Xem mẫu
- BÀN VỀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ
CỦA TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH HIỆN NAY
TS. VŨ THỊ NHÀI
M ục tiêu chung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2001-2010 là xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo
nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của
công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ
bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Có thể nói về cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính cơ bản đã đi vào hoàn thiện.
Cơ sở để minh chứng cho vấn đề này là:
1. Tổ chức bộ máy hành chính ở Trung ương
Một trong bốn nội dung chính của Chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước là cải cách tổ chức bộ máy hành chính, trong đó nhấn mạnh đến việc điều
chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp để phù hợp với yêu cầu quản lý nhà
nước trong tình hình mới đó là: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ tập trung thực
hiện chức năng xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, chính sách, quản lý vĩ mô đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện; Phân định rõ thẩm
quyền và trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; trách nhiệm của tập thể và trách
nhiệm cá nhân trong cơ quan hành chính các cấp; định rõ vai trò, chức năng và trách
nhiệm của chính quyền địa phương các cấp phù hợp với yêu cầu đổi mới sự phân cấp
quản lý hành chính giữa Trung ương và địa phương, gắn với các bước phát triển của
cải cách kinh tế. Theo đó, từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm
nhiệm để khắc phục những chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ. Chuyển
cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những công
việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực
hiện.
Đối với việc bố trí lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhằm xây dựng cơ cấu tổ
chức của Chính phủ gồm các bộ, cơ quan ngang bộ làm chức năng quản lý nhà nước.
- Trên cơ sở xác định, điều chỉnh chức năng của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ
phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại, về mối quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực trong tình
hình mới mà định lại số lượng và cơ cấu các bộ, cơ quan ngang bộ, làm cho bộ máy
của Chính phủ gọn nhẹ, chức trách rõ ràng, làm việc khoa học, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả. Điều chỉnh tổ chức các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước cho phù
hợp với cơ cấu của Chính phủ. Đổi tên một số bộ, cơ quan ngang bộ cho phù hợp với
nội dung và phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước; giảm mạnh các cơ quan thuộc
Chính phủ và tổ chức trực thuộc Chính phủ. Chỉ duy trì một số ít cơ quan thuộc Chính
phủ có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho công việc quản lý vĩ mô của
Chính phủ; định rõ tính chất, phương thức hoạt động của các tổ chức tư vấn do Thủ
tướng Chính phủ thành lập. Chỉ thành lập các tổ chức này khi Chính phủ có yêu cầu
chỉ đạo tập trung những nhiệm vụ quan trọng liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực. Các tổ chức này không có bộ máy chuyên trách và biên chế riêng, bộ phận
thường trực đặt tại bộ hoặc cơ quan ngang bộ có liên quan nhiều nhất; trên cơ sở xác
định đúng chức năng quản lý nhà nước và phạm vi quản lý của mỗi bộ, cơ quan ngang
bộ, tách chức năng quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ đối với toàn ngành,
lĩnh vực trong phạm vi cả nước với việc chỉ đạo, điều hành các tổ chức sự nghiệp có
tính chất dịch vụ công trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ.
Việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được nhấn mạnh như: Tách chức năng quản lý nhà
nước của bộ, cơ quan ngang bộ đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước với
chức năng điều hành các tổ chức sự nghiệp công trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ;
theo đó, tách tổ chức hành chính với tổ chức sự nghiệp công để hoạt động theo các cơ
chế riêng, phù hợp, có hiệu quả; cơ cấu lại tổ chức bộ máy bên trong của bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, làm cho bộ máy tinh gọn, hợp lý, tương xứng với
chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước của mỗi cơ quan; định rõ tính chất và các loại
hình tổ chức trực thuộc để tham mưu và thực thi pháp luật.
