĩa vụ phải thông báo cho người có quyền biết (Ðiều 292); người có nghĩa vụ được hoãn thực hiện nghĩa vụ, nếu được người có quyền đồng ý; người có quyền cũng có thể chủ động gia hạn thực hiện nghĩa vụ (Ðiều 313 khoản 1). Nghĩa vụ được hoãn hoặc được gia hạn thực hiện vẫn là nghĩa vụ đã đến hạn; bởi vậy, nếu người có quyền lại có một nghĩa vụ cùng tính chất đối với người có nghĩa vụ và nghĩa vụ này cũng đến hạn trong thời gian nghĩa vụ kia được hoãn hoặc được gia hạn, thì giữa hai người phải có sự bù trừ nghĩa vụ. Ðịa điểm thực hiện nghĩa vụ. Ðịa điểm thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận (Ðiều 289 khoản 1). Thông thường, đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, địa điểm thực hiện nghĩa vụ do các bên ấn định như một phần nội dung của hợp đồng. Nếu nghĩa vụ xác lập ngoài hợp đồng và có nội dung được ghi nhận trong một bản án, thì bản án sẽ xác định nơi thực hiện nghĩa vụ (thường là tại nơi cư trú của người có quyền). Trong trường hợp không có thỏa thuận về địa điểm thực hiện nghĩa vụ, thì địa điểm này được xác định như sau (Ðiều 289 khoản 2): nơi có bất động sản, nếu đối tượng của nghĩa vụ là bất động sản; nơi cư trú hoặc trụ sở của người có quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là bất động sản. Thực ra, các nghĩa vụ không làm một việc, do đặc điểm của nghĩa vụ, chỉ có thể được thực hiện tại nơi cư trú của người có nghĩa vụ. Có lẽ, khi nói đến các nghĩa vụ có đối
  11. tượng không phải là một bất động sản, người làm luật liên tưởng đến các nghĩa vụ có đối tượng là việc chuyển giao một động sản (một vật hoặc một số tiền). IV. Bằng chứng của việc thực hiện nghĩa vụ Trách nhiệm chứng minh. Luật hiện hành không có quy định liên quan đến trách nhiệm chứng minh việc thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, có thể thừa nhận, trong logique của sự việc, rằng trong trường hợp có tranh cãi về việc nghĩa vụ đã hay chưa được thực hiện, thì chính người có nghĩa vụ mà cho rằng mình đã thực hiện nghĩa vụ, phải chứng minh điều đó. Để hỗ trợ người có nghĩa vụ trong việc chứng minh, luật của Pháp nói rằng nếu người có quyền yêu cầu đã giao lại cho người có nghĩa vụ chứng từ ghi nhận việc xác lập nghĩa vụ, thì người có nghĩa vụ sẽ được suy đoán là đã thực hiện xong nghĩa vụ và trách nhiệm chứng minh điều ngược lại, khi đó, thuộc về người có quyền yêu cầu. Phương tiện chứng minh. Luật hiện hành cũng không có quy định về các phương tiện chứng minh việc thực hiện nghĩa vụ. Bởi vậy, tất cả các phương tiện chứng minh được thừa nhận trong luật chung đều có thể được sử dụng (văn bản, người làm chứng, lời thú nhận,...). Thông thường, khi chuyển giao một số tiền mặt, người chuyển giao thường yêu cầu người nhận cấp cho mình một biên nhận; thực tiễn xét xử có xu hướng chấp nhận biện nhận như là bằng chứng thuyết phục về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Mục II. Bắt buộc thực hiện nghĩa vụ TOP Sự khác biệt giữa nghĩa vụ và bổn phận. Nghĩa vụ, với tư cách là một khái niệm của luật dân sự, được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của bộ máy Nhà nước. Tư tưởng chủ đạo là: người có quyền phải được đáp ứng đúng và đầy đủ, bằng cách này hay cách khác và dưới hình thức này hay hình thức khác. Chính ở điểm này mà nghĩa vụ khác với bổn phận. Vợ, chồng có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau và nếu vợ hoặc chồng vi phạm nghĩa vụ, thì người còn có quyền yêu cầu sự can thiệp của Nhà nước; trong khi đó, vợ, chồng có bổn phận chung thủy với nhau, nhưng nếu vơ hoặc chồng không chung thủy, thì Nhà nước không thể làm gì để bảo vệ người còn lại. I. Các biện pháp bảo đảm khả năng thanh toán
