Xem mẫu

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7

Chảy chất xám tại chỗ trong bối cảnh cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0: Một số vấn đề đặt ra*
Đào Thanh Trường*
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, 336 Nguyễn Trãi, , Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 28 tháng 9 năm 2018, Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 3 năm 2018

Tóm tắt: Chảy chất xám không còn là câu chuyện của ri ng quốc gia nào, nó đã trở thành một vấn
đề chung của thế giới. Câu chuyện của chảy chất xám với thuật ngữ “brain drain” được sử dụng
bắt đầu từ năm 1963, khi Hiệp hội hoàng gia Anh thấy sự suy giảm chất xám của các nhà khoa
học từ Anh sang Mỹ, gây nguy hiểm cho nền kinh tế của Anh. Sau đó, thuật ngữ này được sử
dụng rộng rãi để mô tả sự di chuyển của các chuy n gia, nhà khoa học từ các nước th ba [1].
Hay như ở Nga, chảy chất xám còn được gọi th m bằng các t n khác nhau như: đánh cắp
chất xám (brain theft) hay câu chất xám (brain bait). Thực chất đây không phải là vấn đề
mới, đặc biệt vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18 khi Peter Đại đế thực hiện chính sách thu
hút các chuy n gia có tài năng làm việc tại Nga. Vào đầu thế kỷ 20, trong cuốn “Tư bản và
Công nhân”, V.I. Lenin đã đưa ra kết luận rằng “Nga ngày càng bị bùi lại phía sau, đưa
cho ngoại quốc những người làm việc tốt nhất, trong khi Mỹ ngày càng tiến nhanh hơn, thu
hút những phần dân số năng động và tài năng nhất của thế giới”[2]. Mặc dù được viết năm
1913 nhưng đến nay lời nhận định đó vẫn còn có giá trị.
Đó là những câu chuyện của những thế kỷ trước, bây giờ thế giới đã đổi khác rất nhiều, cả
tr n chiều cạnh lý luận và thực tiễn. Bài viết của tác giả sẽ so sánh quan điểm về chảy chất
xám, xem xét các biểu hiện của chảy chất xám trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 và đưa ra
những vấn đề về chảy chất xám tại chỗ ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: chảy chất xám, cách mạng công nghiệp 4.0, di động xã hội

trong những thập kỷ qua. Cháy máu chất xám
được xem là một trong những nguy n nhân gia
tăng khoảng cách giữa các quốc gia phát triển
và đang phát triển. Các quốc gia phát triển thu
hút được chất xám càng có nhiều cơ hội phát
triển hơn. Ngược lại, các quốc gia đang phát
triến bị cháy máu chất xám có nhiều nguy cơ
chậm phát triển. Chảy chất xám có thể dẫn đến
sự suy giảm trường kỳ của thu nhảp và tăng
trưởng tại quốc gia di cư (chất xám ra đi) trong
tương quan với quốc gia tiếp nhận (chất xám đến).

1. Quan điểm về chảy chất xám: truyền
thống và 4.0
1.1. Chảy chất xám theo quan điểm truyền
thống
Cháy máu chất xám (drain brain) là một nỗi
ám ảnh lớn với nhiều quốc gia đang phát triển

_______


ĐT.: 84-913016429.
Email: truongkhql@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4155