Thực hiện những nội dung trên, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội XII đã biểu
quyết phê chuẩn đề án cơ cấu Chính phủ nhiệm kỳ XII với 95,13% đại biểu Quốc
hội tán thành, cơ cấu này gồm có 18 bộ là: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
(sáp nhập hai bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Thủy sản), Bộ Công
thương (sáp nhập Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại), Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch (điều chuyển chức năng của Uỷ ban Thể dục Thể thao, Tổng cục Du lịch và
mảng Văn hóa của Bộ Văn hóa Thông tin), Bộ Thông tin và Truyền thông (sáp nhập
chức năng quản lý báo chí, xuất bản của Bộ Văn hóa - Thông tin với Bộ Bưu chính -
- Viễn thông), Bộ Tài nguyên -Môi trường (được giao thêm chức năng quản lý biển),
Bộ Quốc phòng; Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ
Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Khoa học - Công
nghệ, Bộ Giáo dục, Bộ Y tế; 4 cơ quan ngang bộ là: Ủy ban Dân tộc; Ngân hàng Nhà
nước; Thanh tra Chính phủ và Văn phòng Chính phủ được giữ như nhiệm kỳ khóa XI.
Bám sát cơ cấu tổ chức Chính phủ nhiệm kỳ XII, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Nghị định số 08/NĐ- CP ngày 8/8/2007 về việc chuyển Ban Thi đua- Khen thưởng
Trung ương, Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Cơ yếu Chính phủ vào Bộ Nội vụ; Nghị
định số 09/NĐ- CP ngày 8/8/2007 về việc chuyển Tổng cục Du lịch vào Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, Nghị định số 178/2007/NĐ- CP ngày 3/12/2007 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ; Nghị định
số 189/2007/NĐ- CP ngày 27/12/2007 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Bộ Công thương; Nghị định số 188/2007/NĐ- CP ngày 27/12/2007
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế; Nghị định
số 187/2007/NĐ- CP ngày 25/12/2007 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Bộ Thông tin và Truyền thông; Nghị định số 186/2007/NĐ- CP
ngày 25/12/2007 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Lao động- Thương binh và Xã hội; Nghị định số 185/2007/NĐ- CP ngày 25/12/2007
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch; Nghị định số 01/2008/NĐ- CP ngày 3/1/2008 quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Nghị định số 15/2008/NĐ- CP ngày 4/2/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao; Nghị định số 16/2008/NĐ- CP ngày
4/2/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Đài Tiếng
nói Việt Nam; Nghị định số 17/2008/NĐ- CP ngày 4/2/2008 quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng; Nghị định số
18/20008/NĐ- CP ngày 4/2/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Đài Truyền hình Việt Nam; Nghị định số 24/2008/NĐ- CP ngày 3/3/2008
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thông tấn xã Việt
Nam; Nghị định số 25/2008/NĐ- CP ngày 4/3/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường; Nghị định
28/2008/NĐ- CP ngày 14/3/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Khoa học và Công nghệ; Nghị định 32/2008/NĐ- CP ngày 19/3/2008
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ giáo dục và Đào
- tạo; Nghị định 33/2008/NĐ- CP ngày 19/3/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Chính phủ...
Điều cần nhấn mạnh ở đây là các quy định trong các Nghị định đều rất sát với
tình hình thực tế của từng đơn vị trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng
được tình hình nhiệm vụ đặt ra đối với bộ máy hành pháp khối Trung ương hiện nay.
2. Tổ chức bộ máy hành chính ở địa phương
Cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở:
Quy định các tiêu chí cụ thể đối với từng loại đơn vị hành chính để đi đến ổn định,
chấm dứt tình trạng chia, tách nhiều; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở phân cấp rõ ràng và hợp lý giữa
Trung ương và địa phương, phân biệt chức năng, nhiệm vụ của chính quyền đô thị với
chính quyền ở nông thôn; tổ chức hợp lý HĐND và UBND ở từng cấp căn cứ vào quy
định của Hiến pháp (sửa đổi) và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND (sửa
đổi); Sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp theo hướng
trách nhiệm rõ ràng, phân công rành mạch, bộ máy gọn nhẹ, tăng cường tính chuyên
nghiệp, giải quyết nhanh công việc của cá nhân và tổ chức. Theo tinh thần này Thủ
tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 13/2008/NĐ- CP ngày 4/2/2008 quy định
tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; 14/2008/NĐ- CP ngày 4/2/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Hai Nghị định quy định rõ việc
tổ chức thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ 15 ngày sau khi đăng công báo.