  12. 1. Quyền khởi kiện chéo Tổng quan. Có trường hợp người có nghĩa vụ có các quyền về tài sản, nhưng lại không muốn thực hiện các quyền ấy, bởi vì người này biết rằng nếu mình có làm gì đi nữa, thì các lợi ích tài sản được tạo ra cũng sẽ phải được dùng để thực hiện các nghĩa vụ đối với những người có quyền yêu cầu của mình. Thái độ xử sự tiêu cực của người có nghĩa vụ có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng thực hiện nghĩa vụ của người này một khi nghĩa vụ đến hạn. Để ngăn ngừa ảnh hưởng đó, luật cho phép người có quyền yêu cầu thay người có nghĩa vụ để thực hiện các quyền của người sau này. Quyền kiện để yêu cầu Toà án cho phép thay thế người có nghĩa vụ trong việc thực hiện các quyền của người này được gọi là quyền khởi kiện chéo. Gọi là “chéo”, bởi người trực tiếp thực hiện quyền không phải là người trực tiếp có quyền mà chỉ là người có quyền của người đó. Luật Việt Nam hiện hành không có quy định chung về quyền khởi kiện chéo mà chỉ có các quy định cụ thể áp dụng cho một số trường hợp đặc thù mà người có quyền yêu cầu được phép thay người có nghĩa vụ thực hiện một hoặc một số quyền nhất định của người sau này. Theo Ðiều 238 khoản 2, khi có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung (theo phần) thực hiện nghĩa vụ thanh toán, thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Có thể rút ra từ điều luật đó các quy tắc liên quan đến điều kiện thực hiện quyền khởi kiện chéo của người có quyền yêu cầu và hiệu lực của việc thực hiện quyền này, những quy tắc có thể được áp dụng cho các trường hợp khác theo nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật. Điều kiện. Trong trường hợp nêu trên, người có nghĩa vụ không thực hiện một hành vi cần thiết nhằm củng cố khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người có quyền (yêu cầu chia tài sản mà mình có quyền sở hữu chung theo phần). Về phần mình, người có quyền có lợi ích trong việc bảo vệ quyền của mình khi can thiệp vào công việc của người có nghĩa vụ. Ðiều đó cũng có nghĩa rằng nếu người có nghĩa vụ đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền không được phép can thiệp vào những công việc đó: sẽ rất vô lý việc chủ nợ phản đối người mắc nợ từ chối yêu cầu chia ngay một khối tài sản chung trong khi người mắc nợ hoàn toàn đủ sức trả nợ bằng tài sản sẵn có, thậm chí sẵn sàng để được kê biên. Mặt khác, có thể thấy rằng quyền yêu cầu chia tài sản chung là một quyền bình thường, có thể chuyển giao cho người khác cùng với việc chuyển nhượng phần quyền của đương sự trong khối tài sản chung. Trong một giả thiết khác, ta có một người mắc nợ có quyền yêu cầu cấp dưỡng đối với một người khác, nhưng lại không chịu thực hiện quyền đó; khó có thể hình dung được rằng chủ nợ của người
  13. này có thể được pháp luật thừa nhận có quyền thay người này thực hiện quyền yêu cầu cấp dưỡng đó. Quyền của người có nghĩa vụ phải là quyền mà việc thực hiện có tác dụng bảo toàn hoặc củng cố khối tài sản có của người có nghĩa vụ. Người có quyền yêu cầu của một người cho thuê nhà không thể thay người có nghĩa vụ để lựa chọn giữa buộc người thuê nhà trả tiền thuê và trục xuất người thuê ra khỏi nhà thuê. Điều chắc chắn: người có quyền không thể yêu cầu cho phép mình thay thế người có nghĩa vụ để thực hiện các giao dịch mang tính vật chất thuần tuý mà người sau này có quyền thực hiện. Ví dụ, chủ nợ không có quyền yêu cầu cho phép mình thay thế người mắc nợ để tiến hành tu bổ căn nhà của người sau này hoặc chăm sóc vườn cây của người sau này, với lý do: nếu nhà không được tu bổ, cây trồng không được chăm sóc thì sẽ người mắc nợ sẽ không có tài sản nào có giá trị đủ để bảo đảm việc trả nợ. Cần nhấn mạnh rằng người có quyền chỉ có thể yêu cầu cho phép mình thực hiện các quyền của người có nghĩa vụ chứ không phải các quyền của mình. Bởi vậy, người có quyền không thể được ưu đãi hơn người có nghĩa vụ khi thực hiện các quyền đó. Giả sử khối tài sản chung chưa thể được phân chia do trước đây có thoả thuận giữa các chủ sở hữu chung về việc duy trì tình trạng sở hữu chung theo phần trong một thời hạn, thì người có quyền yêu cầu chỉ có quyền thay người có nghĩa vụ của mình để yêu cầu phân chia tài sản chung khi hết thời hạn đó. Cuối cùng, người có quyền yêu cầu chỉ được phép yêu cầu cho phép mình thay người có nghĩa vụ thực hiện quyền của người sau này trong trường hợp người sau này không chịu thực hiện quyền của mình. Nếu người có nghĩa vụ tự mình thực hiện quyền của mình, thì không có lý do gì để người có quyền thay thế người này trong việc thực hiện quyền đó. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người có nghĩa vụ thực hiện quyền của mình một cách tuỳ tiện, thậm chí với ý thức làm suy giảm năng lực thanh toán của mình. Trong trường hợp đó, người có quyền yêu cầu có thể thực hiện một biện pháp khác để bảo vệ quyền lợi của mình, như sẽ được phân tích dưới đây. Riêng đối với người có quyền yêu cầu, có vẻ như người làm luật muốn rằng quyền yêu cầu của người này phải đến hạn thực hiện: người có quyền yêu cầu sẽ tham gia vào việc phân chia để “nhận tiền thanh toán”, nghĩa là để được trả nợ. Người chỉ có các quyền yêu cầu có điều kiện hoặc các quyền yêu cầu chưa đến hạn thực hiện không có quyền khởi kiện chéo. Hiệu lực. Một khi được thừa nhận có quyền thay người có nghĩa vụ để thực hiện các quyền của người sau này, thì người có quyền sẽ đứng vào vị trí của người có nghĩa vụ để thực hiện các quyền của người sau này. Chủ nợ của một chủ sở hữu
  14. chung, khi yêu cầu phân chia tài sản chung, được quyền tham dự vào việc phân chia. Cần lưu ý rằng quyền khởi kiện được thừa nhận cho người có quyền trong những trường hợp trên chỉ có tác dụng vô hiệu hóa hành vi của người có nghĩa vụ chứ không đem lại cho người có quyền bất kỳ một quyền ưu tiên nào đối với tài sản sẽ được đưa vào sản nghiệp của người có nghĩa vụ sau khi hành vi của người có nghĩa vụ bị vô hiệu hóa: phần tài sản được chia sẻ thuộc về khối tài sản thuộc sở hữu của người mắc nợ và được dùng để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ của người này theo luật chung. Chính là theo nghĩa đó mà ta hiểu cụm từ “nhận tiền thanh toán” được ghi nhận tại khoản 2 Ðiều 238 BLDS. Có thể hình dung: chủ nợ A tham gia vào việc phân chia tài sản chung của người mắc nợ; chia xong, một số tài sản rơi vào khối sản nghiệp của người mắc nợ và ngay lập tức các chủ nợ khác ập đến yêu cầu được phép thực hiện quyền đòi nợ của mình trên các tài sản ấy. Chủ nợ A trong trường hợp này phải chấp nhận chia sẻ cơ may thu hồi nợ với các chủ nợ khác. 2. Quyền kiện yêu cầu vô hiệu hoá một giao dịch gian lận Tổng quan. Trên nguyên tắc, người có nghĩa vụ là chủ sở hữu các tài sản của mình và có quyền định đoạt các tài sản ấy, có hoặc không có đền bù; chủ nợ, dù có thể lo lắng về hậu quả của những giao dịch đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ của người mắc nợ, không có quyền can thiệp vào công việc quản lý sản nghiệp của người sau này. Tuy nhiên, có trường hợp người có nghĩa vụ xác lập một giao dịch liên quan đến tài sản thực sự với ý định là suy giảm, thậm chí làm mất tính hiện thực của khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Nếu đúng là như vậy, thì luật cho phép người có quyền yêu cầu lên tiếng nhằm ngăn chặn sự gian lận của người có nghĩa vụ đối với mình. Nếu sự lên tiếng đó có hiệu quả, giao dịch do người có nghĩa vụ xác lập sẽ bị thủ tiêu. Cũng giống như đối với quyền khởi kiện chéo, luật Việt Nam hiện hành không có những quy định tổng quát nhất về quyền kiện yêu cầu vô hiệu cục bộ một giao dịch gian lận mà chỉ có các quy tắc đặc thù áp dụng cho những trường hợp đặc thù được luật dự kiến. - Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều , trong những trường hợp được pháp luật dự kiến, vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, tuy nhiên, việc chia tài sản chung nhằm mục đích trốn tránh các nghĩa vụ không được pháp luật công nhận.
