Xem mẫu

  1. Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 21 Biến đổi lối sống ở đô thị và nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và hội nhập quốc tế hiện nay và việc hoàn thiện các chế định bắt buộc Nguyễn Hữu Hoàng1* Nguyễn Đình Phú2 1 Học viện Chính trị khu vực II 2 Uỷ ban nhân dân phường Bình An, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh * Tác giả liên hệ, Email: huuhoang.hcma2@gmail.com THÔNG TIN TÓM TẮT Dựa trên kết quả điều tra 3.600 người dân năm 2018 tại 8 Ngày nhận: 25/05/2020 địa phương trong cả nước, được xử lí bằng công cụ SPSS, phiên Ngày nhận lại: 21/07/2020 bản 20.0 và nguồn dữ liệu khác, bài viết đưa ra bằng chứng thực tế về những biến chuyển lối sống cơ bản của cư nông thôn và Duyệt đăng: 23/08/2020 thành thị trên 05 phương diện chủ yếu (1). Lĩnh vực lao động - sản xuất, (2). Hoạt động chính tri, (3). đời sống tinh thần, (4). Sinh hoạt gia đình - họ tộc và (5). Quan hệ xã hội; qua đó, gợi mở một số giải pháp hoàn thiện chế định bắt buộc có liên quan Từ khóa: trước các biến đổi ấy. biến đổi lối sống, chế định ABSTRACT bắt buộc, đô thị và nông thôn, Việt Nam Based on the results of survey with 3.600 people was began in 2018 in 8 localities throughout the country, anylized by SPSS tool, version 20.0 and other data sources, the article supports the real evidences of the current status of changing the Keywords: social lifestyle of rural and urban in 5 main aspects (1). Labor - changes of social lifestyle, production, (2). Polictics activities, (3). Spiritual life, (4). mandatory regulations, rural Family activities - clan (5). Public relationship; thereby, give and urban, Vietnam some suggestions to completing the mandatory regulations. 1. Giới thiệu Chúng ta đang sống trong thế giới biến đổi và đầy “hỗn độn” với nhiều trào lưu, xu thế và tác động mà mỗi quốc gia, khu vưc khó cưỡng lại hoặc đứng ngoài cuộc. Sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (Cách mạng 4.0) đã làm thay đổi một cách nhanh chóng về nhiều mặt của đời sống xã hội, làm xuất hiện vấn đề mới chưa có tiền lệ. Cùng với đó, toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế khiến lằn ranh biên giới dần bị xoá nhoà, “phẳng” hơn, thúc đẩy sự giao lưu, dịch chuyển thậm chí là tiếp biến nhiều hệ giá trị giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới cho nhau. Việt Nam đang phát triển và quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh thế giới như vậy. Công cuộc đổi mới mạnh mẽ khởi xướng từ lĩnh vực kinh tế, nhất là quá trình từ sau năm 1986 đến nay đã làm thay đổi đáng kể, toàn diện trên các phương diện hoạt động khác của đời sống - xã hội như kinh tế, lao động - việc làm, chính trị, văn hoá, lối sống,… không chỉ một bộ phận,
  2. 22 Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 nhóm dân cư mà ở phạm vi quốc gia. Xã hội Việt Nam đã và đang vận hành đúng quy luật khi nội tại của nó là quá trình nhào nặn, xâm nhập lẫn nhau, đấu tranh, giằng co hay sự sàn lọc trên tinh thần “tiếp biến” chủ động, có chọn lọc giữa hệ giá trị cổ truyền và hiện đại, giữa cái tân thời và cũ kĩ, giữa xu hướng hiện đại hoá, tiến bộ và thụt lùi, giữa cái tốt và cái chưa tốt,… để tìm đến giá trị phù hợp trong chủ thuyết phát triển quốc gia. Ở đó, nếu nhìn “lối sống xã hội” như một bộ phận cấu thành xã hội thì nó cũng đang có những biến đổi to lớn. Phát triển bền vững vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đang được Việt Nam hướng đến. Trong các trụ cột của phát triển bền vững, giải quyết thách thức từ biến đổi lối sống xã hội Việt Nam hiện nay có tính tất yếu và quan trọng. Xã hội nước ta đang trong thời kỳ đan cài biến đổi lối sống xã hội diễn ra sâu sắc, có phần phức tạp, có mặt trầm trọng khiến các nhà nghiên cứu, quản lý xã hội lo lắng. Trong khi đó việc hoạch định, thực thi chiến lược phát triển, chính sách, pháp luật thời gian qua đang cho thấy sự lúng túng nhất định trong việc định hình, nắm bắt và đưa ra các quyết sách đúng đắn dựa trên cơ sở dữ liệu thực chứng để giải quyết có hiệu quả các vấn đề của biến đổi xã hội chưa hẳn đã như mong đợi. Điều đó thúc đẩy việc nghiên cứu biến đổi lối sống xã hội dựa trên cứ liệu được lượng hoá là vô cùng cần thiết và cấp bách. 2. Phương pháp nghiên cứu và khung phân tích Bài viết chủ yếu dựa trên kết quả khảo sát xã hội học đã được tiến hành tại 8 tỉnh, thành phố gồm Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng, Thành phố Hải Phòng, Thành phố Cần Thơ, tỉnh Đắk Lắk, Thái Nguyên và Đồng Nai, với 3.600 người dân để nghiên cứu, phân tích nhằm phát hiện sự khác biệt cơ bản về biến đổi lối sống khu vực thành thị và nông thôn thời gian qua. (I). (III). (IV). Sinh (V). (II). Lao động – Văn hoá hoạt gia Quan hệ sản xuất Chính trị tinh thần đình - họ tộc xã hội Lối sống xã hội Chế định bắt buộc Hình 1: Khung phân tích lối sống, biến đổi lối sống thành thị, nông thôn nước ta Nguồn: Nghiên cứu tác giả Biến đổi lối sống trong bài viết này được hiểu là sự chuyển biến (tích cực, tiêu cực) của các thành tố cấu thành nên nó, tức là sự biến chuyển tổng thể các hình thức hoạt động trên 5 lĩnh vực cơ bản: (1). Lao động - sản xuất; (2). Chính trị; (3). Văn hoá tinh thần; (4). Sinh hoạt gia đình - họ tộc; (5). Quan hệ xã hội mà ở đó sự biến đổi ấy phản ánh đặc điểm, điều kiện sinh sống và trình độ phát triển của xã hội Việt Nam thời gian qua. Lối sống xã hội và hệ thống chế định bắt buộc luôn có quan hệ biện chứng, chi phối lẫn nhau. Do đó, sự vận động, biến chuyển của lối sống xã hội (cũng như thành tố cấu thành) luôn kéo theo, đặt ra yêu cầu về sự chuyển đổi tương thích của các chế định bắt buộc ở từng lĩnh vực, nhóm xã hội và chế định chung trong bài viết
