Xem mẫu

  1. NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI CẦN XÁC ĐỊNH CHÍNH XÁC NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐẶC THÙ CỦA NGƯỜI THỪA KẾ BẮT BUỘC TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ Trần Thị Thu Hằng1 Tóm tắt: Theo quy định của pháp luật, nếu người lập di chúc không chia phần thừa kế hoặc chia ít hơn hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật cho người thừa kế bắt buộc, thì những người thừa kế đó có quyền yêu cầu hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật của họ. Đó là điều kiện đặc thù đối với những người thừa kế bắt buộc. Tuy nhiên, do một số hạn chế trong việc xác định các điều kiện này nên việc giải quyết tranh chấp vẫn chưa thống nhất và hiệu quả. Vì vậy, cần sửa đổi quy định pháp luật và có hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo tính thống nhất khi thi hành quy định pháp luật này trong thực tiễn. Từ khóa: Điều kiện đặc thù, người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc. Nhận bài: 21/9/2020; Hoàn thành biên tập: 25/9/2020; Duyệt đăng: 23/10/2020. Abstract: It is stipulated that the heirs independent from contents of testaments shall still be entitled to an estate portion which is equyvalent to two-thirds of the portion given to an heir at law, if the estate is divided according to law, in cases where they are not allowed by the testator to enjoy the estate or are allowed to enjoy only a portion less than two-thirds of their due part. This is typical feature for the heirsindependent from contents of testaments. However, due to some limitations in defining this condition, the task of settling disputes has not been consistent and effective. Therefore, it is necessary to amend legal regulations and specific instructions to ensure consistency in enforcement of legal regulations in reality. Keywords: Typical features, heirs independent from contents of testaments. Date of receipt: 21/9/2020; Date of revision: 25/9/2020; Date of Approval: 23/10/2020. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 644 Bộ luật kế theo pháp luật. Cách xác định điều kiện đặc thù dân sự (BLDS) năm 2015: trong trường hợp cha, để xác định người thừa kế được hưởng hay không mẹ; vợ (chồng); con chưa thành niên và con đã được hưởng thừa kế không phụ thuộc nội dung di thành niên mà không có khả năng lao động nếu chúc trên thực tế còn có những sai lầm bởi nhiều “không được người lập di chúc cho hưởng di nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc phân chia di sản”(người lập di chúc truất quyền thừa kế hoặc sản sai sót, nhầm lẫn thậm chí trái luật làm ảnh không nhắc tên được hưởng di sản trong di chúc) hưởng đến quyền lợi của người thừa kế. hoặc người lập di chúc “chỉ cho hưởng phần di sản Trong bài viết này, chúng tôi bàn luận về cách ít hơn hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật”, chia thừa kế trong tình huống khi “người vợ hai thì sẽ được hưởng đủ hai phần ba suất thừa kế theo hợp pháp” ở trong hoàn cảnh không được người lập pháp luật, trừ khi họ là người từ chối nhận di sản di chúc cho hưởng di sản nhưng được hưởng thừa theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người kế theo pháp luật ít hơn hai phần ba một suất thừa không có quyền hưởng di sản theo quy định tại kế theo pháp luật. Theo một số quan điểm thì Khoản 1 Điều 621 của BLDS năm 2015. Cách tính “người vợ hai hợp pháp” được hưởng thừa kế hai phần ba một suất thừa kế đã được quy định theo không phụ thuộc nội dung di chúc ở điều kiện công thức: tổng di sản chia cho tổng số người thừa “không được người lập di chúc cho hưởng di sản”. kế hợp pháp sau đó nhân với hai phần ba. Do vậy, người này vừa được hưởng hai phần ba Như vậy, ngoài điều kiện chung là không từ một suất thừa kế theo pháp luật vừa được hưởng chối hưởng di sản thừa kế; không bị mất quyền thừa thừa kế theo pháp luật sau khi chia di sản thừa kế kế theo pháp luật và phải còn sống tại thời điểm mở cho người thừa kế theo di chúc. thừa kế thì những người thừa kế trên còn phải tuân 1. Tình tiết vụ án thủ điều kiện đặc thù là không được hưởng di sản Ông A và bà B kết hôn năm 1950 sinh được 3 hoặc tuy được hưởng di sản nhưng giá trị của phần con là chị C (sinh năm 1951), anh D (sinh năm di sản thực tế ít hơn hai phần ba của một suất thừa 1953) và chị E (sinh năm 1955). Năm 1959 do mâu 1 Thạc sỹ, Giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật công nghiệp.