  15. - Theo BLDS Điều 645 khoản 1, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Có thể dùng phương pháp phân tích quy nạp để làm rõ các điều kiện của việc thủ tiêu một giao dịch gian lận trong trường hợp tổng quát. Điều kiện. Cả trong hai giả thiết được ghi nhận ở trên, nghĩa vụ mà người xác lập giao dịch muốn trốn tránh hẳn phải là nghĩa vụ tồn tại trước thời điểm xác lập giao dịch. Trên nguyên tắc, người sắp trở thành chủ nợ không thể nói rằng người mắc nợ đã xác lập giao dịch vào hôm trước đó để trốn tránh việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản sẽ được giao kết vào ngày hôm sau. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng một người, biết trước rằng sự phát sinh của một nghĩa vụ tài sản nào đó là chắc chắn. Nếu đúng là giao dịch được xác lập nhằm lẫn tránh một nghĩa vụ chắc chắn sẽ được xác lập trong tương lai, thì, một cách hợp lý, người sẽ chắc chắn có quyền cũng được thụ hưởng biện pháp kiện yêucầu vô hiệu giao dịch gian lận này. Cũng trong cả hai giả thiết đó, người có nghĩa vụ xác lập giao dịch (phân chia tài sản chung hoặc từ chối nhận di sản) đều được thúc gịuc bởi mong muốn làm suy giảm giá trị của khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền trở nên khó thực hiện, thậm chí không thực hiện được. Hiệu lực. Theo Nghị định số 70-CP ngày 03/10/2001 Điều 11, việc chia tài sản chung nhằm trốn tránh các nghĩa vụ tài sản bị vô hiệu. Đối với trường hợp từ chối nhận di sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản của bản thân, luật lại không có quy định cụ thể về hình thức chế tài; song, có thể tin rằng người làm luật cũng muốn vô hiệu hoá giao dịch này để trả người giao dịch trở lại tình trạng ban đầu. Vấn đề đặt ra là phạm vi các chủ thể chịu sự tác động của sự vô hiệu trong các trường hợp này rộng đến đâu ? Hỏi cách khác: sự vô hiệu này có hiệu lực đối với ai ? Tất cả mọi người hay chỉ đối với người bị kiện và người đi kiện ? Thoạt nghĩ, người ta có thể cho rằng đặt vấn đề như thế là không hợp lý, bởi sự vô hiệu của một giao dịch, một khi được Toà án phán xử, phải có hiệu lực đối với tất cả mọi người. Tuy nhiên, trên thực tế, có những giao dịch liên quan đến những tài sản có giá trị lớn trong khi món nợ phải trả lại có giá trị rất nhỏ. Giả sử người có nghĩa vụ thực sự vừa muốn tẩu tán tài sản, vừa muốn trút bỏ hoặc tránh nhận lấy gánh nặng của việc quản lý một khối tài sản lớn, thì việc thừa nhận hiệu lực “bình thường” của sự vô hiệu có thể không phải là giải pháp tốt nhất. Một người từ chối nhận một di sản lớn; một chủ nợ nhỏ phản đối; việc từ chối bị vô hiệu hoá; di sản được trao cho người mắc nợ; một phần nhỏ di sản được dùng để trả món nợ; một phần lớn thuộc về người mắc nợ, dù người này không muốn nhận lãnh.