  3. Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 23 này như đường lối, chủ trương và pháp luật, chính sách,… của xã hội nhằm giúp xã hội vận hành đúng quy luật, đáp ứng nhu cầu chung của thành viên xã hội và định hướng quản lý của các cơ quan chức năng. 3. Một số biến đổi lối sống căn bản ở thành thị và nông thôn trên một số lĩnh vực hoạt động chủ yếu 3.1. Biến đổi lối sống xã hội trên lĩnh vực lao động - sản xuất Về thu nhập và mức độ cải thiện thu nhập. Theo kết quả khảo sát, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn và thành thị năm 2018 ở mức tương đối cao, vượt xa so với quy định chuẩn nghèo đa chiều Chính phủ ban hành năm 2016. Nhóm tỉ lệ thu nhập từ 5 triệu đến dưới 10 triệu đồng/ tháng chiếm đa số (82,0%), kế đến là nhóm từ 10 triệu - 20 triệu đồng/tháng (13,9%), cuối cùng nhóm thu nhập dưới 5 triệu đồng/tháng chiếm tỉ lệ khá nhỏ (4,0%). Lý giải cho kết quả này một phần từ thành tựu của công cuộc xoá đói, giảm nghèo mà cả hệ thống chính trị kiên trì thực hiện; sự phát huy tác dụng của các nhân tố đầu vào mới của quá trình lao động (máy móc, công nghệ hiện đại, nhân lực có tay nghề, phương thức quản trị tiên tiến,…). Tuy nhiên, khảo sát về mức độ cải thiện thu nhập trong 5 năm qua tại thời điểm năm 2018 trên 3.600 người dân ở 8 tỉnh, thành phố cho thấy: Phần đa cho rằng vẫn còn chậm (53,9%), không cải thiện (9,1%) (xem Bảng 1). Đặc biệt, trong số người được hỏi, chỉ có 17,3% là đủ sống, 3,7% là có dư trong khi tỉ lệ người cho rằng mức thu nhập hiện tại tạm đủ chiếm đến 66,4%. Bảng 1 Đánh giá về mức độ cải thiện thu nhập của người dân (%) Các mức độ cải thiện Tỉ lệ 1. Không cải thiện 9.1 2. Cải thiện chậm 53.9 3. Cải thiện trung bình 31.8 4. Cải thiện nhanh 4.8 5. Khó đánh giá 0.4 Tổng 100.0 Nguồn: Kết quả khảo sát Khi xem xét tương quan theo “khu vực ở” (tức là thành thi hay nông thôn), dữ liệu cho thấy có đến 56,4% người dân nông thôn cho rằng mức thu nhập của họ cải thiện chậm, trong khi khu vực thành thị là 52,9%. Ngoài ra, 11,3% dân thành thị cho rằng mức thu nhập của họ không cải thiện thì con số này khu vực nông thôn ít hơn, chỉ 3,9%. Dễ hiểu khi khu vực thành thị năng động, có nhiều cơ hội phát triển về nghề nghiệp, lao động, việc làm song áp lực chi phí, gánh nặng cuộc sống cũng không hề nhỏ. Ngược lại, với chính sách dãn dân, phát triển nông thôn - nông thôn mới, diện mạo đời sống kinh tế khu vực nông thôn đã có khởi sắc, có nhiều cơ hội đổi đời hơn. Lí giải kết quả này có thể do hiệu quả từ Chương trình mục tiêu quốc gia và nỗ lực hướng về nông thôn, nông dân và nông nghiệp ở nước ta thời gian qua. Biến chuyển hành vi tiêu dùng và tích luỹ từ thu nhập của người dân. Ông bà xưa có câu “làm khi lành để dành khi đau”. Hành vi tiêu dùng và tích luỹ đối với khoản thu nhập của người
  4. 24 Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 dân qua kết quả khảo sát năm 2018 có nhiều biến đổi. Xu hướng sử dụng tiền tích luỹ ngày càng chủ động, lấy phục vụ đầu tư lâu dài làm trọng: chi cho việc học của con cái (51,1%), dự phòng các việc đột xuất (45,9%), gửi ngân hàng (45,7%) hay đầu tư sản xuất, kinh doanh (26,6%) thay vì cứ để số tiền này “nằm im trong két”. Ngoài ra, thông qua mục đích sử dụng tiền tích luỹ cũng cho thấy xu hướng cân bằng giữa “làm - thụ hưởng” xu hướng đổi mới trong quản lý tài chính của người dân khi 19,2% người được hỏi cho rằng dùng tiết tích luỹ đi du lịch 11,8% “mua nhà ở/ chung cư” theo kiểu ca dao xưa “tiết kiệm sẵn có đồng tiền/ phòng khi túng lở không phiền luỵ ai” vốn không dễ thấy trong xã hội cổ truyền. Nhìn nhận vấn đề này theo tương quan giữa lối sống dân thành thị và nông thôn, về nội dung này có nhiều biến chuyển mới (xem Bảng 2). Người dân nông thôn chọn gửi tiền tích luỹ vào ngân hàng là 50,9%, cao hơn khu vưc thành thị (43,8%), điều này tương tự với chi cho việc học của con cái là 58,4% so với 48,3% ở thành thị. Trái lại, người dân thành thị có cách nhìn và hành động năng động, nhạy bén và đôi khi thực tế hơn. Họ quan tâm chuyện mua nhà ở, chung cư (13,0%) so với nông thôn (8,5%), hoặc dự phòng việc đột xuất cao hơn (47,1%) so với 42,9%, thậm chí, xu hướng tích luỹ đi du lịch cùng gia đình (21,1%) trong khi nông thôn chỉ là (14,8%). Bảng 2 Mục đích sử dụng tiền tích luỹ của người dân thành thị, nông thôn (%) Khu vực ở Tiền tích lũy được sử dụng Thành thị Nông thôn Tổng vào việc gì n % n % n % 1. Gửi ngân hàng 1086 43,8 466 50,9 1552 45,7 2. Mua nhà ở/ chung cư 321 13,0 78 8,5 399 11,8 3. Đầu tư sản xuất, kinh doanh 703 28,4 201 21,9 904 26,6 4. Chi cho việc học của bản thân 242 9,8 51 5,6 293 8,6 5. Chi cho việc học của con cái 1198 48,3 535 58,4 1733 51,1 6. Mua thuốc men và trị bệnh 630 25,4 253 27,6 883 26,0 7. Dự phòng các việc đột xuất 1166 47,1 393 42,9 1559 45,9 8. Hỗ trợ người thân 680 27,4 294 32,1 974 28,7 9. Đi du lịch cùng gia đình 522 21,1 136 14,8 658 19,4 Tổng 2478 100,0 916 100,0 3394 100,0 Nguồn: Kết quả khảo sát Như vậy, trong quản lý tiền tích luỹ, người dân nông thôn hướng chuộng sự an toàn, ít rủi ro nhưng lại ý thức đầu tư cho tương lai con cái học hành. Trong khi đó, người dân thành thị với áp lực cuộc sống đô thị và tính bất ổn cao, họ thể hiện tính thực dụng và thực tế hơn trong chi tiết kiệm, tất nhiên, điều này không hẳn là quá đà, thái quá như hiện tượng “vung tay quá trán”, hay theo kiểu “làm chừng nào xào chừng ấy”. 3.2. Biến đổi lối sống xã hội trên lĩnh vực đời sống chính trị Sự hiểu biết về vấn đề chính trị - xã hội: Đây là yêu cầu tối quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kết quả khảo sát vào thời điểm năm 2018 cho thấy:
