Xem mẫu

  1. BÀI TÓM TẮT QUỸ PHÒNG HỘ (HEDGE FUND) Chủ đề chính của bài nghiên cứu này là Quỹ phòng hộ (Hedge Fund): Là một loại hình trung gian tài chính nhằm cung cấp cho nhà đầu tư phương tiện bảo vệ và phát triển vốn, là giai đoạn 3 trong chu trình phát triển của các nhà môi giới đầu tư sau ngân hàng thương mại và quỹ tương hỗ. Bài nghiên cứu này gồm ba Chương: Chương 1: Các thể chế pháp luật điều tiết quỹ phòng hộ. Phần này bao gồm các nội dung chính sau: A. Cấu trúc Quản trị phi doanh nghiệp Quỹ phòng hộ gồm ba chủ thể chính là nhà đầu tư, quỹ và công ty tư vấn/quản lý đầu tư và thường được tổ chức dưới dạng công ty hội viên hữu hạn hay công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH). Quỹ phòng hộ hội viên hữu hạn gồm có hai loại hội viên đó là hội viên chịu trách nhiệm hữu hạn và hội viên chung. B. Thỏa thuận Hoạt động của Quỹ Phòng hộ 1. Lợi ích của quản lý quỹ phòng hộ Ban quản lý quỹ phòng hộ và công ty tư vấn được hưởng phí quản lý, thông thường khoảng 1 – 2% giá trị tài sản ròng của quỹ và giá trị này có thể được tính định kỳ theo tháng hoặc quý. Các thỏa thuận hoạt động của quỹ bao gồm các điều khoản quy định lợi ích của nhà quản lý quỹ dựa trên kết quả hoạt động hàng năm của quỹ mà họ đã tư vấn. Phí dựa trên kết quả hoạt động của quỹ phòng hộ chiếm khoảng 15 – 20% lợi nhuận sau khi trừ lỗ lũy kế và phí quản lý. Phí kết quả hoạt động của quỹ phòng hộ bị hạn chế bởi hai loại điều khoản là chỉ tiêu “mực nước cao” và chỉ tiêu “suất lợi nhuận”. 2. Hạn chế về thanh khoản cổ phiếu Quỹ phòng hộ phần lớn không cho phép nhà đầu tư chuyển nhượng cổ phiếu của quỹ hay bán lại. Quỹ này chỉ cho phép nhà đầu tư rút vốn theo chu kỳ có thể theo tháng, quý hoặc năm và nhà đầu tư phải báo trước 30 – 90 ngày trước khi rút vốn. Ngoài ra Quỹ phòng hộ còn áp dụng giai đoạn “đóng”: là khoảng thời gian nhà đầu tư không được phép rút vốn sau khi vốn này đã được góp vào quỹ. Quỹ phòng hộ hạn chế chuyển nhượng cổ phiếu vì các lý do: − Thứ nhất, hạn chế chuyển nhượng có thể có lợi cho quỹ về dài hạn do chuyển nhượng vốn tại một thời điểm cụ thể có thể làm gián đoạn hoạt động và có thể không phù hợp với mục tiêu đầu tư hay chiến lược mua bán của quỹ. − Thứ hai, hạn chế bán lại cổ phiếu quỹ nhằm đáp ứng các yên cầu của luật liên bang về tăng vốn. − Thứ ba, quỹ phòng hộ hạn chế mua bán cổ phiếu quỹ do đó sẽ không bị xếp loại như là công ty hội viên cổ phần công chúng và do đó không phải trả thuế doanh nghiệp cao hơn. 1
  2. C. Luật Công ty Đầu tư và Tư vấn Đầu tư 1. Luật Công ty Đầu tư Luật Công ty được ban hành sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1929. Luật Công ty yêu cầu tất cả các công ty đầu tư phải đăng ký, các công ty này được định nghĩa là “có hoạt động kinh doanh đầu tư, tái đầu tư hoặc kinh doanh chứng khoán”. Theo Luật này, Quỹ phòng hộ có thể được phân loại là “công ty đầu tư” ngoại trừ: − Có hơn 100 nhà đầu tư và cổ phiếu chỉ được bán riêng lẻ. − Quỹ này chỉ bán chứng khoán cho các “người mua đủ năng lực” thông qua bán riêng lẻ. Một chủ thể thỏa mãn điều kiện “người mua đủ năng lực” nếu chủ thế này phải sở hữu khoản đầu tư không dưới 5 triệu đôla Mỹ. 2. Luật Công ty tư vấn Đầu tư Theo Luật Tư vấn, các công ty quản lý quỹ phòng hộ được phân loại là các “nhà tư vấn đầu tư” do nhà tư vấn đầu tư được định nghĩa là bất kỳ chủ thể tham gia kinh doanh tư vấn cho các chủ thể khác về phương thức mua hay bán các loại chứng khoán. Tuy nhiên công ty quản lý quỹ phòng hộ có thể được miễn trừ theo luật Tư vấn nếu công ty này đủ năng lực là một nhà tư vấn cá nhân. Luật Tư Vấn cấm công ty quản lý quỹ không được gian lận hoặc báo cáo sai lệch trong chiến lược đầu tư, kinh nghiệm và rủi ro của quỹ cũng như trong định giá tài sản quỹ. Các công ty quản lý quỹ có đăng ký phải công bố các thông tin cơ bản về công ty quản lý trên ADV cho các nhà đầu tư hay cho Ủy ban chứng khoán (SEC), bao gồm các thông tin về chiến lược đầu tư cùng với các số liệu quan trọng về điều kiện tài chính của công ty quản lý quỹ. D. Quy định chứng khoán Quỹ phòng hộ chịu sự ràng buộc của luật chứng khoán liên bang do hai lý do chính sau: − Quỹ phòng hộ gọi vốn đầu tư thông qua phát hành chứng chỉ quỹ hoặc chứng chỉ hội viện TNHH. Những chứng chỉ này được xem là “chứng khoán” theo Luật Chứng Khoán. − Vì đóng vai trò là người mua và người bán chứng khoán của các công ty có trụ sở ở Mỹ, quỹ phòng hộ phải tuân thủ các nghĩa vụ phát sinh kinh doanh chứng khoán. 1. Huy động vốn đầu tư Trong huy động vốn đầu tư, quỹ phòng hộ đóng vai trò người phát hành cũng như người bán chứng khoán và do đó chịu sự ràng buộc của các điều khoản luật chống gian lận của Bộ Luật Chứng Khoán và Sàn Giao Dịch. Những định chế pháp luật này nghiêm cấm báo cáo sai lệch, các hành vi gian lận và cố tình bỏ sót nghiêm trọng. Tuy nhiên, quỹ phòng hộ huy động vốn mà không phải đăng ký và chịu trách nhiệm công bố thông tin như các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng vẫn phải làm. Quỹ phòng hộ phát hành chứng khoán theo hai điều kiện về đăng ký và công bố thông tin của Luật Chứng Khoán và được gọi là “phát hành cá nhân”. 2. Kinh doanh chứng khoán có đăng ký Tất cả các quỹ phòng hộ và công ty quản lý quỹ phải công bố thông tin về cổ phiếu đầu tư ở các công ty công chúng. Quỹ phòng hộ sở hữu hơn 100.000.000 USD giá trị cổ phiếu trên một sàn giao dịch quốc gia thì phải báo cáo UBCK định kỳ quý về giá trị cổ phiếu nắm giữ của quỹ. Chương 2: Phát kiến tài chính, rủi ro thị trường và quản trị Quỹ dự phòng 2
  3. Phần này bao gồm các nội dung chính sau: A. Phát kiến tài chính Phát kiến tài chính là một trong các mục tiêu chung của hệ thống tài chính nhằm giảm rủi ro cũng như giảm chi phí giao dịch đầu tư. Các phát kiến tài chính làm đồng vốn của nhà đầu tư bảo toàn và sinh lợi. B. Hình thức sáng tạo của Quỹ Phòng hộ 1. Đầu tư và Đa dạng hóa Lợi nhuận cao cũng đồng nghĩa rủi ro cao, rủi ro cao hơn có thể tạo ra lợi nhuận cao do nhà đầu tư phải được đền bù thỏa đáng cho việc chấp nhận rủi ro. Vì vậy, nhà đầu tư tìm kiếm cách tối đa hóa tỷ suất lợi nhuận sau khi điều chỉnh rủi ro. Rủi ro đầu tư gồm hai thành phần chính đó là rủi ro đặc thù và rủi ro thị trường (hay rủi ro hệ thống). Việc đa dạng hóa danh mục đầu tư sẽ hạn chế rủi ro đầu tư trong khi không làm giảm tỷ suất lợi nhuận. Đa dạng hóa bao gồm đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau của các công ty khác nhau và nhiều loại tài sản. Đa dạng hóa hạn chế rủi ro phát sinh do tính tương quan của càng nhiều chứng khoán sẽ thấp hơn so với ít loại. Nếu danh mục đầu tư được đa dạng hóa hoàn hảo thì toàn bộ rủi ro còn lại là rủi ro thị trường. Do đó rủi ro của danh mục đầu tư không còn là rủi ro đặc thù của từng loại chứng khoán mà là rủi ro tổng hợp của toàn bộ danh mục đầu tư. 2. Chi phí giao dịch và Rủi ro đặc thù Dạnh mục đầu tư tối ưu nhằm giảm thiểu chi phí giao dịch. Nhà đầu tư với số vốn nhỏ phải chịu chi phí giao dịch cao nếu muốn đa dạng hóa bằng đầu tư trực tiếp vào nhiều công ty khác nhau. Các trung gian tài chính như ngân hàng, quỹ tương hỗ và quỹ phòng hộ giảm chi phí giao dịch bằng việc tận dụng các kỹ năng và nguồn lực chuyên môn để đưa ra các lựa chọn cho các nhà đầu tư. 3. Chiến lược đầu tư của Quỹ phòng hộ và Rủi ro thị trường Các chiến lược quỹ phòng hộ sử dụng: − Chiến lược tìm kiếm lợi nhuận dựa trên chênh lệch giá giữa trái phiếu chuyển đổi của một công ty và cổ phiếu của công ty đó. − Chiến lược thu nhập cố định. − Chiến lược sự kiện tìm kiếm lợi nhuận từ các sự kiện bất thường của công ty như sáp nhập hay phá sản hoặc đầu tư vào các loại chứng khoán đang gặp khó khăn. − Chiến lược đầu tư định hướng tìm kiếm lợi nhuận từ các xu hướng chính của thị trường. − Chiến lược sử dụng những phát kiến về công cụ nợ có thế chấp và hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng. Các chiến lược đầu tư sáng tạo của quỹ phòng hộ có tác dụng làm giảm rủi ro thị trường và rủi ro đặc thù. Ngoài ra quỹ phòng hộ có mối tương quan thấp với rủi ro thị trường nếu rủi ro này được phân chia thành nhiều loại rủi ro hệ thống khác nhau. 4. Chi phí và rủi ro đặc thù của Phát kiến quỹ phòng hộ 3