  2. Soá 10/2020 - Naêm thöù möôøi laêm thuẫn gia đình ông A đến chung sống với bà G như 2 = 200.000.000 đồng. Vậy di sản của ông A để lại vợ chồng sinh được chị M (sinh năm 1960) và anh là: 100.000.000 đồng + 200.000.000 đồng = N (sinh năm 1970). 300.000.000 đồng. Khoản chi phí mai táng Năm 1975, chị C kết hôn với anh K sinh được 10.00.000 đồng được trừ vào di sản của ông A T và Q, nhưng chị C lại chết ngay sau khi sinh Q (Khoản 1 Điều 658 BLDS năm 2015). Vậy di sản được 3 tháng. của ông A là: 300.000.000 đồng - 10.000.000 đồng Năm 1995, ông A chết để lại di chúc cho anh N = 290.000.000 đồng. 1/2 (một nửa) tài sản, đồng thời truất quyền thừa - Theo di chúc, ông A truất quyền thừa kế của bà kế của bà B. Anh D rất bất bình với nội dung bản B, không cho bà G hưởng thừa kế theo di chúc di chúc của ông A nên sau khi lo tang cho cha hết nhưng theo quy định tại Điều 644 BLDS năm 2015 10.000.000 đồng đã làm đơn yêu cầu toà án chia bà B và bà G là người thừa kế không phụ thuộc nội thừa kế tài sản của ông A. Toà án xác định được tài dung di chúc, mỗi người được hưởng hai phần ba sản như sau: một suất thừa kế theo pháp luật, tức là: 290.000.000 - Tài sản của ông A và bà B là 200.000.000 đồng. đồng: 7 x 2/3 = 27.619.047 đồng. Vậy bà B được - Tài sản của ông A với bà G là 400.000.000 đồng. hưởng thừa kế là: 27.619.047 đồng; bà G được Theo tình huống trên, nhận thấy ông A đã có hưởng thừa kế là: 27.619.047 đồng. vợ là bà B nhưng sau đó lại chung sống với bà G - Cũng theo di chúc ông A để lại cho anh N 1/2 như vợ chồng cho đến thời điểm ông A chết. Theo tài sản, tức là 290.000.000 đồng: 2 = 145.000.000 thông tư số 690 - DS ngày 29 tháng 04 năm 1960 đồng. hướng dẫn xử lý ly hôn và các vấn đề có liên quan Như vậy, phần di sản của ông A còn lại là: đến việc ly hôn vì chế độ đa thê. Nhằm từng bước 290.000.000 đồng - 145.000.000 + (27.619.047 x xóa bỏ những tàn dư như vậy của chế độ cũ, pháp 2) = 89.761.906 đồng. Phần tài sản này được chia luật nhà nước ta đã xác định giới hạn đình chỉ thừa kế theo pháp luật (điểm a, khoản 2 Điều 650 những quan hệ hôn nhân trái với pháp luật hiện BLDS năm 2015), tuy nhiên trong tình huống này hành, đó là: Những người có nhiều vợ trước ngày bà B là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của ban hành Luật hôn nhân gia đình năm 1959, do Sắc ông A nhưng đã bị ông A truất quyền thừa kế nên lệnh số 02-SL ngày 13 tháng 01 năm 1960 của Chủ không được hưởng thừa kế theo pháp luật (khoản 3 tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thì không điều 651 BLDS năm 2015). Vậy di sản còn lại của đặt vấn đề vi phạm pháp luật. Quan hệ hôn nhân ông A được chia như sau: 89.761.906 đồng : 6 = bà của vợ chồng xác lập trước ngày 13 tháng 01 năm G = T và Q – thừa kế thế vị C = D = E = M = N = 1960 tuy có vi phạm chế độ 1 vợ 1 chồng nhưng 14.960.317 đồng. vẫn tồn tại và được coi là không trái pháp luật. 2. Quan điểm và bình luận Theo quy định trên, mối quan hệ giữa ông A và bà Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 644 BLDS năm G được công nhận quan hệ vợ chồng nên phát sinh 2015 quy định: “Những người sau đây vẫn được quan hệ thừa kế giữa ông A và bà G (tức là khi ông hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một A chết thì cả bà B và bà G đều được hưởng thừa kế người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo quy định của pháp luật). theo pháp luật, trong trường hợp họ không được Trong tình huống trên, trước hết phải xác định người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho được di sản thừa kế