  5. Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 25 45,6% người tham gia trả lời cho rằng họ tương đối hiểu biết pháp luật, trong khi đó, tỉ lệ biết rõ là 15,1%, không biết là 15,4%. Ngoài ra, trong số 3.600 người dân được hỏi về sự hiểu biết về đường lối, chủ trương cho thấy: 38,9% biết tương đối rõ, 10,6% trả lời không biết. Đây là thách thức và trách nhiệm đặt ra cho các cơ quan thực thi, tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tuyên truyền của Đảng. Mặc dù cơ quan lập pháp đã nỗ lực rất lớn trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thời gian qua song viêc đưa các chủ trương, đường lối, quy định này đi vào đời sống, được người dân quan tâm, đón nhận, tự giác tuân thủ chưa hẳn đã tốt như kỳ vọng. Phải chăng, đây là lời đáp cho thực trạng chúng ta có “rừng luật” nhưng giải quyết bất hoà xã hội bằng “luật rừng” thời gian qua? Quan tâm đời sống chính trị: Trong nền dân chủ hiện đại, sự tham gia và quan tâm của người dân vào sinh hoạt chính trị và diễn biến của các vấn đề của đời sống hằng ngày là thước đo của nền chính trị ấy. Kết quả khảo sát tổng hợp từ người dân thời điểm năm 2018 cho thấy: 29,6% ít khi để ý các khẩu hiệu, lời kêu gọi của chính quyền trên đường phố, đến 53,9% người dân ít khi theo dõi chương trình pháp luật trên ti-vi và 32,4% người dân không quan tâm tin nhắn của cơ quan nhà nước gửi đến để đề nghị hoặc cảnh báo liên quan pháp luật, an ninh, vì người nghèo,… Lý giải hiện tượng này có lẽ một phần từ nhận thức chính trị của người dân chưa tốt, rào cản từ các phương thức truyền thông hay một phần sự “mất niềm tin” của một bộ phận người dân trước sai phạm, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hình thức tiếp cận quy định của pháp luật: Ngày nay, với sự phát triển của phương tiện truyền thông đại chúng và công nghệ thông tin, người dân có nhiều lựa chọn để tiếp cận thông tin về đường lối, chủ trương và quy định pháp luật. Kết quả khảo sát cho thấy, người dân tiếp cận thông tin pháp luật với các hình thức như đọc sách báo, nghe đài, xem ti-vi (26,1%), qua cơ quan phổ biến (17,3%), chính quyền phổ biến (15,4%), qua lớp học (14,9%),…. Kết quả này tương tự như hình thức được sử dụng để tiếp cận đường lối, chủ trương của Đảng thời gian qua của người dân. Bảng 3 Hình thức tiếp cận pháp luật và đường lối, chủ trương của người dân (%) Hình thức tiếp cận thông tin được đề Tỉ lệ xuất Tiếp cận pháp luật Tiếp cận đường lối, chủ trương 1. Lớp học 14.9 20.3 2. Đọc sách báo, nghe đài, xem ti-vi 26.1 23.8 3. Cơ quan phổ biến 17.3 19.4 4. Trao đổi trong gia đình, bạn bè 14.6 12.4 5. Chính quyền phổ biến 15.4 14.2 6. Các khẩu hiệu trên đường phố 11.7 9.9 Nguồn: Kết quả khảo sát Như vậy, tiếp cận thông tin về đường lối, chủ trương và pháp luật nói chung theo phương thức truyền thống như nghe đài, đọc báo, xem ti-vi,… vẫn chiếm ưu thế hiện nay. Tuy nhiêu, điều này không có nghĩa là trong quản lý, chúng ta xem nhẹ vai trò của mạng xã hội, truyền thông qua In-tơ-nét, báo điện tử,… trong xã hội hiện đại. Thái độ với vấn nạn tham nhũng. Đặc biệt, đề tài quan tâm chuyển biến trong nhận thức,
  6. 26 Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 hành vi của người dân về một vấn nạn trầm kha của quốc gia - “tham nhũng”, “hối lộ”. Khảo sát từ 3.600 người dân cho thấy: 11,1% người dân phải thường xuyên hối lộ khi làm việc với chính quyền, 29,2% cho rằng tuỳ trường hợp trong khi đó, chỉ có 31,6% cho rằng không bao giờ đưa hối lộ. Đây không phải là câu chuyên mới, song giữa xã hội hiện đại, nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhưng từ chỗ là thói hư, tật xấu, giờ đây, vấn nạn hối lộ dường như được xã hội thừa nhận và chấp nhận sự tồn tại của nó như sự tất yếu trong mối quan hệ giữa dân - quan. Ngoài ra, quan niệm của người dân về căn nguyên của tham nhũng cũng có nhiều sự đổi khác (Bảng 3). Xã hội phong kiến truyền thống xem phẩm chất của kẻ làm quan rất quan trọng. Sự tha hoá đội ngũ quan lại, trong đó có tham nhũng của công chính do tha hoá nhân cách, sự tham lam là hơn cả. Thực tế, các triều đại phong kiến đã sớm nhận diện và phối hợp hàng loạt biện pháp khả thi để phòng, chống tham nhũng, khuyến khích tiết tháo như “tiền dưỡng liêm”, chế độ lương bổng công bằng, thoả đáng, xét xử nghiêm minh nạn tham nhũng,… Tuy vậy, bước qua xã hội hiện đại, dưới tác động của kinh tế thị trường, yếu tố “thu nhập” (19,3%) … được xem là xuất phát điểm của tệ nạn tham nhũng trong khi cán bộ không tốt (đạo đức) (16,3%), luật pháp chưa chặt chẽ, có kẽ hở (17,6%), tính nghiêm minh của pháp luật (13,8%),… là cơ sở thứ yếu (xem Bảng 4). Rõ ràng, thứ tự nấc thang khởi phát vấn nạn tham nhũng hiện nay theo người dân có sự đổi khác nhất định. Sự khác biệt này chi phối đến mức độ ưu tiên đến hệ thống các giải pháp để đẩy lùi vấn nạn này trong xã hội hiện nay. Bảng 4 Căn nguyên tham nhũng trong xã hội hiện nay ở Việt Nam Lượt chọn Căn nguyên tham nhũng N Tỉ lệ 1. Không bị pháp luật xử lí nghiêm 1803 13.8% 2. Luật pháp chưa chặt chẻ, có kẻ hở 2304 17.6% 3. Quyền lực không được kiểm soát tốt 2420 18.5% 4. Cán bộ không tốt 2136 16.3% 5. Thu nhập thấp 2521 19.3% 6. Có người đưa hối lộ 1892 14.5% Tổng 13076 100.0% Nguồn: Kết quả khảo sát 3.3. Biến đổi lối sống xã hội trên lĩnh vực văn hoá tinh thần Đối với hình thức giải trí của người dân qua khảo sát: Kết quả điều tra 3.600 người dân năm 2018 cho thấy, hình thức giải trí khá phong phú (Bảng 5). Trong đó, hoạt động phổ biến lâu nay như xem ti-vi, nghe đài, đọc báo chiếm tỉ lệ 24,4%, các hình thức giải trí mới của xã hội hiện đại, công nghiệp như vào in-tơ-nét (14,2%), mau sắm (11,9%), hay chat trên mạng (7,3%),… Đáng nói, việc duy trì mối quan hệ bạn bè ít được quan tâm (3,4%) vào thời gian rảnh.