  4. Lợi ích của các sáng kiến của quỹ phòng hộ phải được xem xét cùng với chi phí và rủi ro gắn liền với đầu tư vào quỹ phòng hộ. Quỹ phòng hộ có chi phí giao dịch đặc thù do quỹ phòng hộ thu phí hoạt động và do đó tạo áp lực làm nhà đầu tư có thể rút vốn ngay; quỹ phòng hộ có mối quan hệ tỷ lệ thuận với rủi ro thị trường trong điều kiện kinh tế khó khăn. Thực tế nếu càng có nhiều quỹ phòng hộ trong danh mục đầu tư thì rủi ro này có thể gia tăng. Để giảm bớt loại rủi ro này, quỹ phòng hộ áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro sáng tạo phù hợp với chiến lược kinh doanh. Mặc dù không tránh khỏi những rủi ro đặc thù, quỹ phòng hộ về tổng thể vẫn có rủi ro thấp hơn rủi ro của thị trường. Để đo lường chính xác ảnh hưởng ròng của quỹ phòng hộ đối với rủi ro đầu tư tổng thể, các biện pháp đo lường rủi ro khi thị trường đi xuống phải được áp dụng. C. Tại sao Quỹ phòng hộ phải sáng tạo Quỹ phòng hộ phải thường xuyên đổi mới, sáng tạo vì: Yêu cầu cần thiết của quỹ phòng hộ là kỹ năng và kiến thức sáng tạo độc đáo về giá chứng khoán hay giá sản phẩm phái sinh trong tương lai, hay kỹ năng hoạch định chiến lược kinh doanh để có thể tận dụng mọi thông tin sẵn có về giá của các công cụ tài chính. Mô hình kinh doanh này có thể thành công nếu quỹ phòng hộ không ngừng đổi mới và áp dụng các chiến lược đầu tư giá trị cao, độc đáo và khó bắt chước. Áp lực phải cạnh tranh với các quỹ mới thành lập. D. Quản trị và Đổi mới Quỹ phòng hộ Quản trị quỹ phòng hộ là phương thức áp dụng hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của quỹ phòng hộ. Các công cụ quản trị đặc thù (như phí kết quả hoạt động, thời gian đóng) tạo cho các nhà quản lý quỹ tính linh hoạt để thích nghi với các thay đổi của điều kiện kinh tế và thúc đẩy các biện pháp khuyến khích và cam kết tài chính cho đổi mới. Các công cụ này là những lợi thế cho nhà quản lý quỹ trong việc thu lợi từ các sáng kiến tài chính. Bằng việc cân bằng lợi ích của nhà đầu tư và công ty quản lý quỹ, các công cụ quản trị quỹ phòng hộ làm giảm chi phí giao dịch phát sinh từ việc ủy thác quyền ra quyết định cho nhà quản lý danh mục đầu tư. 1. Quỹ phòng hộ và Quản trị doanh nghiệp Theo lý thuyết chi phí giao dịch của công ty, các công ty áp dụng cấu trúc quản trị phù hợp với các đặc điểm của giao dịch nhằm giảm bớt loại chi phí này và tăng hiệu quả hoạt động (tỷ suất đầu tư). Quỹ phòng hộ không có ban giám đốc độc lập theo dạng doanh nghiệp. Do các hội viên trách nhiệm hữu hạn của quỹ không thể tự do chuyển nhượng quyền biểu quyết và cổ phiếu của quỹ không được mua bán trên thị trường thứ cấp, các công ty quản lý quỹ không phải thực hiện quản trị theo dạng doanh nghiệp. Quỹ phòng hộ áp dụng các cơ chế quản trị nhằm giải quyết các vấn đề trung gian, do đó nhà đầu tư có thể “đảm bảo sẽ đạt được tỷ suất đầu tư”. Quản trị quỹ phòng hộ tồn tại ở cơ cấu tổ chức có ít phân cấp quản lý. Hình thức tổ chức này có lợi cho việc đổi mới. Các sáng kiến bắt nguồn từ quá trình học hỏi và phát hiện các kiến thức mới và có thể từ các nhân viên của quỹ hay từ môi trường bên ngoài. Cấu trúc quản trị linh hoạt và phi tập trung hỗ trợ các sáng kiến này và tạo điều kiện cho các ý tưởng mới nảy sinh và được ứng dụng. Quản trị quỹ phòng hộ cho phép quỹ nhanh chóng hấp thu thông tin mới và ứng dụng các chiến lược đầu tư trong điều kiện kinh tế không ngừng thay đổi. Ngược lại các công cụ quản trị doanh nghiệp thông thường sẽ không phù hợp trong việc hỗ trợ sáng tạo. 4
  5. Quỹ phòng hộ và công ty công chúng có cấu trúc quản trị khác nhau. Đối với quỹ phòng hộ, sự khác biệt trong phương thức quản trị của mỗi quỹ phản ánh sự khác biệt trong hoạt động của quỹ. Phí quản lý quỹ, giai đoạn đóng và các điều khoản hạn chế rút vốn và chuyển nhượng khác của quỹ phòng hộ được thông báo cho nhà đầu tư trước khi nhà đầu tư thực sự góp vốn. 2. Các biện pháp khuyến khích quản lý của quỹ phòng hộ Các biện pháp khuyến khích quản lý của quỹ phòng hộ bao gồm phí kết quả hoạt động và phí quản lý đầu tư, ngoài ra nó còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như tiêu chuẩn mực nước cao, tỷ suất đầu tư, thời gian góp vốn, etc Thành công của quỹ phòng hộ trong việc đổi mới chủ yếu là do cách quản trị này. 3. Chi phí Giao dịch kém thanh khoản Mặc dù hạn chế rút vốn theo ý muốn làm phát sinh các chi phí giao dịch đặc thù, nhà đầu tư vào quỹ phòng hộ vẫn có lợi do đạt được tỷ suất lợi nhuận cao. Hạn chế rút vốn theo ý muốn làm nảy sinh các chi phí giao dịch cho nhà đầu tư do chi phí cơ hội càng cao nếu thời gian đóng của khoản đầu tư càng dài. Đồng thời nhà đầu tư cũng phải chịu rủi ro không thể chuyển nhượng vốn khỏi quỹ phòng hộ trong trường hợp quỹ bị thua lỗ. Khi quỹ phòng hộ đầu tư vào tài khoản kém thanh khoản, bản thân quỹ đó cũng sẽ chịu rủi ro trước khi khoản đầu tư thực sự đem lại lợi nhuận. Các khoản đầu tư kém thanh khoản sẽ không được mua bán và đòi hỏi thời gian thu lời dài hơn các khoản đầu tư thông thường. Chương 3: Quỹ phòng hộ và biện pháp bảo vệ nhà đầu tư Phần này bao gồm các nội dung chính sau: A. Sự đa dạng hóa và biện pháp bảo vệ người đầu tư: Biện pháp bảo vệ người đầu tư là mục tiêu vàng của luật chứng khoán liên bang và nguyên tắc của UBCK. Biện pháp bảo vệ người đầu tư nghĩa là bảo vệ người đầu tư khỏi lổ hỏng thất thoát kinh tế từ gian lận và những dạng chủ nghĩa cơ hội tinh vi bởi những người phát hành, những người giao dịch và những thành phần tham gia thị trường khác. Mục tiêu cơ bản của quy định bảo vệ nhà đầu tư là tối đa hóa tỷ suất lợi nhuận sau khi tính đến rủi ro B. Công bố thông tin của quỹ phòng hộ Quỹ phòng hộ là những công cụ đầu tư không rõ ràng và các quỹ đó không chịu sự điều chỉnh của các quy định của liên bang về đăng ký và báo cáo và ban quản lý quỹ cố gắng nổ lực để giữ độc quyền riêng về các chiến lược đầu tư. Mặc dù vậy các quỹ thường công bố thông tin một cách đầy đủ cho các nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư. Quỹ phòng hộ công bố thông tin dựa trên hai cơ sở pháp lý. − Luật Chứng khoán, Luật Giao dịch và Luật Tư vấn. − Các quỹ phòng hộ công bố các loại thông tin cho nhà đầu tư như đã đăng ký theo luật CK quy định. Theo đó để hoàn thành nghĩa vụ pháp lý của mình, quỹ phòng hộ công bố thông tin một cách chính xác và đầy đủ cho nhà đầu tư. Do ngành quỹ phòng hộ càng trở nên chuyên nghiệp và mang tính tổ chức cao và do cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các quỹ phòng hộ có xu hướng mở rộng và chuẩn hóa cách thức công bố thông tin nhằm tránh trách nhiệm pháp lý đồng thời đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. 5
  6. C. Quỹ phòng hộ và Phòng tránh rủi ro 1. Hoạt động trong ngành quỹ phòng hộ hiện đại Từ giữa những năm 1990 tỷ suất lợi nhuận trung bình của ngành nằm trong khoảng 9% - 12%. Kể từ đó ngành quỹ phòng hộ đã chứng tỏ khả năng của quỹ phòng hộ trong việc bảo vệ nhà đầu tư khỏi những biến động của thị trường. Bên cạnh ưu điểm giúp nhà đầu tư tránh các khoản lỗ hàng năm của thị trường chứng khoán mà cả những khoản lỗ phát sinh hàng tháng. Tỷ suất lợi nhuận của quỹ phòng hộ thường cao hơn tỷ suất của thị trường chứng khoán trong những tháng khi thị trường chứng khoán bị lỗ. 2. Quỹ phòng hộ trong khủng hoảng tín dụng Trong giai đoạn giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, dù có nhiều quỹ phòng hộ bị thua lỗ nhưng ngành quỹ phòng hộ trên tổng thể vẫn có lãi. Từ 1/6/2007 đến 30/5/2008, quỹ phòng hộ có tỷ suất lợi nhuận từ 1.83% đến 4.97% phụ thuộc vào loại dữ liệu và các chỉ số tổng hợp được sử dụng để phản ánh trung thực tỷ suất của quỹ. Hiệu quả hoạt động vượt trội của quỹ phòng hộ so với các tổ chức tài chính khác và thị trường phần lớn là do đóng góp của các sáng kiến tài chính của quỹ và thể chế pháp lý thông thoáng tạo điều kiện cho những sáng kiến này. Khác với quỹ phòng hộ, do hạn chế của quy định pháp luật, quỹ tương hỗ và ngân hàng không thể bảo vệ nhà đầu tư trong giai đoạn khủng hoảng tín dụng. 6