Với cách tổ chức cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính khá khẩn trương, nhanh
chóng được minh chứng trên đã tác động trực tiếp đến phương thức quản lý, lề lối
làm việc của cơ quan hành chính các cấp hiện nay theo chiều hướng tích cực, luôn
nhận được sự đồng tình ủng hộ cao của các tầng lớp nhân dân. Với cơ cấu bộ máy
mới này được xác định rõ các nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp trong sự vận
hành bộ máy hành chính. Định rõ phận sự, thẩm quyền và trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, đơn vị về kết quả hoạt động của bộ máy do mình phụ trách; loại
bỏ những việc làm hình thức, không có kết quả thiết thực, giảm hội họp, giảm giấy
tờ hành chính. Tăng cường trách nhiệm và năng lực của cơ quan hành chính trong giải
quyết công việc của cá nhân và tổ chức.
Việc hiện đại hoá nền hành chính còn cho thấy: Hiện nay việc triển khai ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính
nhà nước đang được áp dựng khá triệt để; đặc biệt là việc áp dụng các công cụ,
phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại trong các cơ quan hành chính nhà nước đã tạo
ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy và phong cách làm việc của đội ngũ cán
- bộ, công chức thời kỳ mới. Trụ sở và phương tiện làm việc bảo đảm nhiệm vụ quản
lý; mạng tin học diện rộng của Chính phủ sẽ được thiết lập tới cấp xã trong thời gian
tới là những kết quả vượt bậc, là sự nỗ lực không ngừng, bám sát thực tế, quyết tâm
cao của đội ngũ những người đứng đầu các cơ quan hành chính hiện nay.
3. Các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của tổ chức bộ máy hành
chính
- Thường xuyên chú trọng đến việc củng cố cơ cấu tổ chức của từng bộ máy
từ Trung ương đến cấp huyện để thống nhất nhất quán về quan điểm, thông suốt và
nâng cao về chuyên môn.
- Tăng cường công tác chỉ đạo điều hành. Điều này đòi hỏi quyết tâm chính trị
cao của các cấp uỷ Đảng. Trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính
phải tổ chức điều hành quyết liệt, bám sát thực tế, bám sát các Nghị định đã ban hành
để triển khai nhanh, thống nhất và triệt để.
- Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy hành chính phải gắn với đổi mới hệ thống
chính trị. Điều này thể hiện sự nhất quán, Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động
của bộ máy hành chính, bộ máy hành chính là công cụ quan trọng thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng từ Trung ương đến địa phương.
- Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy hành chính không được dừng lại mà phải
thường xuyên kiện toàn, củng cố và hoàn thiện theo hướng nâng cao chất lượng, khắc
phục sự thụ động trong công việc, phải chủ động, sáng tạo, vận dụng linh hoạt đúng
những quy định của các Nghị định đã ban hành sao cho phù hợp với từng đặc điểm,
hoàn cảnh. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà
nước.
- Tăng cường tính công khai, minh bạch những việc mà tiến trình cải cách tổ
chức bộ máy hành chính đang tiến hành thực hiện để nhận được ủng hộ của đội ngũ
cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân trên phạm vi cả nước và cả bạn bè quốc
tế.
- Bố trí đủ nguồn tài chính và nhân lực để thực hiện tốt những phần việc còn
lại của quá trình hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính hiện nay phấn đấu đến năm
2009 là xong nội dung này.
- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng về những kết quả đã đạt được của công cuộc cải cách hành chính. Phải coi cải cách
hành chính không chỉ là công việc riêng của hệ thống hành chính, mà là yêu cầu chung của
toàn xã hội. Đặc biệt là bước cải cách tổ chức bộ máy hành chính mới đang được hoàn
- thiện từ Trung ương đến địa phương. Vì vậy, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến thông tin để mọi cán bộ, công chức, người dân nhận thức đúng đắn về cải cách bộ
máy nhà nước và cải cách hành chính đang được tiến hành hiện nay đang mang lại hiệu
quả kinh tế - xã hội đích thực. Theo đó, nêu bật những nơi làm tốt, những vướng mắc
chưa thể tháo gỡ được ngay đối với tính đặc thù của từng bộ, ngành, địa phương, báo cáo
lên cấp trên để có hướng giải quyết kịp thời. Tích cực nhân điển hình tiên tiến, những nơi
làm tốt, thực hiện nghiêm, phê phán kịp thời tình trạng làm không triệt để. Cần có những
biện pháp thiết thực để thực hiện quyền giám sát của cán bộ công chức và nhân dân đối
với hoạt động của bộ máy hành chính ngay chính tại các bộ ngành và địa phương./.
nguon tai.lieu . vn