của ông A. Mối quan hệ hôn hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: nhân giữa ông A với bà B và bà G được pháp luật a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; công nhận nên tài sản của ông A và bà B, bà G là b) Con thành niên mà không có khả năng lao tài sản chung hợp nhất. Nhưng không có căn cứ xác động…” định được công sức đóng góp của ông A, bà B và Hiện tại, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên bà G trong các khối tài sản đó nên phần quyền tài thực tiễn vẫn tồn tại các quan điểm khác nhau về sản của họ trong khối tài sản chung là ngang nhau. vấn đề người lập di chúc “…chỉ cho hưởng ít hơn Vì vậy, phần tài sản của ông A trong khối tài sản hai phần ba suất đó…”. Có quan điểm cho rằng: chung với bà B là: 200.000.000 đồng: 2 = người lập di chúc có cho các đối tượng trên được 100.000.000 đồng. Phần tài sản của ông A trong hưởng thừa kế, nhưng phần mà họ được hưởng khối tài sản chung với bà G là: 400.000.000 đồng: theo di chúc ít hơn hai phần ba của một suất thừa kế
  3. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP theo pháp luật, thì sẽ được hưởng đủ hai phần ba sản, có người thừa kế không có quyền hưởng di sản một suất theo pháp luật. Còn đa số các quan điểm hoặc từ chối hưởng di sản, thậm chí người để lại di thì hiểu rằng: trong mọi trường hợp di chúc hợp sản “quên” không định đoạt phần di sản nào đó thì pháp, các đối tượng được hưởng thừa kế không phụ rõ ràng người được hưởng thừa kế theo pháp luật thuộc nội dung di chúc dù được hưởng thừa kế theo không do ý chí của người để lại di sản. Do vậy, quy di chúc hay theo pháp luật mà di sản thực tế họ định “chỉ cho hưởng…” ở điều luật này thể hiện được hưởng ít hơn hai phần ba một suất thừa kế sự thiếu chặt chẽ, dễ gây hiểu sai khi áp dụng giải theo pháp luật thì sẽ được hưởng đủ hai phần ba quyết tình huống thực tiễn. một suất theo pháp luật. Một vấn đề nữa, xét về câu chữ thì cụm từ Cách hiểu thứ nhất chỉ đúng trong trường hợp “không được người lập di chúc cho hưởng di sản người lập di chúc định đoạt toàn bộ tài sản trong di hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba chúc, các đối tượng hưởng thừa kế bắt buộc có được suất đó” được hiểu là sự thể hiện ý chí của người hưởng di sản nhưng ít hơn hai phần ba một suất theo lập di chúc trong việc không cho hoặc chỉ cho pháp luật. Nếu người lập di chúc chỉ định đoạt một người thừa kế hưởng ít hơn hai phần ba một suất phần tài sản, phần còn lại được chia thừa kế theo thừa kế theo pháp luật. Còn trường hợp người lập pháp luật sẽ xảy ra trường hợp người thừa kế bắt di chúc không định đoạt hết tài sản, phần còn lại buộc đồng thời là người thừa kế theo pháp luật, cho chia thừa kế theo pháp luật (theo diện và hàng thừa nên ngoài số di sản được hưởng theo di chúc họ còn kế) lại là sự thể hiện ý chí của nhà nước. Chính được hưởng thừa kế theo pháp luật. Lúc đó, có thể cách hiểu và vận dụng quy định pháp luật như vậy người lập di chúc cho họ hưởng ít hơn hai phần ba đã dẫn đến sai lầm trong giải quyết tình huống ở một suất theo pháp luật trong di chúc nhưng di sản trên: thực tế họ được hưởng theo di chúc và theo pháp Sai lầm thứ nhất, vì cho rằng bà G không được luật lại nhiều hơn hai phần ba một suất thừa kế theo ông A cho hưởng di sản trong di chúc là việc thể pháp luật. Do vậy, họ không thể là người thừa kế hiện ý chí của ông A không cho bà G hưởng thừa kế, không phụ thuộc nội dung di chúc. Ví dụ: Ông A và còn thực tế bà G được hưởng thừa kế theo pháp luật bà B kết hôn năm 1986, có hai con chung là C (sinh (ít hơn hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật) năm 1987) và D (sinh năm 1990). Năm 2004, ông là sự thể hiện ý chí của nhà nước, không thể hiện ý A chết để lại di chúc cho cô Y thư ký riêng chí của ông A “chỉ cho” bà G hưởng ít hơn hai phần 100.000.000 đồng, cho hai con C và D mỗi người ba một suất thừa kế theo pháp luật. Cho nên, bà G 200.000.000 đồng. Di sản của ông A là được hưởng thừa kế không phụ thuộc nội dung di 2.000.000.000 đồng. Ở tình huống này, mặc dù ông chúc ở điều kiện “không được người lập di chúc cho A không cho bà B hưởng di sản, chỉ cho hai con C hưởng di sản” chứ không phải ở điều kiện người và D hưởng thừa kế theo di chúc ít hơn hai phần ba lập di chúc “chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai một suất thừa kế theo pháp luật nhưng họ không phần ba suất thừa kế theo pháp luật”. Do vậy, bà G phải là đối tượng được hưởng thừa kế không phụ vừa được hưởng hai phần ba một suất thừa kế theo thuộc nội dung di chúc bởi vì di sản thực tế bà B pháp luật vừa được hưởng thừa kế theo pháp luật được hưởng theo pháp luật và C, D hưởng thừa kế sau khi chia di sản thừa kế cho người thừa kế theo theo cả di chúc và pháp luật nhiều hơn hai phần ba di chúc. Cách chia này không thể hiện được tinh một suất thừa kế theo pháp luật. thần của điều luật và bất công bằng đối với người Cách hiểu thứ hai cho rằng: người lập di chúc thừa kế theo pháp luật. “chỉ cho” ở quy định này thể hiện ý chí của người Sai lầm thứ hai, về nguyên tắc chia thừa kế có lập di chúc trong di chúc và trong phần di sản họ người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc không đề cập đến trong di chúc. Tuy nhiên, không thì phần di sản người này được hưởng hoặc được phải trường hợp nào phần di sản được chia theo bù thêm cho đủ hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật cũng là tài sản mà người lập di chúc có ý pháp luật phải được trích ra từ phần di sản người định để lại cho người thừa kế mà họ được hưởng thừa kế theo di chúc được hưởng, nếu thiếu thì mới thừa kế trong hoàn cảnh khách quan, ví dụ trong phải trích từ phần di sản của người thừa kế theo các trường hợp người thừa kế theo di chúc chết pháp luật. Nghĩa là, phần di sản mà người thừa kế trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di theo di chúc được hưởng chắc chắn sẽ bị giảm sút
  4. Soá 10/2020 - Naêm thöù möôøi laêm do phải “chia sẻ” cho người thừa kế không phụ suất thừa kế theo pháp luật là: 27.619.047 đồng - thuộc nội dung di chúc, phần di sản của những 24.166.666 đồng = 3.452.381 đồng, nên bà G sẽ người thừa kế theo pháp luật chỉ bị giảm sút khi di được chia đủ hai phần ba một suất thừa kế theo sản của người thừa kế theo di chúc không đủ chia pháp luật, tức là bà G sẽ được hưởng thêm cho người thừa kế không phụ thuộc nội dung di 3.452.381 đồng. chúc. Nhưng cách giải quyết ở trên cho thấy, anh N - Phần di sản bà B và bà G được hưởng trích ra là người thừa kế theo di chúc không bị ảnh hưởng từ di sản N được hưởng thừa kế theo di chúc, tức là về di sản thừa kế mà trái lại di sản của những người N được hưởng: 145.000.000 đồng – (27.619.047 thừa kế theo pháp luật của ông A lại bị giảm sút do đồng + 3.452.381 đồng) = 113.928.572 đồng. phải trích ra cho bà B và bà G. Cách giải quyết này 3. Kiến nghị vừa sai nguyên tắc vừa không thể hiện được bản Để khắc phục những sai lầm và đảm bảo quyền chất, mục đích của điều luật như tên gọi “người lợi của người thừa kế khi phân chia di sản thừa kế thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc”. trong trường hợp người