  7. QUỸ PHÒNG HỘ Lời Mở đầu Một trong các tranh luận dai dẳng liên quan đến quy định tài chính đó là làm cách nào để bảo vệ nhà đầu tư tránh khỏi tính phức tạp ngày càng cao của thị trường tài chính, rủi ro và các thay đổi khác phát sinh từ các sáng kiến tài chính. Liên quan trực tiếp đến đề tài gây tranh cãi này là các nhà hoạch định chính sách đầu tư hàng đầu được biết đến với tên quỹ phòng hộ (Hedge Funds). Quỹ phòng hộ được tổng hợp từ các đầu tư cá nhân và không chịu tác động của tất cả các hạn chế về hoạt động đầu tư cũng như nghĩa vụ báo cáo theo luật chứng khoán liên bang. Quỹ này phần nào bù đắp cho nhà đầu tư thông qua phí thực hiện hằng năm và đặc biệt quỹ phòng hộ hoạt động rất tích cực trong mua bán các công cụ tài chính. Là một loại hình trung gian tài chính nhằm cung cấp cho nhà đầu tư phương tiện bảo vệ và phát triển vốn, quỹ phòng hộ là giai đoạn 3 trong chu trình phát triển của các nhà môi giới đầu tư sau ngân hàng thương mại và quỹ tương hỗ. Trong khi ngân hàng thương mại cho phép người gửi tiền kiếm lãi tiền gửi một cách an toàn nhưng thấp hơn từ cổ phiếu hay các cơ hội đầu tư khác. Quỹ tương hỗ cho phép các nhà đầu tư kiếm lời cao từ đầu tư cổ phiếu, tuy nhiên quỹ này cũng có thể làm cho nhà đầu tư phải gánh chịu những khoản lỗ khổng lồ nếu thị trường trở nên xấu đi. Quỹ phòng hộ sử dụng các chiến lược đầu tư sáng tạo nhằm duy trì tỷ suất lợi nhuận cao nhưng đồng thời giảm được rủi ro thị trường. Kết quả hoạt động cho thấy quỹ phòng hộ là quỹ duy nhất cho phép hạn chế lỗ khi thị trường xấu đi. Gần đây nhất trong năm đầu tiên của cuộc khủng hoảng vay thế chấp (01/06/2007 – 30/05/2008), thị trường chứng khoán Mỹ mất 8.27% tổng giá trị thì quỹ phòng hộ kiếm lời khoảng 1.83%. Nghiên cứu này cho thấy vai trò to lớn của quy định pháp luật đối với kết quả kinh tế của quỹ phòng hộ. Hơn một thập kỷ qua là giai đoạn tăng trưởng và phát triển chủ đạo của ngành quỹ phòng hộ. Hiện nay toàn ngành có khoảng 13,000 quỹ với tổng tài sản ước tính 1.74 nghìn tỷ đô la Mỹ và đến năm 2015 sẽ tăng lên 6 nghìn tỷ. Quỹ phòng hộ là một trong những chủ thể chính của thị trường tài chính và chiếm phần lớn các giao dịch trên Sàn chứng khoán New York. Trong khi các nhà hoạch định luật đã ghi nhận những đóng góp to lớn của quỹ đầu tư cho nền kinh tế và nhà đầu tư, thì cả các nhà lập pháp cũng như các nhà nghiên cứu không nối kết một cách hệ thống kết quả của quỹ phòng hộ với các thể chế chứng khoán liên bang hay các chế tài chi phối quỹ này. 7
  8. Phần 1 nghiên cứu các thể chế pháp luật điều tiết quỹ phòng hộ. Quỹ này có hai đặc điểm khác biệt như sau. Thứ nhất là chiến lược đầu tư của quỹ phòng hộ không bị ràng buộc bởi thể chế pháp luật. Các quy định pháp luật chỉ cho phép ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay, hay chỉ cho phép các quỹ tương hỗ thực hiện các hoạt động đầu tư truyền thống, trong khi đó pháp luật lại cho phép quỹ phòng hộ sử dụng đòn cân nợ, bán khống hay sản phẩm phái sinh. Thứ hai là cấu trúc điều hành của quỹ phòng hộ với các đặc điểm như nhà quản lý vừa là nhà đầu tư, phí dựa trên kết quả thực hiện, quản lý quỹ toàn quyền quyết định trong việc đầu tư tài sản của quỹ cũng như quyết định trường hợp nhà đầu tư có thể rút vốn. Phần 2 giải thích cách thức các thể chế pháp luật tạo điều kiện cho các sáng kiến tài chính cho quỹ phòng hộ. Quỹ này áp dụng các chiến lược đầu tư mới lạ để duy trì lợi thế cạnh tranh và tránh các nhà đầu tư rút vốn. Những chiến lược này thường bao gồm việc tận dụng các ưu thế của các công cụ tài chính như sản phẩm phái sinh và chứng khoán phức tạp. Quỹ phòng hộ còn tạo điều kiện cho các nhà quản lý quỹ thích nghi với sự thay đổi của điều kiện kinh tế. Quỹ này còn tạo ra các biện pháp khuyến khích để gặt hái lợi ích từ các sáng kiến. Tuy nhiên quỹ phòng hộ cũng không tránh khỏi những hạn chế. Từ đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu, quỹ phòng hộ tạo ra các chi phí riêng biệt cho nhà đầu tư ví dụ như rủi ro cao hơn và hạn chế nhà đầu tư thu hồi vốn theo ý muốn. Quỹ này cũng có thể làm phát sinh chi phí cho các công ty khác do quỹ này chiếm quyền biểu quyết trong khi vẫn nắm giữ vị trí có xung đột lợi ích kinh tế với công ty đó, tham gia bán khống hay là các hành vi chiếm hữu khác. Tóm lại ở một mức độ nào đó quỹ phòng hộ có thể tạo rủi ro cho nền kinh tế nếu các hoạt động của quỹ này gây thiệt hại cho các tổ chức tài chính hay do việc phát hành chứng khoán bảo lãnh mà các hoạt động này chứa đựng rủi ro tiềm ẩn cho toàn nền kinh tế. Mặc dù những chi phí và rủi ro này không hoàn toàn là do quỹ phòng hộ tạo ra, các rủi ro này vẫn cần được phòng ngừa. Các quy định pháp luật cần được điểu chỉnh phù hợp với chiến lược đầu tư của quỹ phòng hộ. Tóm lại, quỹ phòng hộ một mặt giúp các nhà đầu tư đa dạng hóa danh mục cổ phiếu và trái phiếu mặt khác giảm thiểu rủi ro thị trường. Phần III mô tả các lợi ích của quỹ phòng hộ ví dụ như với việ giúp nhà đầu tư tối đa hóa lợi ích, quỹ phòng hộ hướng tới cùng mục tiêu mà các quy chế liên bang về bảo vệ nhà đầu tư đang tìm kiếm. 1. THỂ CHẾ PHÁP LUẬT CỦA QUỸ PHÒNG HỘ Luật điều chỉnh hoạt động của quỹ phòng hộ phụ thuộc vào loại hình tổ chức mà quỹ này lựa chọn. Ngoài ra quỹ này còn chịu sự điều tiết của luật hợp đồng. Quỹ phòng hộ còn phải hoạt động theo luật về tư vấn đầu tư của liên bang và tiểu bang. Đóng vai trò là nhà phát hành chứng khoán, người mua và người bán chứng khoán của các công ty khác, quỹ phòng hộ còn chịu sự chi phối của luật chứng khoán liên bang và tiểu bang. Tuy nhiên quỹ này hoàn toàn không chịu sự quản lý của luật liên bang áp dụng cho các công ty đầu tư. Quỹ phòng hộ, mặt khác lại hoàn toàn bị ràng buộc bời các quy định liên bang về gian lận và mua bán tay trong. A. Cấu trúc Quản trị phi doanh nghiệp Quỹ phòng hộ gồm ba chủ thể chính: nhà đầu tư, quỹ và công ty tư vấn/quản lý đầu tư. Quỹ phòng hộ ở Mỹ thường có phương thức quản trị phi doanh nghiệp và được tổ chức dưới dạng công ty hội viên hữu hạn hay công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH). Quỹ phòng hộ hội viên 8
  9. hữu hạn gồm có hai loại hội viên đó là hội viên chịu trách nhiệm hữu hạn và hội viên chung. Hội viên chịu trách nhiệm hữu hạn góp vốn như là nhà đầu tư của quỹ. Những hội viên này không chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của quỹ nhưng có thế sẽ mất toàn bộ số vốn đầu tư và bất kỳ khoản lợi nhuận chưa phân phối. Quỹ phòng hộ thường chỉ chấp nhận phần góp vốn vào đầu tháng và có thể không gọi thêm vốn nếu ban quản lý quỹ nhận thấy tăng vốn có thể làm giảm lợi nhuận. Khi tiến hành góp vốn cho một quỹ phòng hộ đối tác hữu hạn, quỹ phải mở một tài khoản vốn cho nhà đầu tư. Tài khoản này thể hiện tỷ lệ lợi ích tương ứng với số vốn góp của nhà đầu tư vào quỹ. Mặc dù theo luật tiểu bang, hình thức hội viên cho phép hợp đồng hội viên được phép cấp quyền biểu quyết cho các hội viên chịu trách nhiệm hữu hạn. Trên thực tế các quỹ phòng hộ với hình thức hội viên hữu hạn thường không cấp quyền biểu quyết cho các thành viên này. Để tránh tình trạng mất tính chịu trách nhiệm hữu hạn, các hội viên hữu hạn không tham gia vào các quyết định quản lý. Các hội viên hữu hạn của quỹ phòng hộ là các nhà đầu tư bị động do quyết định của họ chỉ giới hạn trong việc khi nào và bao nhiêu vốn cần được góp hay rút ra phụ thuộc vào các quy định về rút vốn trong thỏa thuận của quỹ. Hội viên chung của quỹ phòng hộ có hội viên hữu hạn là các công ty quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư của quỹ. Các hội viên này chịu trách nhiệm điều hành tất cả các hoạt động kinh doanh của quỹ, bao gồm quản lý danh mục đầu tư. Luật hội viên hữu hạn cho phép các hội viên chung của quỹ phòng hộ toàn quyền kiểm soát các hoạt động và các điều khoản trong thỏa thuận của quỹ và chỉ phụ thuộc duy nhất vào trách nhiệm đối với các thành viên hữu hạn và nghĩa vụ của thành viên chung được quy định trong thỏa thuận. Nghĩa vụ của hội viên chung được miễn trừ rất nhiều trong thỏa thuận. Ví dụ, đạo luật hội viên hữu hạn Delaware với mục tiêu tìm kiếm “để cho phép tới mức tối đa quyền tự do thực hiện hợp đồng” quy định thỏa thuận hội viên được phép giảm bớt nghĩa vụ của hội viên chung. Tòa án ở Delaware và các tiểu bang khác định nghĩa nghĩa vụ ủy quyền mang tính chất hợp đồng do đó bất kỳ hành động thiếu chủ ý phá vỡ cam kết hội viên thường sẽ không được xem là vi phạm nghĩa vụ ủy quyền. Cụ thể quản lý quỹ phòng hộ có thể sẽ đàm phán các mức phí khác nhau cho các nhà đầu tư và thông qua “thư bổ sung” cho phép các nhà đầu tư khác nhau quyền riêng biệt đối với công bố thông tin hay là các vấn đề khác. Điều này được phép trong chừng mực các sự đối xử khác nhau này không vi phạm quyền hợp đồng của nhà đầu tư hay nghĩa vụ của các nhà quản lý, và việc ưu tiên nhà đầu tư này không làm tổn hại đến lợi ích của nhà đầu tư khác. Theo đó hình thức hội viên hữu hạn mang lại tính linh hoạt rất cao cho nhà quản lý quỹ trong điều hành các mối quan hệ nội bộ cũng như thực hiện các chiến lược đầu tư. Hội viên chung của quỹ chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ mà bản thân quỹ không thể trả hết. Để tránh trách nhiệm của các nhà quản lý quỹ phòng hộ khỏi trách nhiệm cá nhân, hội viên chung của quỹ thường là công ty TNHH nhưng cũng có thể là một tổ chức chịu trách nhiệm hữu hạn khác ví dụ như hội viên hữu hạn hay công ty “Subchapter S”. Mặc dù chịu trách nhiệm hữu đối với các khoản nợ của quỹ, chủ thể hội viên chung hay cá thể hội viên chung (nhà quản lý) thường cùng đầu tư phần lớn tài sản ròng mang tính thanh khoản cao trực tiếp vào quỹ như là hội viên trách nhiệm hữu hạn. Dựa trên số liệu tổng hợp của quỹ phòng hộ từ năm 1994 – 2002, Agarwal và cộng sự đã ước tính đầu tư trung bình của các quản lý quỹ chiếm khoảng 7.1% tài sản quỹ với trung vị là 2.4%. Nhà đầu tư quỹ phòng hộ thường tìm kiếm đối tác đầu tư là các nhà quản lý quỹ. 9
  10. Ngoài việc cho phép nhà quản lý quỹ được linh hoạt trong quyết định, và hạn chế trách nhiệm của nhà đầu tư và quản lý quỹ, việc thành lập quỹ như một hội viên chịu trách nhiệm hữu hạn hay công ty TNHH và hội viên chung như công ty TNHH đóng vai trò quan trọng đối với quỹ, nhà đầu tư cũng như đối với hội viên chung trong việc giảm thiểu gánh nặng thuế. Với hình thức hội viên hữu hạn và công ty TNHH, quỹ phòng hộ và hội viên chung đều không chịu thuế ở mức thuế công ty. Tất cả thu nhập, lãi, lỗ và khấu trừ đều được chuyển cho các hội viên chung, hội viên hữu hạn và thành viên TNHH. Những hội viên này sau đó sẽ báo cáo các khoản mục này trong tờ khai thuế thu nhập cá nhân. Việc chuyển thuế này bảo toàn cách đánh thuế trên thu nhập của quỹ như thu nhập đã được chuyển cho nhà đầu tư. Điều này thường có lợi cho nhà đầu tư do thuế suất ưu đãi áp dụng cho chuyển nhượng chứng khoán dài hạn so với thu nhập thông thường chuyển cho nhà đầu tư. Do thuế thu nhập cá nhân được tính vào cuối mỗi năm, nhà đầu tư quỹ phòng hộ phải trả thuế cho năm mà quỹ có lãi ròng. B. Thỏa thuận Hoạt động của Quỹ Phòng hộ Tính linh hoạt cao của luật hội viên hữu hạn, công ty TNHH và các loại hình tổ chức phi doanh nghiệp khác là nền tảng cho các thực thể kinh doanh đưa ra các hợp đồng hoạt động. Hơn nữa luật hội viên hữu hạn và TNHH mang tính “cho phép” hơn là “bắt buộc”. Nói một cách khác các công ty có thể linh hoạt lựa chọn cách thức tổ chức doanh nghiệp dựa trên các mặc định theo luật tổ chức doanh nghiệp bang. 1. Lợi ích của quản lý quỹ phòng hộ Theo các điều khoản của thỏa thuận hoạt động, ban quản lý quỹ phòng hộ và công ty tư vấn được hưởng phí quản lý, thông thường khoảng 1 – 2% giá trị tài sản ròng của quỹ và giá trị này có thể được tính định kỳ theo tháng hoặc quý. Phí này dùng để trang trải các chi phí hoạt động và hành chính ví dụ như chi phí quản lý, lương nhân viên, thuê văn phòng và các chi phí vốn khác. Thu phí quản lý là một hoạt động phổ biến trong ngành quản lý tài sản và cũng được sử dụng bởi các quỹ tương hỗ cổ phần. Một đặc điểm nổi bật của quỹ phòng hộ là các thỏa thuận hoạt động của quỹ bao gồm các điều khoản quy định lợi ích của nhà quản lý quỹ dựa trên kết quả hoạt động hàng năm của quỹ mà họ đã tư vấn. Phí dựa trên kết quả hoạt động của quỹ phòng hộ chiếm khoảng 15 – 20% lợi nhuận sau khi trừ lỗ lũy kế và phí quản lý. Lợi ích theo kết quả được ghi nhận trong hợp đồng như là một khoản thu nhập được phân bổ cho công ty quản lý quỹ dựa trên kết quả hoạt động của quỹ và không phải là một khoản phí dịch vụ cố định. Cách chi trả thù lao này làm giảm gánh nặng thuế cho nhà quản lý quỹ do quỹ có lợi từ đặc điểm của thuế chuyển nhượng vốn. Nhờ đó quỹ phòng hộ không bắt buộc phải chuyển đổi thu nhập từ chuyển nhượng vốn sang thu nhập thông thường với mức thuế suất cao hơn. Phí kết quả hoạt động của quỹ phòng hộ bị hạn chế bởi hai loại điều khoản, mỗi loại yêu cầu một mức tỷ suất đầu tư tối thiểu trước khi phí này được phân bổ cho nhà quản lý quỹ. Điều khoản thông dụng được gọi là “mực nước cao”. Mực nước cao hạn chế phân bổ phí kết quả hoạt động trừ khi lợi nhuận thu được cao hơn vốn góp của nhà đầu tư. Chỉ tiêu này yêu cầu phải bù đắp tất cả các khoản lỗ từ năm trước. Điều này có nghĩa là nhà đầu tư phải thực sự nhận được tỷ suất lợi nhuận ròng dương trên khoản đầu tư trước khi nhà quản lý quỹ được trả phí kết quả hoạt động. Cùng với chỉ tiêu “mực nước cao”, quỹ phòng hộ còn sử dụng chỉ tiêu “suất lợi nhuận”. Phí kết quả hoạt động phụ thuộc vào suất lợi nhuận sẽ không được trả cho nhà quản lý quỹ trừ khi quỹ phải đạt được một tỷ suất lợi nhuận tối thiểu. Tỷ 10
  11. suất lợi nhuận cụ thể có thể được tính toán hàng năm hoặc trên cơ sở cộng dồn, hoặc có thể là một chỉ số cố định hoặc phụ thuộc vào một số chỉ số chung khác. 2. Hạn chế về thanh khoản cổ phiếu Quyền tài chính của nhà đầu tư trong một công ty thành viên hữu hạn được quy định trong hợp đồng. Luật hội viên hữu hạn cho phép thỏa thuận hội viên quy định thời gian và điều kiện một hội viên hữu hạn được phân bổ vốn, và cho phép hội viên tự do chuyển nhượng quyền lợi kinh tế trong công ty (ví dụ như quyền đối với các khoản lãi, lỗ, và phân phối) nhưng không áp dụng cho quyền biểu quyết hay quyền quản lý. Trên thực tế quỹ phòng hộ phần lớn không cho phép nhà đầu tư chuyển nhượng cổ phiếu của quỹ hay bán lại. Quỹ này chỉ cho phép nhà đầu tư rút vốn theo chu kỳ có thể theo tháng, quý hoặc năm. Ngoài ra nhà đầu tư phải báo trước 30 – 90 ngày trước khi rút vốn. Quỹ phòng hộ còn áp dụng giai đoạn “đóng”. Trong khoảng thời gian này nhà đầu tư không được phép rút vốn sau khi vốn này đã được góp vào quỹ. Giai đoạn đóng thường trong vòng một quý, nhưng cũng có thể kéo dài đến hai năm. Quỹ phòng hộ có thể sử dụng một “cổng” để hạn chế số vốn có thể được rút vào một ngày cụ thể. Số tiền này tỷ lệ với giá trị tài sản ròng của quỹ. Quỹ phòng hộ hạn chế chuyển nhượng cổ phiếu vì nhiều lý do. Thứ nhất, hạn chế chuyển nhượng có thể có lợi cho quỹ về dài hạn do chuyển nhượng vốn tại một thời điểm cụ thể có thể làm gián đoạn hoạt động và có thể không phù hợp với mục tiêu đầu tư hay chiến lược mua bán của quỹ. Thứ hai, hạn chế bán lại cổ phiếu quỹ nhằm đáp ứng các yên cầu của luật liên bang về tăng vốn. Thứ ba, quỹ phòng hộ hạn chế mua bán cổ phiếu quỹ do đó sẽ không bị xếp loại như là công ty hội viên cổ phần công chúng và do đó không phải trả thuế