  7. Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 27 Bảng 5 Hình thức giải trí của người dân hiện nay Hình thức giải trí được đề xuất Tỉ lệ 1. Xem tivi, nghe đài, đọc báo 24.4% 2. Vào internet 14.2% 3. Chat trên mạng 7.3% 4. Chơi game 3.9% 5. Xem phim tại rạp 6.7% 6. Xem thi đấu thể thao (trực tiếp) 7.8% 7. Xem biểu diễn ca nhạc 1.2% 8. Hát karaoke 6.2% 9. Mua sắm 11.9% 10. Gặp gỡ bạn bè 3.4% 11. Dã ngoại, câu cá 13.1% Tổng 100.0% Nguồn: Kết quả khảo sát Phân tích dữ liệu tương quan theo khu vực ở thành thị và nông thôn cho thấy: Người dân thành thị ưu tiên các hoạt động như xem ti-vi, nghe đài, đọc báo (81,3%), mua sắm (39,7%), hoạt động thể dục thể thao (23,1%) và gặp gỡ bạn bè (12,6%), trong khi đó, các hoạt động này của người dân nông thôn không được ưu tiên lựa chọn, tỉ lệ lần lượt là 69,5%, 34,7%, 16,4% và 6,4% (điều này khắc hẳn với xã hội nông thôn hay thành thị thuần tuý trước đây). Đáng chú ý, người dân nông thôn có xu hướng sử dụng thời gian rảnh của mình vào việc chơi game (24,9%), trò chơi trên mạng (24,2%). Nguyên nhân của biến đổi này có lẽ sự tác động của lối sống kiểu công nghiệp với sự bận rộn và bận tâm nhiều cho kinh tế - công việc, ở khu vực thành thị; hoạt động nông nghiệp theo kiểu cổ truyền còn in đậm trong lối sống người dân nông thôn; đồng thời, sự chi phối, ảnh hưởng ngày càng lớn, rộng khắp và có sức thu hút lớn của phương thức giải trí trực tuyến (game online). Về hoạt động vào thời gian rảnh: Theo kết quả khảo sát, người dân bên cạnh giải trí với nhiều hoạt động khá quen thuộc, phổ biến lâu nay như nghỉ ngơi (12,5%), xem ti-vi, nghe đài, đọc báo (11,9%), làm việc nhà, chăm sóc vườn cây (10,4%) hay thăm cha mẹ, người thân (10,0%) là sự đan xen các hoạt động mới, mang dáng dấp của xã hội mới, lối sống công nghiệp như cà phê tán gẫu với bạn bè (6,7%), nhậu nhẹt với bạn bè (6,1%), chat trên mạng (5,7%). Phân tích biến đổi lối sống theo khu vực thành thị và nông thôn, kêt quả đề tài cho thấy: người dân thành thị, nông thôn đều khá giống nhau khi dành thời gian rảnh rỗi của mình để thăm cha mẹ, người thân (49,0%:49,5%), làm việc nhà, chăm sóc vườn cây (49,7%:47,3%). Người dân đô thị ưu tiên nghỉ ngơi (68,5%), xem ti-vi, báo đài, đọc báo (60,1%), dạy dỗ, chơi với con (48,2%), ngủ (45,4%), hay nhậu nhẹt với bạn bè (31,0%) hơn so với cà phê tàn gẫu với bạn bè (31,0%), chơi thể thao (21,8%). Trong khi đó, người dân nông thôn có xu hướng ưu tiên sử dụng thời gian rảnh của mình vào các hoạt động như chat trên mạng (37,5%), chơi thể thao (28,8%) và cà phê tán gẫu vói bạn (25,2%) so với việc ngủ (15,9%), hay học tập thêm (11,3%).
  8. 28 Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 Về hoạt động vào dịp lễ tết trong năm: Kết quả khảo sát 3.600 người dân 8 tỉnh, thành cho thấy 03 phương án được người dân ưu tiên nhất, lần lượt là thăm cha mẹ, người thân (28,1%), ở nhà nghỉ ngơi (25,3%) và gặp gỡ bạn bè (18,8%). Điều này vừa cho thấy, các hoạt động vừa có xu hướng hướng nội, coi trọng cội nguồn nhưng cũng mở rộng ra bên ngoài, phản ánh tư duy cởi mở, mới mẻ hơn của một bộ phận người dân qua nghiên cứu. Nếp về thăm lại gia đình, quê hương dịp giỗ, tết: Đi đâu mặc kệ đi đâu Đến ngày giỗ tết phải mau mà về Những hoạt động trong dịp Tết cổ truyền: Mồng một thì ở nhà cha, Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy Hoặc là : Mồng một chơi cửa chơi nhà, Mồng hai chơi xóm, mùng ba chơi đình Hộp 1: Tập tục truyền thống dân ta ngày lễ tết qua ca dao, tục ngữ xưa Tuy vậy, nếu xét theo nhóm dân cư thành thị và nông thôn, các hoạt động này cũng không hoàn toàn giống nhau (Bảng 6). Người dân thành thị, nông thôn đều dành sự ưu tiên nhất định cho thăm cha mẹ, người thân, ở nhà nghỉ ngơi hay gặp gỡ bạn bè vốn là nếp sống lâu nay của dân tộc ta. Tuy vậy, người dân thành thị đặc biệt lựa chọn việc đi du lịch (34,2%) có thể trong hoặc ngoài nước tuỳ theo điều kiện ngoài các hoạt động cổ truyền bao đời. Bảng 6 Hoạt động dịp lễ tết của người dân hiện nay Khu vực ở Hoạt động dịp lễ tết Thành thị Nông thôn N % N % 1. Ở nhà nghỉ ngơi 1554 60,8 515 49,2 2. Đi du lịch 873 34,2 196 18,7 3. Thăm cha mẹ, người thân 1712 67,0 590 56,4 4. Gặp gỡ bạn bè 1072 42,0 467 44,6 5. Chăm sóc nhà cửa, vườn cây 756 29,6 455 43,5 Tổng 2554 100,0 1046 100,0 Nguồn: Kết quả khảo sát Về một số hoạt động tâm linh, tôn giáo: Đây vốn là hoạt động có bề dày lịch sử kéo dài suốt chặng đường phát triển của dân tộc, thậm chí ăn sâu trong nếp nghĩ, nếp làm của cư dân Việt. Qua điều tra, kết quả cho thấy, phần đa (59,6%) người dân được hỏi trả lời họ ít khi đi chùa, 8,6% ít đi nhà thờ và 39,0% ít khi thăm viếng nơi thờ tự tôn giáo khác. Tuy nhiên, có đến 64,9% vẫn cho rằng phải coi thầy bói khi có việc cưới hỏi, tang mai trong gia đình, 53,5% vẫn coi thầy phong thuỷ khi mua đất, xây nhà. Đánh giá tiếp nội dung này khi xem xét tương quan ở