1

2

Đ.T. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7

Hiểu theo nghĩa đầy đủ, “chảy chất xám” là
hiện tượng nhân lực chất lượng cao ra nước
ngoài học tập, tu nghiệp, sinh cơ lập nghiệp tại
nước đó, họ cống hiến kiến th c, tài năng họ có
được cho quốc gia mà họ đến. Cùng với tự do
thương mại, xóa bỏ ranh giới, sự “di cư chất
xám” giữa các nước đã trở thành một hiện
tượng mang tính khách quan của thời đại. Dưới
cách tiếp cận của kinh tế học thì sự phân phối
này là hợp lý vì nó tuân theo “quy luật cung cầu” của thị trường lao động. Nói cách khác,
chất xám sẽ chuyển dịch đến nơi mà hiệu năng
sử dụng nó cao nhất. Nó giống với câu nói mà
ông cha ta vẫn thường nói “nước chảy chỗ trũng”.
Hiện tượng chảy chất xám được mô tả dưới
hai hình th c: Th nhất, những cá nhân được
đào tạo trong nước nhưng di cư ra nước ngoài
làm việc để có m c lương hay cơ hội nghề
nghiệp tốt hơn. Hình th c này còn được gọi là
lãng phí chất xám vì quốc gia gốc mất nguồn
lực đầu tư vào đào tạo nhưng không được sử
dụng [3]; Th hai, những cá nhân đi học tập,
tu nghiệp ở nước ngoài rồi ở lại sinh sống, làm
việc. Theo Từ điển Britannica, chảy chất xám
được định nghĩa: "Việc di cư của những cá
nhân được đào tạo tại một quốc gia đến một
quốc gia khác làm việc vì lý do m c lương và
điều ki n sống tốt hơn”. Kazlauskiene và
Rinkevieius (2006) cho rằng, nguy n do của
việc di cư là sự ch nh lệch về m c lương giữa
các quốc gia [4]. Cơ hội phát triển tốt hơn cũng
là một lý do di cư của nhân lực có kỹ năng.
Chảy máu chát xám ám chỉ dòng chảy tri th c
diễn ra một chiều từ quốc gia gốc đến quốc gia
tiếp nhận [5]. Chất xám bao gồm kiến th c, kỹ
năng về nhân cách. Trong định nghĩa của Salt,
chất xám là một dạng tài sản quốc gia. Bàn về
chảy chất xám tr n toàn cầu, Li n hợp quốc sử
dụng định nghĩa của Oberoi (2006) xem chảy
chất xám là “Sự di cư một chiều của nhân lực
có kỹ năng từ quốc gia đang phát triển đến quốc
gia phát triển qua đó gia tăng lợi ích cho quốc
gia tiếp nhận (quốc gia phát triển)”.
1.2. Chảy chất xám theo quan niệm 4.0
Ngoài những quan điểm thông thường về
chảy chất xám gắn liền với hiện tượng di cư,

trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách
mạng thông tin, chảy chất xám còn được biến
thi n th m dưới dạng chảy chất xám tại chỗ
(chảy chất xám không kèm di cư).
Dưới tác động của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 thì loại hình chảy chất xám tại chỗ
càng đem lại nhiều tác động đa chiều hơn.
Cùng với đó, xu hướng hội nhập quốc tế và
sự phát triển của công nghệ thông tin khiến
nguồn nhân lực KH&CN không tránh khỏi
dòng chảy này, đặc biệt là nguồn nhân lực
KH&CN chất lượng cao. Nhưng hiện tượng
này không được biểu hiện một cách rõ ràng
và không dễ để nhận biết. Theo quy luật
“cung-cầu” của thị trường lao động, chất xám
luôn có nhu cầu và mong muốn được dịch
chuyển đến những nơi mà lợi ích được tối đa
hóa. Giống như các hiện tượng khác, chảy
chất xám tại chỗ cũng có tác động tích cực và
ti u cực theo các chiều cạnh và quan điểm
khác nhau. Dưới khía cạnh các tác động
dương tính, có thể thấy hiện tượng chảy chất
xám tại chỗ sẽ tạo ra một sự thăng bằng về
mặt lực lượng nhân lực khoa học, bù đắp
được sự thiếu hụt nhân lực khoa học trong
những năm gần đây trong các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong quá
trình tiến hành nghiên c u nội dung này, tác
giả đã có nhiều cơ hội được quan sát và ghi
chép cũng như có các c liệu để nhận thấy
sự thiếu hụt về nhân lực khoa học đặc biệt là
nhân lực khoa học có trình độ, chất lượng
cao hiện nay. Có những ngành nghề, những
lĩnh vực chuyên môn chỉ có một hay một
số chuyên gia, nhưng nhu cầu thực tế về
giảng dạy, nghiên c u cũng như tiến hành các
công việc có liên quan đến lĩnh vực chuyên
môn là rất lớn. Do vậy, hiện tượng làm thêm,
tham gia cộng tác với các cơ quan ngoài tổ
ch c, chảy chất xám tại chỗ diễn ra như một
tất yếu của dòng chảy chất xám để bù đắp tự
nhiên vào các “lỗ hổng chất xám” đang còn
thiếu hụt trong lực lượng lao động. Việc tận
dụng chất xám này làm tăng cường hiệu suất
chất xám và hiệu suất làm việc của quốc
gia/thế giới nói chung. Hoặc mặt khác, việc
di động không kèm di cư có thể làm tăng