doanh nghiệp cao hơn. C. Luật Công ty Đầu tư và Tư vấn Đầu tư Do quỹ phòng hộ bao gồm một quỹ đầu tư và một công ty tư vấn đầu tư, hoạt động của quỹ chịu sự chi phối của các quy định liên bang theo Luật Công ty Đầu tư ban hành năm 1940 (Luật Công ty) và Luật Tư vấn Đầu tư năm 1940 (Luật Tư vấn). − Luật Công ty Đầu tư Luật Công ty được ban hành sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1929 và vào cuối thập kỷ 30 khi chính phủ phát hiện các giao dịch ảo và gian lận của nhà đầu tư trong các quỹ đầu tư. Luật Công ty yêu cầu tất cả các công ty đầu tư phải đăng ký, các công ty này được định nghĩa là “có hoạt động kinh doanh đầu tư, tái đầu tư hoặc kinh doanh chứng khoán”. Một công ty đầu tư đã đăng ký sẽ phải chịu điều tiết của các quy định chung cũng như quy định chi tiết nhằm bảo đảm các nhà đầu tư đơn giản có thể thực hiện các lựa chọn đầu tư và ngăn chặn các nhà đóng góp chính của quỹ không gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Theo Luật Công ty, quỹ phòng hộ có thể được phân loại là “công ty đầu tư” nếu quỹ này hoạt động nhằm đáp ứng ít nhất một trong hai điều kiện ngoại trừ trong định nghĩa của công ty đầu tư. Theo mục 3(c)(1) của Luật Công ty, quỹ phòng hộ không được xem là công ty đầu tư nếu quỹ này có hơn 100 nhà đầu tư và cổ phiếu chỉ được bán riêng lẻ. Theo mục 3(c)(7) của Luật Công ty, quỹ phòng hộ không được xem là công ty đầu tư nếu quỹ này chỉ bán chứng khoán cho các “người mua đủ năng lực” thông qua bán riêng lẻ. Theo Luật Công ty, một chủ thể thỏa mãn điều kiện “người mua đủ năng lực” nếu chủ thế này phải sở hữu khoản đầu tư không 11
  12. dưới 5 triệu đô la Mỹ. Mục 3(c)(7) quy định quỹ phòng hộ có thể bán cho một số lượng không hạn chế người mua đủ năng lực nhưng không quá 499 nhà đầu tư để tránh đăng ký theo luật Chứng khoán. Do quỹ phòng hộ không phải đăng ký như các công ty đầu tư, các quỹ này không bị hạn chế bởi Luật Công ty trong việc sử dụng đòn bẩy nợ, bán khống hay kinh doanh sản phẩm phái sinh. − Luật Công ty tư vấn Đầu tư Theo Luật Tư vấn, các công ty quản lý quỹ phòng hộ được phân loại là các “nhà tư vấn đầu tư” do nhà tư vấn đầu tư được định nghĩa là bất kỳ chủ thể tham gia kinh doanh tư vấn cho các chủ thể khác về phương thức mua hay bán các loại chứng khoán. Một nhà tư vấn đầu tư phải đăng ký theo Luật Công ty nếu cung cấp dịch vụ tư vấn cho công chúng như là một nhà tư vấn đầu tư, hay tư vấn cho công ty đầu tư thành lập theo Luật Công ty, hoặc tư vấn cho từ 15 khách hàng. Tuy nhiên công ty quản lý quỹ phòng hộ có thể được miễn trừ theo luật Tư vấn nếu công ty này đủ năng lực là một nhà tư vấn cá nhân. Điều này có nghĩa là công ty quản lý tư vấn cho ít hơn 15 khách hàng trong vòng 12 tháng trước (thực tế có thể bao gồm 15 quỹ khác nhau và mỗi quỹ có hàng trăm nhà đầu tư), và công ty này không phải là công ty công chúng cũng như không tư vấn cho công ty đầu tư có đăng ký. Tư vấn có đăng ký và tư vấn không đăng ký đều chịu sư chi phối của các điều khoản của Luật Tư Vấn ví dụ như nghiêm cấm việc bỏ sót nghiêm trọng, báo cáo sai hay các hành vi gian lận khác. Luật Tư Vấn cấm công ty quản lý quỹ không được gian lận hoặc báo cáo sai lệch trong chiến lược đầu tư, kinh nghiệm và rủi ro của quỹ cũng như trong định giá tài sản quỹ. Theo Luật Tư Vấn, gian lận, báo cáo sai lệch hay bỏ sót có thể là cố tình hay vô ý, các hành vi vi phạm đều sẽ chịu trách nhiệm pháp lý. Hơn nữa, các công ty quản lý quỹ có đăng ký phải công bố các thông tin cơ bản về công ty quản lý trên ADV cho các nhà đầu tư hay cho Ủy ban chứng khoán (SEC), bao gồm các thông tin về chiến lược đầu tư cùng với các số liệu quan trọng về điều kiện tài chính của công ty quản lý quỹ. Công ty quản lý quỹ không đăng ký được thu phí kết quả họat động. Công ty quản lý quỹ đăng ký là công ty tư vấn đầu tư thì bị nghiêm cấm thu phí kết quả hoạt động cùa công ty đầu tư mà công ty quản lý quỹ đã cung cấp dịch vụ tư vấn. Tuy nhiên công ty tư vấn đăng ký có thể thu phí kết quả họat động nếu cung cấp dịch vụ tư vấn cho các quỹ như quy định ở mục 3(c)(7) Luật Công Ty hay tất cả các nhà đầu tư của quỹ là “khách hàng đủ năng lực”, bao gồm các cá nhân có tài sản trị giá không dưới 1.5 triệu USD hoặc ít nhất 750.000USD do công ty tư vấn quản lý. D. Quy định chứng khoán Quỹ phòng hộ chịu sự ràng buộc của luật chứng khoán liên bang do hai lý do chính sau. Thứ nhất, quỹ phòng hộ gọi vốn đầu tư thông qua phát hành chứng chỉ quỹ hoặc chứng chỉ hội viện TNHH. Những chứng chỉ này được xem là “chứng khoán” theo Luật Chứng Khoán. Thứ hai, đóng vai trò là người mua và người bán chứng khoán của các công ty có trụ sở ở Mỹ, quỹ phòng hộ phải tuân thủ các nghĩa vụ phát sinh kinh doanh chứng khoán. 1. Huy động vốn đầu tư Trong huy động vốn đầu tư từ các nhà hội viên TNHH, quỹ phòng hộ đóng vai trò người phát hành cũng như người bán chứng khoán và do đó chịu sự ràng buộc của các điều khoản luật chống gian lận của Bộ Luật Chứng Khoán và Sàn Giao Dịch. Những định chế pháp luật này nghiêm cấm báo cáo sai lệch, các hang vi gian lận và cố tình bỏ sót nghiêm trọng, Theo mục 12
  13. 17(a) của Luật Chứng Khoán, người phát hành chứng khoán báo cáo sai sự thật hay bỏ qua số liệu/ sự việc mà có thể dẫn đến báo cáo gây hiểu lầm thì bị xem là phạm luật. Theo mục 10(b) và điều 10b-5 của Luật Sàn Giao Dịch, bất kỳ sự bỏ sót nghiêm trọng liên quan đến việc bán chứng khoán đều bị nghiêm cấm. Hơn nữa theo Luật Chứng Khoán sai sót sẽ bị quy trách nhiệm. Mặc dù chịu trách nhiệm nếu có gian lận, quỹ phòng hộ huy động vốn mà không phải đăng ký và chịu trách nhiệm công bố thông tin như các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng vẫn phải làm. Luật Chứng Khoán yêu cầu tất cả công ty huy động vốn từ công chúng phải đăng ký với UBCK và công bố thông tin cho nhà đầu tư. Mục 5 của Luật Chứng Khoán yêu cầu tất cả các nhà phát hành chứng khoán liên bang phải nộp báo cáo đăng ký. Tài liệu này bao gồm bản cáo bạch sẽ được công bố cho nhà đầu tư trước và đồng thời với việc phát hành chứng khóan, các thông tin khác phải được báo cáo với UBCK và 1/3 danh mục thông tin phải có sẵn nếu nhà đầu tư yêu cầu. Bản cáo bạch bao gồm thông tin như báo cáo tình hình kinh doanh của công ty phát hành chứng khoán, loại chứng khoán phát hành, rủi ro chính ảnh hưởng công ty, báo cáo tài chính và nhiều mục khác liên quan đến tình trạng tài chính của công ty phát hành. Quỹ phòng hộ phát hành chứng khoán theo hai điều kiện về đăng ký và công bố thông tin của Luật Chứng Khoán và được gọi là “phát hành cá nhân”. Thứ nhất, muc 4(2) của Luật Chứng Khoán quy định nhà phát hành chứng khoán theo yêu cầu mục 5 được miễn trừ phát hành chứng khoán phi công chúng. Điều luật này phát sinh sau vụ kiện ở tòa án tối cao Hoa Ky giữa UBCK và công ty Ralston Purina. Phát hành chứng khoán được coi là phát hành cá nhân nếu các nhà đầu tư tiềm năng có thể truy cập thông tin giống như trong bản báo cáo đăng ký, các nhà đầu tư là các chủ thể tài chính phức tạp, có khả năng gánh chịu rủi ro kinh tế và các yếu tố khác. Để đáp ứng được yêu cầu của phát hành cá nhân theo mục 4(2) Luật Chứng Khoán, quỹ phòng hộ phải cung cấp cho các nhà đầu tư tiêm năng cùng loại thông tin như trong báo cáo đăng ký theo mục 5 của Luật Chứng Khoán. Thứ hai, quỹ phòng hộ có thể phát hành chứng khoán theo điều 506 của Quy Định D trong Luật Chứng Khoán (Điều 506). Điều 506 yêu cầu quỹ phòng hộ hạn chế cách lựa chọn nhà đầu tư (mặc dù nó không hạn chế số lượng nhà đầu tư mà quỹ phònh hộ có thể có). Nhà đầu tư đủ điều kiện bao gồm các công ty có tài sản trị giá ít nhất 5.000.000 USD và các cá nhân phải có tài sản ròng (hoặc tài sản ròng với vợ/chồng) lớn hơn 1.000.000 USD hoặc có thu nhập hàng năm cho hai năm gần nhất không ít hơn 200.000 USD (hoac 300.000 USD cho cặp vợ chồng). Để đáp ứng được yêu cầu ngoại lệ theo Diều 506, quỹ phòng hộ bị cấm phát hành hoặc bán chứng khoán với “quảng cáo thông thường”. Điếu 502 (c) của quy định D liệt kê các quảng cáo dưới hình thức in hay các phương tiện thông tin đại chúng hay bất kỳ hình thức tồ chức hội nghị, hội thảo mà có thể chứa đựng hình thức quảng cáo nào. Quỹ phòng hộ cũng cần phải chú trọng tới việc ngăn chặn việc bán lại chứng khoán quỹ. Chứng khoán được mua theo hình thức đấu giá cá nhân theo Điều 506 không thể được bán lại bởi người mua nếu không được đăng ký hoặc không được miễn trừ đăng ký. Phát hành theo điều 506 sẽ phải tuân thủ mục 4(2) và vì vậy sẽ được miễn đăng ký theo mục 5 của Luật Chứng Khoán. Tuy nhiên để tránh nghĩa vụ phát sinh khi phát hành cá nhân, quỹ phòng hộ thường phát hành chứng khoán theo các yêu cầu của Điều 506 và các điều kiện miễn trừ của mục 4(2). 2. Kinh doanh chứng khoán có đăng ký 13