  9. Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 29 nhóm dân cư thành thị và nông thôn, tác giả nhận thấy: Người dân thành thị thường ít khi đi chùa (61,6%), nhà thờ (26,2%) thậm chí ngay cả nơi thờ tự tôn giáo khác (35,9%) đồng thời ít ngưỡng vọng “có” mời thầy bói trong hoạt động tang ma, cưới hỏi (64,1%) cũng như thầy phong thuỷ trong việc mua đất, cât nhà,…(51,3%). Trái lại, người dân nông thôn có xu hướng coi trọng các hoạt động này, biểu hiện tiêu chí “ít khi đi” cao hơn hẳn so với người dân thành thị, lần lượt là: đi chùa (54,6%), nhà thờ (14,8%) và “có” mời thầy bói trong hoạt động tang ma, cưới hỏi (66,9%) cũng như thầy phong thuỷ trong việc mua đất, cất nhà,…(58,9%). Tiếp nhìn nhận các hiện tượng này dựa trên lí thuyết xã hội như lí thuyết hiện đại hoá, lí thuyết duy lí hay lí thuyết trao đổi và sự lựa chọn hợp lí sẽ có nhiều kiến giải hợp lí, thuyết phục cho biến chuyển về lối sống của người dân - ở khía cạnh tâm linh, tôn giáo này hiện nay. 3.4. Biến đổi lối sống trên lĩnh vực sinh hoạt xã hội Về mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái: Mối quan hệ này được đề tài lựa chọn khảo sát ở phương diện trách phạt và dạy dỗ con cái. Quan niệm truyền thống thường cho rằng “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” để nói về cách dạy dỗ con cái của người xưa. Tuy nhiên, kết quả khảo sát 3.600 người dân tại 8 tỉnh, thành thời điểm năm 2018 cho thấy, chỉ 12,8% người dân thường xuyên đánh con cái so với ít khi (46,6%) và không bao giờ (36,2%). Có lẽ đây là dấu hiệu đáng mừng khi nhận thức xã hội có nhiều đổi khác, tiến bộ và bởi hậu quả của hình thức trừng bạt đòn roi trong giáo dục con trẻ. “Trẻ em từng trải qua bạo hành khi ở nhà sẽ có hành vi bạo lực khi chúng trưởng thành. Đối với trẻ thì cha mẹ là người có ảnh hưởng lớn nhất đến chúng trong cuộc sống và chúng sẽ học theo những hành vi, thái độ ứng xử của cha mẹ. Hình phạt thể xác làm lẫn lộn ranh giới giữa tình yêu và bạo lực trong trẻ em khi chúng còn đang học cách đối xử với người khác”. (Nguồn: Bài viết: “Thương cho roi cho vọt”có phải cách giáo dục tốt”, Tạp chí Điện tử VietTimes, https://viettimes.vn) Hộp 2: Hậu quả giáo dục con cái bằng hình thức trừng phạt Tuy nhiên, nhìn nhận vấn đề này theo góc độ tương quan giữa nhóm dân cư thành thị và nông thôn cũng có sự khác biệt nhất định. Cha mẹ khu vực thành thị có tỉ lệ đánh con thường xuyên (9,7%) thấp hơn so với khu vực nông thôn (19,8%). Ngoài ra, mối quan hệ ở phạm vi gia đình giữa cha mẹ và con cái còn được nhìn nhận ở giác độ giáo dục con cái. Kết quả khảo sát (Bảng 7) cho thấy, bên cạnh chú trọng giáo dục đạo đức tốt (49,4%) trong xã hội đậm chất Nho gia và lễ giáo, tại thời điểm 2018, cha mẹ đã có sự quan tâm đáng kể giáo dục, trang bị kỹ năng sống (33,8%) cho con trẻ mình. Sự thay đổi điều kiện sống và yêu cầu, thách thức từ xã hội khiến tư duy và nội dung giáo dục con cái các bậc phu huynh ít nhiều biến chuyển cho hợp thời. Bảng 7 Nội dung giáo dục con cái của cha mẹ hiện nay Nội dung giáo dục Tỉ lệ 1. Đạo đức tốt 49.4% 2. Học giỏi 16.8% 3. Kĩ năng sống 33.8% Tổng 100.0 Nguồn: Kết quả khảo sát
  10. 30 Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 Về mối quan hệ vợ chồng: Là quốc gia có lịch sử văn hoá chịu ảnh hưởng sâu sắc Nho gia, đạo Khổng chi phối trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ cư xử giữa vợ - chồng. Xã hội cổ truyền nước ta vốn đã có phép tắc định ra cách ứng xử khắc khe trong môi quan hệ vợ chồng, chẳng hạn theo Nho gia đấy là “đạo tam tòng”, là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”,… Nhà nghiên cứu văn hoá của Việt Nam Phan (2001) trong tác phẩm Việt Nam phong tục từng thốt lên về vấn đề trọng nam khinh nữ của văn hoá nước nhà: “… tục ta trọng nam khinh nữ thì là một tục trái hẳn với cách văn minh... Tục ta thì phần nhiều áp chế đàn bà quá. Có người coi vợ như kẻ ăn người ở, nào là bắt sửa túi nâng khăn, nào là bắt cơm dâng nước tiến, nào là bẻ hành bẻ tỏi, nào là bắt nhặt bắt khoan. Chồng ăn chơi như phá không sao, vợ xểnh ra một chút đã sinh ra ỏm tỏi; chồng chim chuột như quỷ thì chẳng hề gì, vợ động đi đâu một lúc thì sinh ra ngờ vực, ấy là trái với đạo công bằng. Tục ta buộc cho đàn bà một chữ trinh mới lại nghiệt nữa. Đã đành trinh tiết là một nết rất quý ở Á Đông ta, không có thể sao bỏ được, nhưng giữ gìn từng li (vợ đi đâu cũng đe nẹt) thì tựa như quá hà khắc” (pp. 81-82). Khảo sát xã hội học 3.600 người dân vào thời điểm năm 2018, có 58,0% cho rằng có thực hiện bình đẳng giới, số còn lại 38,4% cho rằng không thực hiện bình đẳng giới. So với trước đây, thực tế này có thể là tín hiệu đáng mừng, chứng minh cho thành tựu, nỗ lực xoá bất bình đẳng của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên, tỉ lệ cho rằng bất bình đẳng vẫn còn khá cao khiến nhà nghiên cứu phải suy nghĩ. Khảo sát dữ liệu tương quan theo nhóm thành thị và nông thông về vấn đề này cho thấy 34,5% người dân thành thị cho rằng không quan tâm thực hiện bình đẳng giới, trong khi con số này ở nông thôn đến 52,3%. Điều này khá thống nhất khi cũng qua kết quả điều tra, có đến 25,1% người dân nông thôn là nạn nhân của bạo hành gia đình, con số này ở thành thị ít hơn, chỉ là 12,4%. Phải chăng, nếp sống nông thôn cổ truyền vốn đề cao vai trò trụ cột nam giới và nhận thức chưa được cải biến nhanh chóng đã khiến cho vấn đề này chưa thực sự chuyển biến tích cực ở khu vực nông thôn? Bảng 8 Phản ứng xủa phụ nữ ngày nay khi bị bạo hành Phản ứng khi bị bạo hành Tỉ lệ 1. Im lặng chịu đựng 32.9% 2. Đến nhà bố mẹ, người thân quen 19.9% 3. Báo chính quyền 17.6% 4. Đánh trả 6.3% 5. Hành động khác 4.4% Tổng 100.0 Nguồn: Kết quả khảo sát Tuy vậy, khảo sát tiếp việc ứng xử của người trong cuộc của bạo hành gia đình, đề tài phát hiện nhiều vấn đề mới cần quan tâm (Bảng 8). Khảo sát 3.600 người dân thời điểm năm 2018 cho thấy, bên cạnh cách ứng xử của người thế yếu hoặc cam chịu nhiều như cổ nhân từng nói “chồng giận thì vợ bớt lời/ cơm sôi bớt lửa chằng đời nào khê”, người phụ nữ thường chọn cách phản ứng lại hành vi bạo hành bằng cách rất truyền thống như im lặng chịu đựng (32,9%), đến nhà bố mẹ, người thân quen tá túc (19,9%) thì phụ nữ đã biết cách hành xử chủ động và bảo vệ quyền của mình hơn như báo chính quyền can thiệp (17,6%), thậm chí đánh trả (6,3%). Điều này có thể lí giải khi mà nhận thức xã hội ngày càng được cải thiện về bình đẳng giơi và hệ