  16. Trong luật của nhiều nước, sự vô hiệu trong trường hợp này chỉ có hiệu lực trong quan hệ giữa người mắc nợ và chủ nợ có yêu cầu; giao dịch vẫn có giá trị đối với tất cả mọi người khác. Người ta sự vô hiệu đó là sự vô hiệu cục bộ (nullìté limìtée) hay sự không đối kháng (inopposabilité). Bảo đảm nghĩa vụ của doanh nghiệp bị phá sản. Một khi doanh nghiệp ở ngưỡng của sự phá sản, thì, trong một vài trường hợp, người điều hành doanh nghiệp có thể nghĩ đền việc làm thế nào để các tài sản của doanh nghiệp thoát khỏi sự kê biên theo yêu cầu của các chủ nợ. Luật chủ động dự liệu những biện pháp cần thiết để đối phó những những thủ đoạn này. Cụ thể, nếu doanh nghiệp chính thức lâm vào tình trạng phá sản và cần tiến hành tổ chức thanh toán các nghĩa vụ của doanh nghiệp, thì Chấp hành viên có quyền đề nghị tòa án ra quyết định thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản của doanh nghiệp hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp, nếu trong 6 tháng trước ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp đã có những vi phạm sau đây (Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993, Ðiều 45 khoản 1): a - Tẩu tán tài sản của doanh nghiệp dưới mọi hình thức; b - Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn; c - Từ bỏ quyền đòi nợ đối với các khoản nợ; d - Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm; đ - Bán các tài sản của doanh nghiệp thấp hơn thực giá. Thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản hoặc phần chênh lệch giá trị tài sản có nghĩa rằng giao dịch liên quan phải bị tuyên bố vô hiệu. II. Các biện pháp hữu hiệu hóa việc thanh toán Trên nguyên tắc, nếu người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền yêu cầu có thể, trong khuôn khổ pháp luật, làm thế nào đó để buộc người này phải thực hiện. Nguyên tắc có vẻ đơn giản và dễ áp dụng, nhưng sự việc trên thực tế lại khá rắc rối. Nghĩa vụ liên quan đến nhân thân của người có nghĩa vụ. Nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc, nói chung, không thể được cưỡng chế thực hiện bằng cách buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện: không thể dùng bạo lực (dù là bạo lực có tổ chức của Nhà nước) để buộc nhà thầu phải thi công, họa sĩ phải vẽ, ca sĩ phải hát, thương nhận không được cạnh tranh bất chính,...
  17. Nếu nghĩa vụ có thể được thực hiện mà không cần động đến thân thể của người có nghĩa vụ, thì, trong trường hợp người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện, người có quyền có thể tự mình thực hiện. Ví dụ, khi người có nghĩa vụ không làm một công việc mà lại làm công việc đó, thì người có quyền được yêu cầu người có nghĩa vụ phải chấm dứt việc làm đó, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại (BLDS Điều 312 khoản 2). Người xây dựng vi phạm các quy tắc về xây dựng gây thiệt hại cho người láng, thì có nghĩa vụ phá dỡ phần xây dựng có liên quan; nếu người này không tự giác phá dỡ, thì người láng giềng có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phá dỡ (áp dụng khoản 2 Ðiều 312). Nếu nghĩa vụ chỉ có thể được thực hiện với sự tham gia của người có nghĩa vụ, thì, trong trường hợp người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện, người có quyền có thể tự mình thực hiện hoặc yêu cầu người khác thực hiện thay ngừoi có nghĩa vụ và yêu cầu người có nghĩa vụ hoàn trả chi phí (Ðiều 312 khoản 1). Khi đó, nghĩa vụ làm một việc chuyển thành nghĩa vụ trả tiền. Trong luật của Pháp, nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc còn có thể bị cưỡng chế thực hiện bằng cách phạt vạ (astreinte): cứ mỗi một ngày vi phạm nghĩa vụ, người vi phạm phải trả một số tiền phạt. Việc tiền phạt chồng chất theo thời gian có thể khiến người có nghĩa vụ, đến một lúc nào đó, cảm thấy “ngán ngẩm” và chấp nhận thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, biện pháp phạt vạ không thể kéo dài vô thời hạn: đến một lúc nào đó, nếu nhận thấy người vi phạm vẫn “kiên trì” chịu bị phạt chứ không chịu thực hiện nghĩa vụ, thì Toà án phải chuyển biện pháp phạt vạ thành biện pháp bồi thường thiệt hại để chấm dứt mối quan hệ không suôn sẻ giữa các bên. Khi đó, nghĩa vụ làm một việc cũng trở thành nghĩa vụ trả tiền. Nghĩa vụ chuyển một quyền đối với tài sản. Nghĩa vụ chuyển một quyền đối với tài sản, nếu không được người có nghĩa vụ tự giác thực hiện, thì có thể được có quyền tự mình thực hiện hoặc yêu cầu người khác thực hiện. Cụ thể, - Nếu tài sản là một vật đặc định, thì người có quyền có thể yêu cầu xác nhận việc chuyển quyền bằng một bản án hoặc tự mình tiến hành thủ tục chuyển quyền bằng cách đăng ký (đối với những quyền cần phải đăng ký), sau đó, yêu cầu cưỡng chế việc giao tài sản cho mình trong khuôn khổ thủ tục kiện đòi lại tài sản hoặc kiện đòi chấm dứt cản trở đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu; - Nếu tài sản là vật cùng loại, thì người có quyền có thể yêu cầu người khác chuyển quyền và giao tài sản cùng loại cho mình.