thừa kế không phụ thuộc Thứ hai, cần phải hiểu bà G tuy không được nội dung di chúc được hưởng di sản thừa kế ít hơn ông A cho hưởng thừa kế theo di chúc nhưng lại hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật, chúng được chia thừa kế theo pháp luật với tư cách là tôi kiến nghị thực hiện hai việc sau: người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất, khi bà G Một là, sửa đổi, thay thế từ “cho” trong cụm từ được hưởng thừa kế ít hơn hai phần ba một suất “chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật thì bà G là người thừa kế đó” bằng từ “được” tại khoản 1 Điều 644 BLDS không phụ thuộc nội dung di chúc sẽ được chia đủ năm 2015. Cụ thể: “Những người sau đây vẫn được hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật. Cụ thể hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một như sau: người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia - Xác định di sản của ông A sau khi anh D lo mai theo pháp luật, trong trường hợp họ không được táng cho ông A là: (100.000.000 đồng + 200.000.000 người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ được đồng) – 10.000.000 đồng = 290.000.000 đồng. hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: - Nếu di sản của ông A được chia thừa kế theo a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; pháp luật thì mỗi suất thừa kế là: 290.000.000 đồng: b) Con thành niên mà không có khả năng lao 7 = 41.428.571 đồng và hai phần ba của một suất sẽ động…”. là 41.428.571 đồng x 2/3 = 27.619.047 đồng. Nếu như cụm từ “chỉ cho hưởng…” đa số các - Theo di chúc ông A để lại cho anh N 1/2 tài trường hợp thể hiện sự chủ động của người lập di sản, tức là 290.000.000 đồng: 2 = 145.000.000 chúc trong việc định đoạt tài sản trong di chúc, đồng. Phần di sản còn lại ông A không định đoạt chưa bao quát được trường hợp người thừa kế được trong di chúc sẽ chia thừa kế theo pháp luật, tuy hưởng thừa kế theo pháp luật, do đó không thể hiện nhiên bà B là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất được bản chất của điều luật thì cụm từ “chỉ được của ông A nhưng đã bị ông A truất quyền thừa kế hưởng…” thể hiện được bản chất, mục đích của nên không được hưởng thừa kế theo pháp luật điều luật là bất kỳ trường hợp nào nếu người thừa (khoản 3 điều 651 BLDS năm 2015). Vậy di sản kế bắt buộc được hưởng thừa kế theo di chúc; theo còn lại của ông A được chia như sau: 145.000.000 pháp luật hoặc cả theo di chúc và theo pháp luật đồng : 6 = bà G = T và Q – thừa kế thế vị C = D = thực tế được hưởng di sản ít hơn hai phần ba một E = M = N = 24.166.666 đồng. suất thừa kế theo pháp luật thì sẽ được hưởng đủ - Cũng theo di chúc, ông A truất quyền thừa kế hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật. Bằng của bà B nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 644 việc sử dụng cụm từ “chỉ được hưởng…”, trong BLDS năm 2015 bà B là người thừa kế không phụ mọi trường hợp, khi vận dụng quy định pháp luật thuộc nội dung di chúc, được hưởng hai phần ba tại khoản 1 Điều 644 BLDS năm 2015 chỉ có một một suất thừa kế theo pháp luật, tức là bà B được cách hiểu duy nhất: “con chưa thành niên, cha, mẹ, hưởng: 27.619.047 đồng. vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng - Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 644 BLDS lao động” của người lập di chúc ở một trong hai năm 2015, tuy bà G đã được hưởng thừa kế theo điều kiện sau sẽ được hưởng thừa kế không phụ pháp luật nhưng còn thiếu so với hai phần ba một thuộc nội dung di chúc: 1) không được người lập di