  11. Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 31 thống pháp luật về câu chuyện này ngày càng được hoàn thiện để bảo vệ người bị hại, chẳng hạn: Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Luật Hôn nhân và gia đình,… Kết quả phân tích tương quan nhóm thành thị và nông thôn về nội dung này cho thấy: người thành thị có xu hường nhờ chính quyền can thiệp khi bản thân bị bạo hành (23,0%), trong khi đó, khu vực nông thôn thụ động im lặng, chịu đưng là chính (47,6%). Về mối quan hệ trong họ tộc. Vượt qua phạm vi gia đình nhỏ hẹp, đề tài xem xét chuyển biến trong mối quan hệ của người dân ở phạm vi rộng hơn, có ảnh hưởng sâu sắc đến cá nhân - trong họ tộc. Ở nước ta, nhất là khu vực Bắc bộ, từ xa xưa, vai trò họ tộc cực kỳ quan trọng. Nhà nghiên cứu Trần (1984) từng nhấn mạnh: “tông tộc mới thật là hạt nhân cơ bản của làng mạc, của xã hội, là chỗ dựa tinh thần vững chắc và vĩnh hằng của từng cá nhân”(p.44). Tuy vậy, số nhà nghiên cứu khác thời ấy không hẳn đồng ý như vậy, và cho rằng “vai trò của nó dường như đã bị phóng đại”, “được đặt tới một vị trí quá mức” (Mai, 2012). Hiện nay thì sao? Khảo sát ý kiến 3.600 người dân ở 8 tỉnh, thành trong cả nước thời điểm năm 2018 cho thấy: 64,1% ý kiến cho rằng không xin ý kiến trưởng tộc các việc quan trọng, và chỉ 32,6% có xin ý kiến. Thậm chí, trong việc quyết định có phải bắt buộc xin con trai nối dõi họ tộc hay không, vai trò và tiếng nói của họ tộc đối với thành viên trong tộc, từng gia đình có phần đổi khác: 62,9% cho rằng họ tộc không buộc sinh con trai và chỉ có 37,1% buộc thực hiện nội dung này. Về chủ đề này, phân tích dữ liệu tương quan cho thấy gia đình nông thôn chịu sức ép họ tộc về chuyện sinh con trai (45,2%) nhiều hơn so với các gia đình thành thi (33,7%). 3.5. Biến đổi lối sống xã hội trên lĩnh vực quan hệ xã hội Vượt ra phạm vi quan hệ trong gia đình, họ tộc (như đã đề cập phần trên), ngày nay, sự biến đổi lối sống ở xã hội hiện đại còn diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc ở cấp độ rộng lớn như liên nhóm, cộng đồng và quốc gia trong thế giới xã hội hiện thực và thậm chí giữa với “thế giới bên kia” theo hàm ý tâm linh, huyền bí. Trước tiên, trong mối quan hệ cộng đồng - xã hội, người Việt Nam bộc lộ nhiều cách ứng xử thiếu văn hoá với thành viên khác trong xã hội và đối với giới tự nhiên. Kết quả cuộc khảo sát năm 2018 (Bảng 9) liệt kê được 9 hành vi ứng xử thiếu văn hoá của một phận người dân. Bảng 9 Cách ứng xử thiếu văn hoá với cộng đồng và giới tự nhiên của người dân Cách ứng xử thiếu văn hoá N % 1. Xả rác 2835 13.3 2. Hút thuốc lá 2712 12.8 3. Phóng uế 2451 11.5 4. Phun nước bọt 2196 10.3 5. Nói lớn tiếng, ồn ào 2378 11.2 6. Chen lấn 2606 12.3 7. Cãi cọ lớn tiếng, quát tháo 1734 8.2 8.Văng tục, chửu thề 2337 11.0 9. Dùng bạo lực giải quyết mâu thuẫn 2002 9.4 Tổng 21251 100.0 Nguồn: Kết quả khảo sát
  12. 32 Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 Tất nhiên những hành vi này đâu chỉ có trong xã hội truyền thống mà hiện tại vẫn còn day dẳng, có điều, sự khác biệt chính là mức độ có phần trầm trọng hơn. Không phải bây giờ mà cách đây một thế kỷ, thi sĩ Tản Đà - cây bút uyên thâm bác cổ, thạo Đông học và Tây học ngẫm về đất nước mà cay xót, dự cảm và thốt lên: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn/ Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con” cũng chính một phần do lối hành xử tiểu nông và xấu xí của một bộ phận người dân nước ta. Trong công trình Người Việt tự ngắm mình, Nguyen, D. H. (2003) đã mạnh dạn đề cập và bàn luận một cách sâu sắc, toàn diện về cái hay, cái dở trong hành vi, ứng xử của người Việt. Đáng chú ý là 22 thói hư, tật xấu như “ngồi xổm, mặc quần áo ngủ ra đường”, “ăn nhanh, đi chậm, đái đường, hôn bụi dậm”, “ăn vặt, khôn vặt, dâm vặt, gian vặt”, “thể hiện nhiều, thực hiện kém”,… Kế đến, để thấy rõ hơn những chuyển biến và mức độ nghiêm trọng về chủ đề này, tác giả chỉ chọn ra một số quan hệ xã hội cụ thể mà cảm quan cho rằng có tính nổi bật, tiêu biểu từ kết quả điều tra của đề tài để tập trung bình luận như hiện tượng sống thử, quan hệ tình dục trước hôn nhân, hiện tượng ngoại tình, tình yêu đồng giới, mê tín và bạo lực học đường. Thái độ đối với một số hiện tượng xã hội này được khảo sát năm 2018 và tổng hợp ở Bảng 10 và 11 dưới đây. Nhìn chung, xã hội hiện đại ngày nay vẫn bày tỏ thái độ chưa cởi mở khi phần đa ý kiến được khảo sát đều rất không đồng tình với chuyện ngoại tình (75,5%), sống thử (48,3%), tình yêu đồng giới (42,3%) và quan hệ tình dục trước hôn nhân (37,2%). Có lẽ căn nguyên của thái độ có phần cự tuyệt với hiện tượng này trong đời sống xã hội hiện nay như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng bàn luận: “Ba trụ cột của ý thức cộng đồng người Việt, đó là gia đình (nhà), làng và nước. Ngày nay, xây dựng một xã hội công bằng, văn minh đòi hỏi chúng ta phải trở lại với những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp từ gia đình” (Nghiem, 2014). Bảng 10 Thái độ của người dân trước một số hiện tượng/ quan hệ xã hội (%) Quan hệ tình dục Tình yêu Thái độ/hiện tượng Sống thử Ngoại tình trước hôn nhân đồng giới 1.Rất đồng tình 2.6 3.6 0 6.1 2.Đồng tình 17.4 27.3 0.4 6.4 3.Rất không đồng tình 48.3 37.2 75.5 42.3 4. Không ý kiến 31.7 31.9 24.1 45.3 5. Tổng 100.0 100.0 100.0 100.0 Nguồn: Kết quả khảo sát Bên cạnh đó, kết quả điều tra cũng cho thấy mức độ phổ biến trong đời sống xã hội của mê tín (38,4%), hay nạn bạo lực học đường (43,8%). Điều này đang gióng lên hồi chuông về thách thức trong xã hội hiện đại. Ở góc độ nào đó, hiện đại hoá và các giá trị tân thời chưa thể đẩy lùi các hiện tượng mê tín, tâm linh cực đoạn mà xã hội thời gian qua lên án như mua thánh bán thần, cuồng tín,… nhưng đồng thời cũng cho thấy, ở mặt khác, hiện đại hoá, mặt trái của xâm lăng văn hoá đang là nguyên nhân gia tăng tính cực đoạn, bạo lực, phi nhân tính cũng như “rạn nứt” trong các quan hệ ứng xử giữa cá nhân - cá nhân, nhóm - nhóm trong cộng đồng, quốc gia như bạo lực bạn học, vụ thảm sát thương tâm, hiện tượng vô cảm,… mà phương tiện truyền thông, báo chí đã đưa tin gần đây.