Đ.T. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7

cường năng lực chuy n môn khoa học của cá
nhân, làm chặt chẽ th m về mối li n kết hợp
tác giữa các đơn vị, khu vực, giữa các quốc
gia. Đây cũng có thể là cánh cổng mở ra cơ
hội cho nhân lực KH&CN có th m tri th c
khoa học, cơ hội học hỏi, li n kết, có th m
thu nhập hoặc được thỏa mãn đam m về
khoa học. Về mặt ti u cực, hiện tượng này
ảnh hưởng đến chất lượng công việc tại đơn
vị của nhân lực KH&CN và làm giảm đi tính
hiệu quả của chính sách quản lý nhân lực
KH&CN tại cơ quan/quốc gia đó. Chưa kể,
về lâu dài, hiện tượng này sẽ gây ra nhiều tác
động về tâm lý hoặc sẽ chuyển sang loại hình
di động xã hội kèm di cư nếu tổ ch c không
có những chính sách đúng đắn, kịp thời.
2. Biểu hiện của hiện tượng chảy chất xám

Biểu hiện th nhất: Những trí th c có
khả năng, có năng lực, được đào tạo bài bản,
đang công tác tại các cơ quan đầu não nhà nước
chuyển ra làm việc cho các công ty ngoài quốc
doanh, công ty 100% vốn nước ngoài. Tình
hình này xảy ra phổ biến trong những năm
1990.
Biểu hiện th hai: Hiện tượng một số
cán bộ đang công tác tại các vụ, viện, trung tâm
nghi n c u, các cơ quan nhà nước nhưng lại
làm bán thời gian cho các tổ ch c, các công ty
nước ngoài cũng có thể được coi là chảy chất
xám.
Biểu hiện th ba: Chảy chất xám diễn ra
ở các đối tượng sinh vi n cao đẳng đại học và
học sinh trung học chuy n nghiệp. Nhiều sinh
vi n tốt nghiệp loại ưu không chấp nhận ở lại
trường, hoặc về công tác tại các vụ, viện, trung
tâm nghi n c u. Nhiều học sinh trung học
chuy n nghiệp có tay nghề cao sau khi ra
trường cũng có hiện tượng tương tự.

Biểu hiện th tư: Một số trí th c công
tác tại các cơ quan khoa học đầu não được cử đi
học tập hoặc công tác ở nước ngoài, nhưng sau
đó lại ở lại nước đó làm việc theo đúng chuy n
môn đã được đào tạo.