  14. Quỹ phòng hộ phải tuân thủ rất nhiều quy định của Luật Sàn giao dịch. Thứ nhất, tất cả các quỹ phòng hộ và công ty quản lý quỹ phải công bố thông tin về cổ phiếu đầu tư ở các côgn ty công chúng. Mục 13(d) và 13(g) quy định quỹ phòng hộ hay các công ty tư vấn của quỹ phải báo cáo chủ sở hữu chiếm hơn 5% cổ phiếu biểu quyết có đăng ký theo Luật Sàn giao dịch, và phải công bố thông tin nếu mục đích của việc sở hữu cổ phiếu là để mua hay thôn tín công ty phát hành. Để ngăn ngừa kinh doanh tay trong, mục 16(a) yêu cầu các quỹ phòng hộ nếu mua 10% cổ phiếu biểu quyết có đăng ký theo Luật sàn giao dịch của công ty phát hành thì phải công bố thông tin về quyền sở hữu này và bất kỳ thông tin về quyền sở hữu khác trong công ty đó hay các thay đổi về quyền sở hữu. Bên cạnh đó, nhằm tăng kiến thức sẵn có cho công chúng về tỷ lệ sở hữu của các tổ chức, mục 13(f) quy định quỹ phòng hộ sở hữu hơn 100.000.000 USD giá trị cổ phiếu trên một sàn giao dịch quốc gia thì phải báo cáo UBCK định kỳ quý về giá trị cổ phiếu nắm giữ của quỹ theo Mẫu 13F. Các công ty tư vấn quỹ phòng hộ đầu tư vào sản phẩm hàng hóa như hợp đồng tương lai có thể phải đăng ký theo Luật Hàng hóa và Sàn giao dịch (CEA) hoặc đăng ký là công ty điều hành hàng hóa (CPO) hay công ty tư vấn kinh doanh hàng hóa (CTA) và áp dụng các quy định của Ủy ban Kinh doanh hợp đồng hàng hóa tương lai (CFTC). Các quy định về CEA và CFTC yêu cầu các CPO và CTA có đăng ký phải công bố và báo cáo nhiều loại thông tin khác nhau. Ví dụ, CPO phải công bố báo cáo tài chính đã kiểm toán cho nhà đầu tư và công bố với CFTC về tình trạng của các sản phẩm phái sinh nếu vượt quá một mức nhất định. Tuy nhiên, các quỹ kinh doanh hàng hóa cũng được ưu tiên trong nhiều trường hợp theo CEA. 2. PHÁT KIẾN TÀI CHÍNH, RỦI RO THỊ TRƯỜNG VÀ QUẢN TRỊ QUỸ PHÒNG HỘ Phát kiến tài chính là một trong các mục tiêu chung của hệ thống tài chính nhằm giảm rủi ro cũng như giảm chi phí giao dịch đầu tư. Quỹ phòng hộ rất sáng tạo trong việc áp dụng các chiến lược đầu tư tiên phong làm giảm rủi ro thị trường. Khung pháp lý đối với quỹ phòng hộ khuyến khích các hoạt động sáng tạo của quỹ này theo hai cách. Sự thông thoáng của luật liên bang tạo điều kiện cho quỹ phòng hộ phát huy tính sáng tạo đáp ứng yêu cầu của thị trường. Ngoài ra cấu trúc quản trị phi doanh nghiệp của loại hình quỹ này cũng khuyến khích các phát kiến. A. Phát kiến tài chính Một mục tiêu chính của hệ thống tài chính là hỗ trợ các hoạt động đầu tư thông qua việc nối kết các nhà đầu tư tìm kiếm tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư với các công ty đang có nhu cầu huy động vốn đầu tư từ chứng khoán. Mục tiêu này càng được chú trọng do các phát kiến tài chính giúp giảm thiểu rủi ro đầu tư ví dụ như tạo cơ hội đầu tư và nâng cao chất lượng thông tin về rủi ro và lợi nhuận tiềm tàng từ đầu tư. Hoạt động đầu tư cũng được khuyến khích do các sáng kiến làm giảm chi phí giao dịch ví dụ như chậm hoàn vốn đầu tư hay chi phí trả cho công ty quản lý tài sản. Tóm lại, các phát kiến tài chính làm đồng vốn của nhà đầu tư bảo toàn và sinh lợi. Sáng tạo là quá trình biến đổi các ý tưởng mới thành hiện thực và tạo ra giá trị mới cho người tiêu dùng hay cho nhà sản xuất. Danh mục sáng kiến gồm các sản phẩm mới cho tiêu dùng (ví dụ như hàng hóa và dịch vụ), các phương pháp sản xuất hay các hình thức tổ chức kinh doanh 14
  15. mới. Ở lĩnh vực tài chính, sáng kiến về sản phẩm tài chính như chứng chỉ quỹ giúp giảm bớt chi phí đầu tư vào quỹ với tỷ suất lợi nhuận liên quan trực tiếp tới các thị trường đặc thù như các công ty tài chính hay nền kinh tế Trung Quốc. Các phát kiến tài chính còn bao gồm các chuyên gia môi giới điện tử giá rẻ như Sàn gian dịch điện tử đã giúp giảm chi phí giao dịch chứng khoán cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Hơn nữa, các phát kiến trong phương pháp tài chính như phương pháp ghi nhận quyền chứng khoán điện tử, công cụ tài chính mới và áp dụng mô hình định giá quyền chọn Black-Scholes và các kỹ thuật khác giúp giảm thiểu rủi ro và tăng tính thanh khoản. Các sáng kiến về tổ chức tài chính như sàn giao dịch tư nhân NASDAQ do nhiều ngân hàng đầu tư lớn thành lập nhằm tăng cường tính thanh khoản của cổ phiếu tư nhân chỉ được chuyển nhượng giữa các người mua/bán là tổ chức có đủ năng lực. B. Hình thức sáng tạo của Quỹ Phòng hộ Quỹ phòng hộ đổi mới bằng cách tạo ra các chiến lược đầu tư phức tạp và các chiến lược này thường dựa trên các sáng kiến về các công cụ tài chính. Mặc dù sáng kiến của quỹ phòng hộ có thể làm tăng chi phí giao dịch đầu tư và tăng rủi ro đặc thù của nhà đầu tư, nhưng xét về tổng thể ảnh hưởng ròng của các phát kiến này thường sẽ giúp giảm rủi ro thị trường và các rủi ro hệ thống khác, do đó sẽ giúp đa dạng hóa danh mục đầu tư. 1. Đầu tư và Đa dạng hóa Nhà đầu tư hưởng lợi từ tỷ suất lợi nhuận cao nhất từ khoản đầu tư. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên lợi nhuận này là kỹ năng của nhà đầu tư hay của công ty quản lý quỹ trong việc áp dụng các chiến lược đầu tư. Kỹ năng quản lý được đánh giá và lượng hóa qua chỉ số alpha. Lợi nhuận cao cũng đồng nghĩa rủi ro cao. Rủi ro là xác suất giá cổ phiếu mà nhà đầu tư đã mua sẽ giảm và như vậy nhà đầu tư sẽ chịu lỗ. Rủi ro cao hơn có thể tạo ra lợi nhuận cao do nhà đầu tư phải được đền bù thỏa đáng cho việc chấp nhận rủi ro. Ví dụ cổ phiếu thường đưa lại lợi nhuận cao hơn trái phiếu do trở thành cổ đông của một công ty sẽ rủi ro hơn là chủ nợ của công ty đó. Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại tập trung vào lợi nhuận thu được do rủi ro. Theo lý thuyết này, nhà đầu tư tìm kiếm cách tối đa hóa tỷ suất lợi nhuận sau khi điều chỉnh rủi ro. Tỷ suất này đo lường mức độ rủi ro nhà đầu tư nên chấp nhận tương ứng với một mức tỷ suất lợi nhuận nhất định. Tỷ suất lợi nhuận sau khi điều chỉnh rủi ro cao sẽ đưa lại mức đảm bảo cao hơn cho nhà đầu tư rằng họ sẽ đạt được mức lợi nhuận như mong muốn từ khoản đầu tư và không bị lỗ. Rủi ro tài chính thường được đo lường bằng sai lệch của tỷ suất đầu tư. Chỉ số sai lệch chỉ ra xác suất nhà đầu tư sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận từ khoản đầu tư nhiều hơn hay ít hơn so với tỷ suất lợi nhuận trung bình trước đó. Các phương pháp đo lường rủi ro khác tập trung vào khả năng một khoản đầu tư có thể bị lỗ hoặc không đạt được mục tiêu đầu tư. Ví dụ phương pháp VAR đo lường giá trị nhà đầu tư có thể sẽ bị mất trong một khoảng thời gian nhất định, và phương pháp rủi ro thâm hụt đo lường khả năng thất bại hay không đạt được tỷ suất lợi nhuận mong muốn của nhà đầu tư. Khi lựa chọn phương án đầu tư tối ưu, nhà đầu tư cần chọn phương án có rủi ro và lợi nhuận phù hợp với mục tiêu đầu tư và khả năng chịu rủi ro. Rủi ro đầu tư gồm hai thành phần chính đó là rủi ro đặc thù và rủi ro thị trường (hay rủi ro hệ thống). Rủi ro đặc thù là thiệt hại phát sinh từ đặc điểm cụ thể của công ty ví dụ như chất lượng quản lý và thời gian làm việc của nhân viên trong công ty. Rủi ro thị trường là rủi ro do giá cổ phiếu và do đó giá trị của khoản đầu tư có thể tăng hoặc giảm do các biến động của thị 15