  13. Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 33 Bảng 11 Mức độ xuất hiện của một số hiện tượng/ quan hệ xã hội (%) Mức độ xuất hiện/ hiện tượng Mê tín Bạo lực học đường 1. Rất phổ biến 13.4 6.3 2. Phổ biến 38.4 43.8 3. Ít phổ biến 25.9 40.3 4. Không phổ biến 16.4 5.5 5. Khó xác định 6.0 4.2 Tổng 100.0 100.0 Nguồn: Kết quả khảo sát 4. Một số vấn đề đặt ra nhằm hoàn thiện chế định bắt buộc trước biến đổi của đời sống xã hội nước ta hiện nay Một là, thu nhập của người dân có tăng nhưng mức sống chuyển biến còn chậm, chưa tương xứng. Kết quả khảo sát tiến hành năm 2018 ở 8 tỉnh, thành phố cho thấy phần đa người dân cảm nhận mức độ cải thiện thu nhập còn chậm. Để khắc phục vấn đề này, thiết nghĩ nhà nước cần quan tâm mấy nội dung sau: (i). Quan tâm hơn đến tính hiệu quả của chính sách kinh tế, tạo nhiều điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, mạnh, xem đây là đòn bẩy tăng thu nhập và mức sống cho người dân cũng như tái phân bổ hợp lí nguồn lực xã hội. Ở giác độ hoàn thiện chế định bắt buộc, cần thiết đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nhà nước, trọng tâm là cải cách thể chế, thủ tục hành chính - vốn được xem là rào cản lớn trong phát triển kinh tế nước ta. Ngoài ra, cần kiến tạo hệ thống thể chế có tính định hướng, dẫn dắt và là bệ đỡ thúc đẩy phát triển bền vững, tăng trưởng bao trùm, kiểm soát và khắc chế các tồn tại lâu nay; đồng thời có khả năng giải quyết các vấn đề mới từ tồn tại xã hội cả nông thôn và khu vực thành thị (tập trung, tích tụ ruộng đất, nông nghiệp công nghệ cao,…) của nền kinh tế thông qua như xây dựng chính sách phát triển kinh tế số, xây dựng quốc gia số, quốc gia thông minh,… (ii). Chú trọng xây dựng giải pháp tổng thể để giải quyết vấn “đề thu nhập - mức sống”: Đối với khu vực nông thôn, cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, khu vực thành thị có thêm các giải pháp xoá nghèo bền vững, quan tâm (thông qua) kiến tạo cơ chế từng bước tạo quyền bình đẳng trong thụ hưởng dịch vụ cơ bản cuộc sống cho nhóm người nhập cư, thu nhập thấp, yếu thế (chẳng hạn, nới lỏng tiến tới bãi bỏ chế độ “hộ khẩu”),… Hai là, thờ ơ hoặc hiểu biết ít sâu sắc, đầy đủ về đời sống chính trị của một bộ phận dân cư hiện nay vẫn còn khá phổ biến. Từ thực tiễn nghiên cứu, các cơ quan hữu quan cần quan tâm hơn công tác truyền thông rộng để nâng cao nhận thức chính trị, trách nhiệm chính trị trong nền dân chủ mới. Điều này đòi hỏi không chỉ mở rộng về quy mô mà còn đa đang về hình thức, nâng cao chất lượng nội dung truyền thông. Một mặc cần chú trọng phát truyền phương thức truyền thông truyền thống nhưng ở phương thức, giao diện mới của truyền hình, báo đài như có thêm kênh, chương trình mới, có báo mạng bên cạnh báo in,… đồng thời chú ý quy hoạch và quản lý hệ thống báo chí quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, chú ý sử dụng có hiệu quả thành tựu công nghệ thông tin, sự phát triển mạng xã hội, … để nắm bắt, định hướng dư luận trong thế
  14. 34 Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 giới phẳng, đa chiều như hiện nay. Ba là, nhận thức về các tiêu cực, lệch lạc chuẩn mực xã hội có nhiều đổi khác, đặc biệt về quốc nạn tham nhũng. Qua nghiên cứu, ở một số hiện tượng mới trong quan hệ xã hội chẳng hạn sống thử, ngoại tình, bạo lực học đường, tình yêu đồng giới hay hiện tương mê tín,… người dân có xu hướng kiên quyết bài trừ. Tuy vậy, đối với quốc nạn tham nhũng, khảo sát cũng cho thấy một bộ phận người dân có phần công khai thừa nhận nó nhự tất yếu và có sự thoả hiệp cần có trong xã hội ngày nay. Đồng thời, người dân cũng chỉ ra căn nguyên chủ yếu của nạn tham nhũng trong đó 03 vấn đề chính xoay quanh: (1). Chế độ lương bổng, (2). Hệ thống thể chế và (3). Đạo đức công vụ. Do vậy, để ngăn ngừa và phòng chống có hiệu quả tham nhũng cần tập trung hoàn thiện trước mắt về thể chế, cơ chế, chính sách cho 3 trụ cột này. Thời gian qua, Đảng và Quốc hội đã có nhiều nỗ lực trong chống tham nhũng như: Sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 với nhiều quy định mới, ban hành Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, Quyết định 733/QĐ-TTg ngày 14/6/2019 về thực hiện phong trào thi đua văn hoá công sơ trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hay cơ cấu lại cơ quan phòng chống tham nhũng từ trung ương đến cơ sở,… Hiện tại, hệ thống công cụ, chế tài cơ bản đã đủ song cốt lõi vẫn là khâu triển khai và kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện các văn bản này. Bốn là, nguy cơ rạn nứt quan hệ xã hội nền tảng, đặc biệt từ đơn vị tế bào của xã hội - quan hệ giữa thành viên trong gia đình và họ tộc. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đang có sự lỏng lẻo và dần rạn nứt trong quan hệ vốn rất bền chặt trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, người thân. Khảo sát cho thấy việc gặp gỡ bạn bè không phải là ưu tiên số 1 trong quỹ thời gian rảnh của người dân (xếp sau chat trên mạng, chơi game hay mua sắm,…). Thời gian dành cho gia đình, gặp gỡ bạn bè vào dịp lễ, tết tuy có tỉ lệ cao hơn các hoạt động khác nhưng nó không cho thấy sự “ưu tiên đặc biệt” ở đây. Phải chăng, lối sống hiện đại và bận rộn đang khiến cho đời sống gia đình và nhận thức của người dân về gia đình có những biến đổi nhất định? Năm là, trong ứng xử với thế giới bên kia, tâm linh, sự cuồn tín là điều dễ nhận thấy và đáng lo lắng. Người dân, nhất là khu vực nông thôn tham gia sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng ngày càng nhiều bên cạnh các hoạt động bói toán, nhờ thầy phong thuỷ khi giải quyết chuyện hiếu, chuyện hỉ, đất cát, nhà cửa,… trong gia đình. Đáng nói là việc cuồng tin và lạm dụng, làm sai lệch nét đẹp văn hoá tâm linh, hiện tượng mua thánh bán thần, lộn xộn trong tham gia lễ hội,… đang cho thấy sự lệch lạc nhất định trong lĩnh vực này của người dân. Để giải quyết thực trạng này, ngoài chế định bắt buộc của cơ quan quản lý thì vai trò, tiến nói của công luận, các thiết chế tôn giáo, thiết chế tự quản, hội - nhóm,… nếu được khai thác tốt sẽ phát huy hiệu quả của mình. Sáu là, bước tiến về bình đẳng giới và chống bạo hành vẫn còn khoảng cách xa so với kỳ vọng. Công tác thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực đang cho thấy sự nỗ lực lớn của Việt Nam với nhiều gam màu “sáng”. Thành tựu có, song thực tế tỉ lệ bình đẳng giới còn thấp, nhận thức bình đẳng giới trong một bộ phận dân cư vẫn chưa đầy đủ, hoặc thờ ơ hoặc xem nhẹ. Đối với bạo hành gia đình: Tuy tỉ lệ khảo sát cho thấy tỉ lệ không quá cao nhưng thực tế vẫn còn dai dẳng. Do đó, thời gian tới, về hoàn thiện hệ thông chế định bắt buộc về lĩnh vực này, cần quan tâm: (1). Rà soát, loại bỏ các điểm chưa thống nhất, mâu thuẫn trong thực thi pháp luật về bình đẳng giới (chẳng hạn giữa Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Phòng chống bạo lực gia đình và các nghị định, thông tư hướng dẫn); (2). Chú trọng xây dựng chế định phòng chống bất bình đẳng giới như tại nơi làm việc, công sở, doanh nghiệp ngoài quốc doanh; phòng chống buôn bán người, phụ nữ, trẻ em (hiện nay là thiện tượng mang thai hộ), xâm hại tình dục nơi công sở,… (3). Chế định chặt chẽ hơn về trách nhiệm của cấp uỷ, người đứng đầu chính quyền, đoàn thể trong việc đảm bảo bình đẳng giới tiến tới xoá bỏ bạo lực gia đình,…
  15. Nguyễn H. Hoàng, Nguyễn Đ. Phú. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 21-35 35 Bảy là, thói hư, tật xấu người Việt trong cách cư xử với nhau và với tự nhiên vẫn kéo dài day dẳng, có mặt biểu hiện nghiêm trọng hơn. Các chế định bắt buộc trong trường hợp này gần như đầy đủ. Tuy nhiên, nếu chỉ quản lý dựa vào chúng hiệu quả khó đạt được. Thiết nghĩ, cần kết hợp chế tài mạnh với việc giáo dục, tạo dư luận lên án hành vi này; đồng thời, phát huy thiết chế nhà trường, gia đình, thiết chế tự quản như khu phố, tổ dân phố và đoàn thể trong tham gia giáo dục, kiểm soát các hành vi lệch lạc này trong xã hội trong thời gian tới. 5. Kết luận Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ đến lối sống của người dân nước ta. Kết quả nghiên cứu 3.600 người dân trên 8 tỉnh, thành năm 2018 cho thấy, một mặt dân ta ra sức gìn giữ những lối sống cổ truyền tốt đẹp, một mặt tiếp thu có chọn lọc, tiếp biến lối sống mới một cách có chủ động, hợp thời nhưng thực tế đang cho thấy có sự chuyển biến mạnh mẽ trong lối sống một cách cực đoan, thái quá, lệch vơi chuẩn mực xã hội của một bộ phận dân cư cả trên nhân thức và hành vi của các lĩnh vực đời sống xã hội. Biến đổi lối sống như đã phân tích là quy luật tất yếu khó cưỡng lại được. Việc nắm bắt và nhìn nhận thấu đáo quá trình, hệ quả biến chuyển này có ý nghĩa quan trọng trong quản lý phát triển xã hội hiện nay mà các nhà lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách cần quan tâm. Tài liệu tham khảo Phan, B. K. (2001). Việt Nam phong tục [Vietnamese customs]. Hanoi, Vietnam: Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin. Nguyen, C. T. (1996). Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người [Contributing to cultural and ethnic research]. Hanoi, Vietnam: Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin. Nguyen, D. H. (2003). Người Việt tự ngắm mình [Vietnamese contemplate themselves]. Hanoi, Vietnam: NXB Thanh Niên. Mai, H. V. (2012). Quan hệ dòng họ và những quan niệm khác nhau về vai trò của nó [Lineages relations and various notions about its role]. Tạp chí Văn hoá văn nghệ online. Retrieved April 5, 2020, from http://www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/4787- quan-he-dong-ho-va-nhung-quan-niem-khac-nhau-ve-vai-tro-cua-no Nghiem, N. T. (2014). Một số biến đổi của văn hoá gia đình Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá [Vietnamese family culture’s amendments in the globalization context]. Tạp chí Cộng sản điện tử. Retrieved April 10, 2020, from http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh- luan/2014/30264/Mot-so-bien-doi-cua-van-hoa-gia-dinh-Viet-Nam-trong.aspx. Tran, T. (1984). Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ [The organizational structure of the traditional Vietnamese village in the North]. Hanoi, Vietnam: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
nguon tai.lieu . vn