  5. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP chúc cho hưởng thừa kế; (2) Đã được hưởng thừa không định đoạt trong di chúc hoặc liên quan đến kế nhưng ít hơn hai phần ba một suất thừa kế theo phần di chúc vô hiệu được chia theo pháp luật pháp luật. cho những người thừa kế theo pháp luật của Hai là, thống nhất cách phân chia di sản trong người để lại di sản, nếu họ đủ điều kiện hưởng trường hợp người thừa kế không phụ thuộc nội thừa kế. dung di chúc “đã được hưởng di sản nhưng chưa Nếu sau khi chia thừa kế theo di chúc và pháp đủ hai phần ba giá trị của một suất thừa kế pháp luật mà xuất hiện người thừa kế không phụ thuộc luật”theo trình tự nhất định qua các bước sau: nội dung di chúc“đã được hưởng di sản nhưng Bước 1: Xác định tính hợp pháp của di chúc và chưa đủ hai phần ba giá trị của một suất thừa kế xác định di sản thừa kế. pháp luật” thì những người này sẽ được chia đủ Bước 2: Giả sử di sản được chia thừa kế theo hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật. pháp luật để tìm một suất thừa kế theo pháp luật và Bước 4: Phần di sản người thừa kế không phụ hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật làm căn thuộc nội dung di chúc được hưởng trích ra từ di cứ xác định người thừa kế không phụ thuộc nội sản của người thừa kế theo di chúc, nếu di sản của dung di chúc. người thừa kế theo di chúc không đủ thì phải trích Bước 3: Chia thừa kế cho những người được theo tỷ lệ di sản được hưởng của cả người thừa kế chỉ định hưởng di sản theo di chúc, phần di sản theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật./. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH TRONG PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (Tiếp theo trang 7) Thứ tư, thành lập cơ quan chuyên trách về cua-can-bo-cong-chuc-vien-chuc-35256.html kiểm soát XĐLI. Cơ quan này sẽ có trách nhiệm 2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, Nxb. tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.686. cao nhận thức về XĐLI và kiểm soát XĐLI, 3. Phạm Thị Huệ, Kiểm soát XĐLI trong hoạt hướng dẫn thực hiện pháp luật đồng thời thực hiện động công vụ tại Việt Nam hiện nay, Tạp chí nhiệm vụ hướng dẫn, giải đáp vướng mắc cho cán Nghiên cứu Lập pháp số 23 (399), tháng 12/2019. bộ, công chức, viên chức cách xử lý những tình 4. Lê Quang Kiệm, Nhận diện mối quan hệ huống cụ thể họ gặp phải trong quá trình thực thi giữa “XĐLI” và tham nhũng hiện nay, Tạp chí công vụ, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử Thanh tra online 30/12/2019. lý và thực hiện quản lý trực tiếp các tình huống http://thanhtravietnam.vn/nghien-cuu-trao- XĐLI xảy ra trong hoạt động công vụ; tổng kết doi/nhan-dien-moi-quan-he-giua-xung-dot-loi-ich- thực tiễn thực hiện pháp luật, tham mưu hoạch va-tham-nhung-hien-nay-189252 định chính sách, pháp luật về kiểm soát XĐLI 5. Đinh Văn Minh, Kiểm soát XĐLI nhằm trong hoạt động công vụ./. phòng ngừa tham nhũng, Tạp chí Nghiên cứu lập TÀI LIỆU THAM KHẢO pháp số 24(328) - tháng 12/2016. 1. Nguyễn Trọng Chuẩn, Lợi ích và XĐLI trong 6. Nhóm Ngân hàng Thế giới & Thanh tra quá trình thực thi công vụ của cán bộ, công chức, Chính phủ, Kiểm soát XĐLI trong khu vực công - viên chức, Tạp chí Mặt trận online ngày Quy định và thực tiễn ở Việt Nam, NXB. Hồng 16/05/2020. Đức, Hà Nội, 2016, tr. 21. http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/loi-ich-va- 7. Nguyễn Lân, Từ điển Từ và ngữ Hán Việt, xung-dot-loi-ich-trong-qua-trinh-thuc-thi-cong-vu- Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2014, tr 380.
nguon tai.lieu . vn