  16. trường. Rủi ro thị trường phát sinh do các thay đổi tiêu cực của tổng thể nền kinh tế, và biến động này ảnh hưởng đến không chỉ một nhà đầu tư hay một công ty phát hành chứng khoán mà là tất cả các đối tượng tham gia thị trường, Do đó giá chứng khoán của tất cả các công ty sẽ cùng tăng hoặc giảm. Thông thường chứng khoán có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ có rủi ro cao. Tuy nhiên, đa dạng hóa danh mục đầu tư sẽ hạn chế rủi ro đầu tư trong khi không làm giảm tỷ suất lợi nhuận. Đa dạng hóa bao gồm đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau của các công ty khác nhau và nhiều loại tài sản (ví dụ như cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa, bất động sản). Theo nhà kinh tế học James Tobin, người đã từng đạt giải Nobel, đa dạng hóa cũng có nghĩa là “nhà đầu tư không nên để trứng vào cùng một giỏ”. Đa dạng hóa hạn chế rủi ro phát sinh do tính tương quan của càng nhiều chứng khoán sẽ thấp hơn so với ít loại. Tính tương quan thấp có nghĩa là nếu một loại chứng khoán bị giảm giá, nhiều loại chứng khoán khác có thể tăng giá, do đó thiệt hại đối với toàn bộ danh mục đầu tư sẽ được hạn chế. Đa dạng hóa còn giúp giảm bớt rủi ro đặc thù do thiệt hại phát sinh do đặc thù của một công ty phát hành riêng lẻ sẽ không liên quan tới thiệt hại của các công ty khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi ro đặc thù có thể được giảm thiểu nếu nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán của khoảng 20 công ty khác nhau. Nếu danh mục đầu tư được đa dạng hóa hoàn hảo thì toàn bộ rủi ro còn lại là rủi ro thị trường. Do đó rủi ro của danh mục đầu tư không còn là rủi ro đặc thù của từng loại chứng khoán mà là rủi ro tổng hợp của toàn bộ danh mục đầu tư. Rủi ro thị trường là độ nhạy của danh mục đầu tư hoặc độ nhạy của một loại chứng khoán đối với biến động của thị trường và rủi ro này có tên gọi là beta. Một danh mục đầu tư có beta bằng 1 là danh mục có tỷ suất lợi nhuận bằng tỷ suất lợi nhuận của thị trường. Danh mục đầu tư có beta bằng 0 được xem là “trung lập thị trường” và sẽ không chịu tác động của các biến động thị trường. Danh mục có beta bằng -1 sẽ phản ứng đối nghịch với sự biến động của thị trường (ví dụ danh mục đầu tư sẽ lỗ 10% nếu thị trường lãi 10%). Danh mục có beta bằng 2 sẽ có tỷ suất lợi nhuận cao gấp 2 lần so với thị trường hoặc ngược lại. Đa dạng hóa có thể giảm rủi ro thị trường nếu nhà đầu tư sở hữu các loại chứng khoán từ nhiều loại hình tài sản khác nhau do các loại chứng khoán khác nhau sẽ có mức độ rủi ro khác nhau. Ví dụ, cổ phiếu thường chịu tác động trực tiếp của toàn bộ nền kinh tế trong khi trái phiếu chịu tác động của lãi suất. Mô hình định giá tài sản vốn cho thấy nhà đầu tư thường được đền bù ở tỷ suất lợi nhuận cao hơn nếu chỉ đầu tư vào các chứng khoán có rủi ro thị trường cao hơn (beta cao hơn). Nhằm tối đa hóa tỷ suất lợi nhuận sau khi điều chỉnh rủi ro, nhà đầu tư nên đầu tư vào danh mục đầu tư tối ưu tương ứng với mức độ rủi ro thị trường mà nhà đầu tư chấp nhận. Do tỷ suất lợi nhuận phụ thuộc vào kỹ năng quản lý (anpha) và rủi ro thị trường (beta), mối quan hệ này được thể hiện bằng công thức sau: Rp = anpha + beta x Rm Trong đó Rp: tỷ suất lợi nhuận của danh mục đầu tư Rm: tỷ suất lợi nhuận của thị trường Rủi ro thị trường và tỷ suất lợi nhuận được phân loại nhỏ hơn trong Lý thuyết định giá song hành (APT). Theo APT, tỷ suất lợi nhuận của một danh mục đầu tư không chỉ phụ thuộc vào thay đổi của toàn bộ nền kinh tế và độ nhạy của danh mục đầu tư đối với những thay đổi này mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố rủi ro thị trường khác bao gồm lãi suất, tỷ giá và dự đoán lạm phát. Như vậy không chỉ có một beta mà có nhiều beta khác nhau, mỗi chỉ số beta phản 16
  17. ánh độ nhạy của từng danh mục đầu tư đối với rủi ro thị trường cụ thể. Ví dụ tỷ suất lợi nhuận (Rp) của một danh mục đầu tư phụ thuộc vào khả năng của công ty quản lý quỹ, lãi suất và lạm phát. Mối quan hệ này được thể hiện qua công thức sau: Rp = anpha + beta1xRls + beta2 x Rtg + beta3 x Rlp Trong đó beta1: độ nhạy của danh mục đầu tư đối với lãi suất Rls: mức độ thay đổi lãi suất beta2: độ nhạy của danh mục đầu tư đối với tỷ giá Rtg: mức độ thay đổi tỷ giá beta3: độ nhạy của danh mục đầu tư đối với tỷ lệ lạm phát Rlp: mức độ thay đổi của tỷ lệ lạm phát Đa dạng hóa các loại tài sản khác nhau có thể hạn chế thiệt hại phát sinh từ rủi ro hệ thống do tỷ suất lợi nhuận từ các loại chứng khoán này không có mối quan hệ tương quan. Tóm lại, đa dạng hóa danh mục chứng khoán đầu tư sẽ làm giảm rủi ro đầu tư và do đó tỷ suất lợi nhuận sau rủi ro sẽ cao hơn. 2. Chi phí giao dịch và Rủi ro đặc thù Dạnh mục đầu tư tối ưu nhằm giảm thiểu chi phí giao dịch. Đa dạng hóa đòi hỏi mức độ nhất định về nhân lực, tài lực và thời gian cần thiết cho việc nghiên cứu và nắm bắt các cơ hội đầu tư. Tuy nhiên nhà đầu tư với số vốn nhỏ phải chịu chi phí giao dịch cao nếu muốn đa dạng hóa bằng đầu tư trực tiếp vào nhiều công ty khác nhau. Các trung gian tài chính như ngân hàng, quỹ tương hỗ và quỹ phòng hộ giảm chi phí giao dịch bằng việc tận dụng các kỹ năng và nguồn lực chuyên môn để đưa ra các lựa chọn cho các nhà đầu tư. Ngoài ra các trung gian này còn tận dụng lợi thế kinh tế do quy mô lớn. Mặt khác, nhà đầu tư phải chi trả phí giao dịch cho các trung gian tài chính và mỗi nhà đầu tư phải trả mức phí khác nhau. Hai dạng trung gian đầu tư quan trọng nhất là tổ chức tín dụng và công ty đầu tư có đăng ký. Tổ chức tín dụng là trung gian tài chính có nguồn vốn chính là tiền gửi của cá nhân và tổ chức kinh tế. Tổ chức tín dụng dùng nguồn vốn này để cho vay và kiếm lời từ chênh lệch lãi suất tiền gửi và tiền cho vay. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng thương mại, tổ chức tiết kiệm và cho vay và các quỹ tiết kiệm. Tổ chức tín dụng có nhiều sáng kiến dành cho nhà đầu tư. Những phát kiến này làm giảm chi phí giao dịch ví dụ như là nơi cất giữ tài sản cho khách hàng, thuận tiện cho việc gửi và rút tiền mặt, hay là trung gian huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ sau đó dùng nguồn vốn này cho các nhà đầu tư lớn vay. Các tổ chức tín dụng cho phép nhà đầu tư đa dạng hóa và giảm bớt rủi ro đặc thù bằng việc sử dụng tiền gửi cho nhiều đối tượng vay. Các tổ chức này cũng sử dụng kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn trong cho vay và quản lý các khoản vay. Quyết định cho vay phụ thuộc vào khả năng tối đa hóa lãi suất tiền gửi sau khi điều chỉnh rủi ro. Luật quy định ngân hàng không được sở hữu cổ phiếu của các công ty công chúng và chỉ được phép thu lợi thấp hơn từ dịch vụ cho vay nhưng an toàn hơn. Ngân hàng cũng không được phép sử dụng các công cụ phái sinh để phòng chống rủi ro có liên quan đến cho vay. Điều này nhằm giảm khả năng nhà đầu tư phải chịu rủi ro hơn. Công ty đầu tư có đăng ký là quỹ đầu tư huy động vốn từ công chúng. Theo luật pháp của Mỹ, công ty này có 3 dạng: quỹ đóng, quỹ mở và quỹ đầu tư theo chứng chỉ. Loại hình phổ biến nhất của công ty đầu tư có đăng ký là quỹ tương hỗ. Đây là một loại quỹ mở và bán cổ phiếu cho nhà đầu tư là cá nhân và tổ chức và cổ phiếu này không được mua bán lại trên thị trường 17