  18. Trong trường hợp việc thực hiện nghĩa vụ bằng hiện vật là không thể được, đặc biệt là do vật không còn, thì nghĩa vụ chuyển một quyền đối với một tài sản được chuyển thành nghĩa vụ bồi thường tiệt hại, tức là nghĩa vụ trả một số tiền. Nghĩa vụ trả một số tiền. Nghĩa vụ trả tiền (bao gồm cả nghĩa vụ bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc cưỡng chế thực hiện các nghĩa vụ làm, không làm một việc hoặc chuyển quyền đối với tài sản) được cưỡng chế thực hiện bằng cách kê biên và bán các tài sản của người có nghĩa vụ để thanh toán nghĩa vụ. Việc kê biên được thực hiện theo các quy định chung về tố tụng dân sự. Tài sản kê biên được bán dưới hình thức đấu giá công khai và số tiền bán, sau khi trừ chi phí bảo quản, bán đấu giá, được dùng để thanh toán nghĩa vụ cho người có quyền. Bất kỳ nghĩa vụ tài sản nào mà có thể được thực hiện dưới hình thức trả một số tiền, đều được bảo đảm thực hiện bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người có nghĩa vụ. Với biện pháp bảo đảm này, trong trường hợp người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền có thể yêu cầu kê biên bất kỳ tài sản nào được phép kê biên của người có nghĩa vụ và yêu cầu bán đấu giá tài sản đó để thu nợ. Cũng chính vì bất kỳ chủ nợ nào cũng có quyền đối với bất kỳ tài sản nào (kê biên được) của người mắc nợ mà, suy cho cùng, không có chủ nợ nào được ưu tiên trả nợ. Nếu tất cả các món nợ đều đến hạn, thì theo luật chung, người mắc nợ sẽ trả nợ cho chủ nợ nào đến trước. Nếu các chủ nợ đến cùng một lúc và khối tài sản có của người mắc nợ không đủ để trả tất cả các món nợ, thì các món nợ được trả theo tỷ lệ. Cá biệt, một số chủ nợ có bảo đảm đối vật, như chủ nợ nhận cầm cố hoặc nhận thế chấp, có quyền ưu tiên nhận tiền thanh toán so với các chủ nợ khác, từ tiền bán tài sản được dùng làm vật bảo đảm. Giả sử sau khi đã dùng hết số tiền bán vật bảo đảm để trả nợ mà nợ vẫn chưa dứt, thì chủ nợ có bảo đảm trở thành chủ nợ thường và có quyền đối với các tài sản khác của người mắc nợ, như bao nhiêu chủ nợ thường khác. Trong trường hợp người có nghĩa vụ chết và di sản được đặt dưới sự quản lý chính thức, thì việc trả nợ được tổ chức thực hiện theo các quy định về trả nợ di sản được quản lý chính thức, tại BLDS Điều 686. Trong trường hợp người có nghĩa vụ là doanh nghiệp ở trong tình trạng phá sản, thì việc xác định thừ tự ưu tiên trả nợ được thực hiện theo Luật phá sản doanh nghiệp. Chương II TOP
  19. Lưu thông nghĩa vụ Các nghĩa vụ có tính chất tài sản mà không gắn liền với nhân thân của người có quyền hoặc của người có nghĩa vụ có thể được thực hiện hoặc được tiếp nhận bởi một người không phải là người có nghĩa vụ đầu tiên hay người có quyền đầu tiên. Luật cho phép, trong những trường hợp đặc thù, người có nghĩa vụ hoặc người có quyền yêu cầu có thể được thay đổi. I. Thay đổi người có quyền yêu cầu 1. Chuyển giao quyền yêu cầu Ðịnh nghĩa. Chuyển giao quyền yêu cầu là việc người có quyền yêu cầu một người khác thực hiện nghĩa vụ chuyển giao quyền yêu cầu đó cho một người thứ ba (gọi là người thế quyền), do hiệu lực của một thỏa thuận giữa người có quyền và người thứ ba đó: một loại hợp đồng mua bán hoặc tặng cho có đối tượng là một quyền yêu cầu. Bằng việc chuyển giao quyền yêu cầu, người có quyền rút ra khỏi quan hệ nghĩa vụ; người được chuyển nhượng trở thành người có quyền yêu cầu; còn tình trạng nghĩa vụ của người có nghĩa vụ không thay đổi. Quyên yêu cầu được chuyển giao có thể đã đến hạn hoặc chưa đến hạn, thậm chí có thể là quyền yêu cầu có điều kiện. a. Điều kiện Đối tượng. Tất cả