Biểu hiện th

3

năm: Vấn đề suy giảm

chất xám hay mất dần chất xám cũng được coi
là chảy chất xám. Hiện trạng suy giảm chất xám
được thể hiện ở chỗ: một số người được đào tạo
bài bản ở nước ngoài nhưng lại bỏ nghề và làm
việc không theo đúng chuy n môn. Mặt khác
suy giảm chất xám trong nước cũng xảy ra khá
phổ biến. Nhiều sinh vi n sau khi tốt nghiệp chỉ
muốn công tác tại các đô thị lớn, vì vậy buộc họ
phải làm các công việc khác không đúng
chuyên môn.
3. Yếu tố tác động đến hiện tượng chảy
chất xám tại chỗ
Sự tiến bộ của công nghệ thông tin: Đầu
ti n, sự gia tăng máy móc thông minh sẽ khiến
nhiều công nhân có nguy cơ mất việc. Điều này
sẽ ảnh hưởng đến cả những người ở m c kỹ
năng cao hơn, như kiểm toán, kỹ thuật vi n si u
âm, nghi n c u vi n... các dạng công việc mà
máy tính có thể cạnh tranh. Kỹ thuật công nghệ
sẽ giúp bác sĩ hay giáo sư làm việc năng suất
hơn và khiến những người khác trở n n thừa
thãi. Th hai, nhờ kỹ thuật số, các doanh nghiệp
có thể biến ý tưởng thành các thương hiệu đem
lại giá trị lợi nhuận khổng lồ chỉ với ít nhân
công. Cách mạng kỹ thuật số đã khiến cách
mạng công nghiệp không còn kinh tế nữa.
Toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa là một thuật
ngữ xuất hiện trong những thập kỷ cuối của thế
kỷ 20. Đây là một xu thế quan trọng tác động
rất lớn đến tư tưởng và chính sách của các tổ
ch c trong thế kỷ 21. Theo tổ ch c Hợp tác
phát triển kinh tế (OEDC): “…toàn cầu hóa là
quá trình diễn ra do sự thay đổi về công nghệ,
tăng trưởng dài hạn li n tục về đầu tư nước
ngoài và nguồn lực quốc tế, và sự hình thành
tr n phạm vi rộng lớn với quy mô toàn cầu với
hình th c mới về các mối li n kết quốc tế giữa
các công ty và các quốc gia và thay đổi bản
chất của cạnh tranh toàn cầu…”. Dưới góc độ
khoa học quản lý có thể hiểu toàn cầu hóa là
quá trình hình thành hệ thống các quan hệ li n
kết giữa các tổ ch c trong nhiều lĩnh vực tr n
phạm vi toàn cầu.

4

Đ.T. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7

Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng gia tăng. Đây vừa là quá
trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu
tranh giữa các nước để bảo vệ lợi ích quốc
gia. Để tồn tại và phát triển trong môi trường
cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những y u cầu
về tăng năng suất lao động, thường xuy n đổi
mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới
công nghệ, đổi mới phương th c tổ ch c quản
lý, đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt,
trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, các thành
tựu to lớn của công nghệ thông tin - truyền
thông, xu hướng phổ cập Internet, phát triển
thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, ngân
hàng điện tử, Chính phủ điện tử, v.v... đang tạo
ra các luồng di chuyển nhân lực.
Quá trình toàn cầu hoá làm tăng ch nh lệch
thu nhập giữa các quốc gia. M c ch nh lệch
ngày càng tăng về trình độ phát triển giữa các
quốc gia, dẫn tới sự phát triển không đồng đều
về kinh tế xã hội. Quá trình toàn cầu hóa và
những chính sách di cư chọn lựa ngày càng tạo
điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển lao động
có chuy n môn cao quốc tế. Trong mỗi quốc
gia, tri th c giáo dục vẫn được coi là yếu tố
quyết định đến việc di chuyển lao động. Lao
động càng có trình độ chuy n môn cao càng có
xu hướng di cư nhiều. Trình độ giáo dục chính
là nhân tố thúc đẩy tốc độ di chuyển lao động.
Giáo dục cũng làm tăng khả năng di chuyển lao
động ra nước ngoài. Toàn cầu hóa được thể
hiện mạnh trong những năm 1990, đó là cuộc
cách mạng công nghệ thông tin và sự li n kết
kinh tế của thị trường sản phẩm (toàn cầu hóa
các công ty ngày càng tăng).
4. Một số vấn đề đặt ra đối với hiện tượng
chảy chất xám tại chỗ ở Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam
đã và đang từng bước tạo cho mình những cơ
hội hợp tác phát triển với việc tham gia vào các
sân chơi chung của khu vực cũng như của thế
giới như WTO, TPP, AEC,… Việc tham gia các
cộng đồng chung này đem lại nhiều lợi ích,
nhiều phương hướng, chiến lược cho việc phát