các quyền yêu cầu đều có thể được chuyển giao , trừ những quyền yêu cầu sau đây (Ðiều 315 khoản 1): - Quyền yêu cầu gắn liền với nhân thân của người có quyền, kể cả yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín; - Quyền mà các bên xác lập có thỏa thuận không được chuyển giao cho người khác (trừ trường hợp chuyển giao bằng con đường thừa kế); - Những quyền yêu cầu khác mà pháp luật quy định không được chuyển. Thực ra, ngoài BLDS, pháp luật hiện hành lại chưa quy định rõ ràng về những quyền yêu cầu không thể được chuyển giao. Tuy nhiên, có nhìn nhận, theo đạo lý, tính chất không thể chuyển nhượng (trừ trường hợp được chuyển giao bằng con đường thừa kế) của một số quyền tài sản: quyền yêu cầu được bồi thường chiến tranh,
  20. Thủ tục. Việc chuyển giao quyền yêu cầu có thể được giao kết bằng văn bản hoặc bằng miệng (Ðiều 316). Trong trường hợp pháp luật có quy định việc chuyển giao quyền yêu cầu phải được thể hiện bằng văn bản, có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền hoặc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, thì phải tuân theo các quy định đó (cùng điều luật). b. Hiệu lực của việc chuyển giao quyền yêu cầu. Việc chuyển giao quyền yêu cầu có tác dụng thay đổi người có quyền yêu cầu; còn bản thân quyền yêu cầu vẫn tồn tại với đầy đủ các đặc điểm về nội dung. Ðặc biệt, nếu quyền yêu cầu được bảo đảm thực hiện (bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp, bảo lãnh), thì người thế quyền cũng được hưởng các biện pháp đó (Ðiều 319). Người chuyển giao phải bảo đảm về sự tồn tại của tài sản hay, đúng hơn, của các quyền đối với tài sản (đối với quyền yêu cầu mà mình chuyển giao); nhưng người chuyển giao không có trách nhiệm bảo đảm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Ðiều 318). Thông báo cho người có nghĩa vụ. Người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo cho người có nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu (Ðiều 315 khoản 2). Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (cùng điều luật). Thực ra, nếu người chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo cho người có nghĩa vụ, thì việc chuyển giao quyền yêu cầu được giao kết đúng luật vẫn có giá trị và vẫn phát sinh hiệu lực giữa hai bên giao kết; nhưng người có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ cho người thế quyền chừng nào còn chưa được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu (Ðiều 320 khoản 1). Riêng trong trường hợp việc chuyển giao quyền yêu cầu được thể hiện bằng văn bản, nếu người thế quyền không xuất trình được văn bản chuyển giao quyền, thì người có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ (cùng điều luật). Ðiều đó có nghĩa rằng nếu người thế quyền xuất trình được văn bản chuyển giao quyền yêu cầu, thì người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn, dù không được người có quyền yêu cầu thông báo bằng văn bản. Theo khoản 2 Ðiều 320, trong trường hợp người có nghĩa vụ không được báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu mà đã thực hiện nghiîa vụ đối với người chuyển giao quyền, thì người thế quyền không được yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với mình (Ðiều 320 khoản 2). Hẳn điều luật này chỉ áp dụng đối với việc chuyển giao quyền yêu cầu được giao kết bằng miệng: ta đã biết rằng nếu việc chuyển giao quyền yêu cầu được giao kết bằng văn bản, thì người thế quyền có xuất trình văn bản cho người có nghĩa vụ để hữu hiệu hóa việc chuyển giao quyền mà không cần để thủ tục thông báo của người chuyển giao quyền. Nếu
nguon tai.lieu . vn