triển nguồn nhân lực KH&CN nhưng cũng đem
lại những mối đe dọa li n quan đến chảy chất
xám cho Việt Nam. Và Việt Nam cần xác định
rằng việc chảy chất xám là một điều hiển nhi n
cần phải chấp nhận trong bối cảnh hội nhập
quốc tế này. Nếu không có những định hướng
chính sách kịp thời và đúng đắn, Việt Nam sẽ
rơi vào “bẫy” thiếu hụt nguồn nhân lực
KH&CN chất lượng cao trong một tương lai
không xa ngay cả khi Việt Nam có đủ “số
lượng” nhân tài nhưng “chất lượng” lại được
tận dụng ở nơi khác.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã
ban hành một số văn bản li n quan đến chính
sách thu hút nhân tài, nhân lực chất lượng cao
trong lĩnh vực khoa học và công nghệ như sau:
Nghị định 87/2014/NĐ-CP quy định về thu hút
cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ
(KH&CN) là người Việt Nam ở nước ngoài và
chuy n gia nước ngoài tham gia hoạt động
KH&CN tại Việt Nam; Nghị định 40/2014/NĐCP quy định về việc sử dụng, trong dụng cá
nhân hoạt động KH&CN; và hiện đang dự thảo
Nghị định về chính sách thu hút, tạo nguồn cán
bộ từ sinh vi n tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa
học trẻ. Ngoài ra, còn có Quyết định
322/2000/QĐ-TTg

Quyết
định
356/2005/QĐ-TTg; đề án 165 của Đảng (Thông
báo số 165-TB/TW của BCT năm 2008). Đề án
Đào tạo giảng vi n có trình độ tiến sĩ cho các
trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020
của Thủ tướng Chính phủ (10.000 Tiến sỹ ở
nước ngoài). Trước đó là Quyết định chuyển
các viện nghi n c u chuy n ngành về các doanh
nghiệp của Thủ thướng Chính phủ. Các trường
đại học cũng đã đưa ra các chính sách phát triển
nguồn nhân lực trình độ cao. Các tổ ch c xã hội
đã tham gia đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao
như Fullbright (Mỹ), DAAD (Đ c),...Các tỉnh
cũng ban hành các chính sách thu hút nhân tài
về địa phương làm việc. Mới đây, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 87/2014/NĐ-CP quy định
về thu hút cá nhân hoạt động KH&CN là người
Việt Nam ở nước ngoài và chuy n gia nước
ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Việt
Nam; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định 2395/2015/QĐ-TTg ph duyệt đề án đào

Đ.T. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghi n c u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số 3 (2018) 1-7

tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN ở trong nước
và ngoài nước,…
Tuy nhi n, trong thực tế, các chính sách
tr n chưa phát huy được tác dụng hoặc thiếu
hụt, bất cập dẫn đến đội ngũ cán bộ khoa học ở
nước ta còn ít về số lượng và hạn chế về năng
lực, chưa đáp ng được y u cầu của sự phát
triển đất nước. Việc phân bố nhân lực và cơ cấu
trình độ chưa hợp lý theo vùng, miền và lĩnh
vực hoạt động. Tình trạng hẫng hụt đội ngũ
chưa được khắc phục, thiếu nhân lực khoa học
trẻ. Thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các “kỹ sư
trưởng”, "tổng công trình sư", đặc biệt là thiếu
cán bộ KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao.
Chưa sử dụng và thu hút được trí tuệ của lực
lượng trí th c, chuy n gia khoa học Việt Nam ở
nước ngoài. Phần lớn nhân lực khoa học và
công nghệ hiện đang tập trung làm việc ở khu
vực nhà nước, trong khu vực tư nhân và doanh
nghiệp còn rất thấp. Tinh thần hợp tác nghi n
c u và kỹ năng làm việc nhóm của cán bộ khoa
học và công nghệ còn chưa cao, khó hình thành
được các nhóm nghi n c u mạnh li n ngành.
Thiếu sự hợp tác giữa các nhà khoa học đ ng
đầu các nhóm nghi n c u. Số lượng các nhà
khoa học đầu ngành, có trình độ chuy n môn
cao và hiện đang tham gia các hoạt động nghi n
c u khoa học mang tính chuy n nghiệp là rất ít
và ngày càng suy giảm. Trong khi đó, các cán
bộ khoa học trẻ lại không được tạo động lực để
phấn đấu theo đuổi và gắn bó với sự nghiệp
khoa học lâu dài. Số lượng cán bộ KH&CN
đông, số tổ ch c KH&CN nhiều, nhưng không
có các tập thể khoa học mạnh, các tổ ch c
KH&CN đạt trình độ quốc tế.
Nhận diện một số vấn đề chính sách:
- “Di dộng xã hội” là một đặc điểm tất yếu
của nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, dẫn
đế tình trạng chảy máu chất xám ngày càng trở
n n nghi m trọng. Từ đánh giá tác động của các
chính sách cho thấy: (1) thiếu các chính sách
điều kiện hỗ trợ, đảm bảo môi trường làm việc
và phát huy năng lực (để giữ chân nhân lực tài
năng hay thu hút được nhân lực tài năng tới làm
việc); (2) thiếu chính sách về “tạo luồng di
động” nhân lực KH&CN chất lượng cao phát

5

triển các ngành, lĩnh vực ưu ti n. Sự thiếu hụt
chính sách nhóm (1) có thể dẫn tới việc “tạo
luồng di động” song không nhân lực đã di động
không trở về tổ ch c/quốc gia nguồn.
- Vai trò của các trường đại học và các viện
nghi n c u: cần bổ sung th m các chính sách
tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho nhân
lực khoa học, tạo môi trường trao đổi học thuật
để thu hút các chuy n gia nước ngoài tới học
tập, làm việc, nghi n c u – gắn với mục tiêu
“chuyển giao tri th c” giữa chuy n gia với nhân
lực khoa học chất lượng cao tại chỗ. B n cạnh
đó, cần chú ý tới chính sách “trao đổi chuy n
gia”, mời các chuy n gia Việt Nam đang công
tác tại nước ngoài về tư vấn, xây dựng các
nhóm nghi n c u mạnh, các trung tâm nghiên
c u xuất sắc để giúp tạo môi trường học thuật
chuy n nghiệp, tiếp cận và phát triển các ý
tưởng nghi n c u.
- Trong bối cảnh hội nhập quốc tế về khoa
học và công nghệ và những tác động mạnh mẽ
của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, nhân lực
KH&CN chất lượng cao có th m nhiều cơ hội
di động xã hội, thông qua việc di động trực tiếp
hoặc gián tiếp qua các công cụ kỹ thuật số.
Cuộc cạnh tranh về nguồn nhân lực ngày càng
trở n n gay gắt, đòi hỏi các quốc gia đang phát
triển phải đối mặt với tình trạng chảy chất xám.
Quá trình đào tạo trong nước chưa đủ đáp ng
nhu cầu nâng cao trình độ quốc tế hóa, chuẩn
hóa nguồn nhân lực, kèm theo quá trình di động
xã hội không kèm tái đầu tư chất xám của các
nhóm nhân lực khoa học và công nghệ chất
lượng cao đang đặt Việt Nam trước thách th c
thay đổi.
Triết lý của các chính sách hiện nay chính
là đánh giá chất lượng nguồn nhân lực khoa học
và công nghệ chất lượng cao thông qua lực
lượng lao động tại chỗ. Các biện pháp quản lý
hành chính với di động xã hội đối với nguồn
nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao
làm gia tăng rào cản tâm lý, sự ng phó của lực
lượng lao động này với các hoạt động quản lý
của tổ ch c. Trong bối cảnh Cuộc Cách mạng
Công nghiệp 4.01, các tổ ch c ảo (vitual
organizations) trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ ngày càng trở n n phổ biến. Đối với loại

nguon tai.lieu . vn