  18. thứ cấp. Quỹ đóng bán một số lượng cổ phiếu nhất định và những cổ phiếu này được mua bán trên thị trường thứ cấp. Công ty đầu tư giảm chi phí giao dịch và rủi ro đặc thù thông qua đầu tư vào danh mục đầu tư rất đa dạng. Thị trường của quỹ tương hỗ rất khác biệt với thị trường của các loại quỹ khác dựa trên loại tài sản giao dịch (cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ tiền tệ), quy mô công ty (lớn, vừa, nhỏ), ngành (năng lượng, cộng nghệ) và vị trí địa lý (thị trường mới nổi). Quỹ tương hỗ thường sử dụng chiến lược đầu tư truyền thống “chỉ mua”, chiến lược này bao gồm mua cổ phiếu và/hoặc trái phiếu để hưởng cổ tức hoặc tiền lãi và sau đó sẽ được bán lại với giá cao hơn. Hoạt động của quỹ tương hỗ được đánh giá thông qua việc so sánh tỷ suất lợi nhuận của quỹ với tỷ suất của thị trường hay so với các chỉ số tiêu chuẩn khác. Quỹ tương hỗ tiến bộ hơn ngân hàng do nhà đầu tư của quỹ có lựa chọn đầu tư với chi phí thấp hơn, có thể đầu tư vào danh mục chứng khoán đa dạng gồm cổ phiếu và trái phiếu và nhà đầu tư của quỹ thường có tỷ suất lợi nhuận cao hơn từ ngân hàng. Tuy nhiên, lợi nhuận cao từ quỹ tương hỗ cũng đồng nghĩa với rủi ro cao hơn. Bằng chiến lược đầu tư “chỉ mua”, lợi nhuân của quỹ tương hỗ phản ánh mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lợi nhuận và rủi ro. Cụ thể quỹ tương hỗ đầu tư vào cổ phiếu và mang lại cho nhà đầu tư lợi nhuận cao hơn và do đó nhà đầu tư cũng phải chịu rủi ro thị trường cao hơn. Hơn nữa các quy định pháp luật về công ty đầu tư hạn chế khả năng của quỹ tương hỗ và quỹ đóng nhằm giảm bớt rủi ro thị trường thông qua việc áp dụng các chiến lược đầu tư hiện đại. Thứ nhất Luật Công ty làm tăng chi phí sử dụng các công cụ đòn bẩy tài chính, công cụ phái sinh hay bán khống của các công ty đầu tư có đăng ký. Để sử dụng đòn bẩy tài chính từ các khoản vay ngân hàng, công ty đầu tư có đăng ký phải có tỷ lệ tài sản trên vốn vay ít nhất 300%. Công ty đầu tư có đăng ký cũng phải nắm giữ các chứng khoán có tính thanh khoản cao có giá trị tương ứng với các giao dịch có thể bị lỗ. Thứ hai quỹ tương hỗ không được phép đầu tư lớn hơn 15% giá trị tài sản ròng vào các chứng khoán kém thanh khoản như chứng khoán phát hành bởi quỹ phòng hộ. Quỹ tương hỗ cũng không tận dụng được giai đoạn đóng bởi các quỹ mở phải tiến hành thanh toán cổ phiếu theo từng ngày. Ngoài ra chiến lược đầu tư của quỹ tương hỗ khá hạn hẹp và thiếu tính linh hoạt trong trường hợp thị trường biến động do bất kỳ thay đổi chiến lược đầu tư so với chính sách được duyệt đều phải thông qua hội đồng cổ đông. Do những nhược điểm này quỹ tương hỗ bị hạn chế khả năng giảm rủi ro thị trường và khó có thể giảm rủi ro thị trường mà không làm giảm lợi nhuận. Vì thế khi nền kinh tế suy thoái, quỹ tương hỗ thường vẫn phải duy trì các khoản đầu tư vào chứng khoán thậm chí khi giá chứng khoán tiếp tục suy giảm. 3. Chiến lược đầu tư của Quỹ phòng hộ và Rủi ro thị trường Trong khi các tổ chức tín dụng và quỹ tương hỗ giúp nhà đầu tư giảm chi phí giao dịch và rủi ro đặc thù thì quỹ phòng hộ là quỹ duy nhất có thể làm giảm thất thoát do rủi ro thị trường. Nói chung cơ chế pháp luật của quỹ phòng hộ tạo tính linh hoạt cho quỹ này được sử dụng hiệu quả đòn bẩy tài chính, bán khống và công cụ phái sinh. Linh hoạt trong đầu tư là một lợi thế của quỹ phòng hộ do tính linh hoạt giúp cho các quỹ đang gặp khó khăn có thể thay đổi chiến lược đầu tư và nâng cao hiệu quả hoạt động. Việc thiếu các quy chế pháp luật đối với công cụ phái sinh cũng là một lợi thế khác cho quỹ phòng hộ do 73% quỹ phòng hộ sử dụng công cụ phái sinh có rủi ro thấp hơn các quỹ không sử dụng công cụ này (có khoảng 21% số lượng quỹ tương hỗ sử dụng công cụ phái sinh). Quỹ phòng hộ còn sử dụng đòn bẩy tài chính để tăng hiệu quả hoạt động. Theo một nghiên cứu năm 2005, khoảng 1.2% tài sản của quỹ phòng hộ không được phân bổ hiệu quả. 18
  19. Quỹ tương hỗ có mục tiêu so sánh tỷ suất lợi nhuận với tỷ suất thị trường. Quỹ phòng hộ lại tìm kiếm chiến lược tỷ suất lợi nhuận cố định. Chiến lược này nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận mà không tính đến phương hướng chung của toàn bộ thị trường. Năm 1949, Alfred Winslow Jones khởi xướng chiến lược tỷ suất lợi nhuận cố định bằng việc kết hợp mua cố phiếu mà ông nghĩ giá cổ phiếu này sẽ tăng đồng thời bán cổ phiếu mà dự đoán giá cổ phiếu sẽ giảm. Tại thời điểm đó quỹ “mua – bán cổ phiếu” đã trở thành chiến lược chính của các quỹ phòng hộ và chiếm khoảng 20% của toàn ngành. Bên cạnh vốn mua-bán, quỹ phòng hộ còn áp dụng nhiều loại chiến lược đầu tư khác nhau. Những chiến lược này thường hướng đến giá trị tương đối và các quỹ phương hướng. Các quỹ gia trị tương đối thường áp dụng kỹ năng mua bán song hành nhằm tìm kiếm lợi nhuận do chênh lệch giá giữa hai loại chứng khoán. Quỹ trái phiếu chuyển đổi song hành tìm kiếm lợi nhuận dựa trên chênh lệch giá giữa trái phiếu chuyển đổi của một công ty và cổ phiếu của công ty đó. Chiến lược này lần đầu tiên được sử dụng bởi các ngân hàng đầu tư lớn. Một loại chiến lược giá trị tương đối khác đó là chiến lược thu nhập cố định. Chiến lược này tập trung vào mua bán chênh lệch chứng khoán được bảo đảm bởi các khoản vay thế chấp (MBS). MBS là chứng khoán sẽ mang lại cho nhà đầu tư khoản trả lãi định kỳ từ các khoản thanh toán vay thế chấp. MBS lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1978 và quỹ phòng hộ đã tiên phong sử dụng loại hình này thông qua các mô hình sáng tạo về đánh giá dòng tiền của một MBS. Rủi ro lãi suất của MBS được phòng hộ bằng trạng thái bán trái phiếu Chính phủ (hoặc công cụ phái sinh). Các chiến lược kinh doanh giá trị tương đối khác bao gồm quỹ thu nhập cố định song hành và quỹ cổ phiếu khác. Chiến lược sự kiện tìm kiếm lợi nhuận từ các sự kiện bất thường của công ty như sáp nhập hay phá sản. Quỹ phòng hộ song hành sáp nhập thường mua chứng khoán của công ty bán và quỹ sẽ bán chứng khoán của công ty mua nếu công ty quỹ dự đoán chứng khoán của công ty bán sẽ tăng và chứng khoán của công ty mua sẽ giảm sau khi sáp nhập. Các chiến lược sự kiện khác bao gồm đầu tư vào các loại chứng khoán đang gặp khó khăn. Chiến lược đầu tư định hướng tìm kiếm lợi nhuận từ các xu hướng chính của thị trường. Các quỹ vĩ mô toàn cầu thường sử dụng nhiều loại công cụ tài chính khác nhau dựa trên kết quả phân tích điều kiện kinh tế vĩ mô của các nước khác nhau như việc xem xét các chỉ số GDP, cấu trúc dân số, tỷ giá. Đầu thập niên 90, các quỹ vĩ mô toàn cầu của George Soros, Julian Robertson và các quỹ khác đã đi đầu trong việc sử dụng các đòn bẩy tài chính bằng đồng ngoại tệ. Năm 1994 các quỹ này chiếm khoảng 32% tài sản của quỹ phòng hộ, đến năm 2004 tỷ lệ này giảm xuống còn 10%. Quỹ phòng hộ còn được biết đến với những phát kiến về công cụ nợ có thế chấp (CDO) và hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS). CDO là một loại công cụ nợ bao gồm tổng hợp nhiều loại trái phiếu khác nhau. Nhà đầu tư mua một loại CDO cụ thể dựa trên rủi ro của loại CDO đó trong trường hợp nhà đầu tư sẽ nhận được gì nếu người nhận nợ mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. CDS là một loại hợp đồng phái sinh trong đó người bán CDS cam kết thanh toán cho người mua CDS trong trường hợp người đi vay của người mua không thanh toán hết nghĩa vụ tài chính cho người mua CDS. Người bán CDS có thể sẽ thanh toán toàn bộ khoản tiền vay cho người mua CDS nếu người đi vay của người mua mất khả năng thanh toán. Quỹ phòng hộ đầu tư vào CDO thì cũng sẽ đầu tư vào CDS. Quỹ phòng hộ cũng tận dụng CDS để thu lợi từ chênh lệch giá của các công cụ nợ và công cụ vốn chủ sở 19
  20. hữu của một công ty. Quỹ phòng hộ cũng là nhà cung cấp CDS chính nhằm giúp các ngân hàng giảm rủi ro cho vay. Các chiến lược đầu tư sáng tạo của quỹ phòng hộ có tác dụng làm giảm rủi ro thị trường và rủi ro đặc thù. Quỹ phòng hộ có beta thấp hơn của quỹ tương hỗ trên phạm vi tổng thể toàn ngành cũng như cho từng quỹ riêng lẻ. Như được thể hiện ở bảng 1, các chiến lược quỹ phòng hộ chính có beta trung bình thấp hơn beta của quỹ tương hỗ. Thực tế quỹ tương hỗ với beta tương đối thấp thì vẫn còn cao hơn mức beta cao nhất của quỹ phòng hộ (chiến lược vĩ mô toàn cầu). Bảng 1: Rủi ro thị trường của Quỹ phòng hộ so với quỹ tương hỗ Ngoài ra quỹ phòng hộ có mối tương quan thấp với rủi ro thị trường nếu rủi ro này được phân chia thành nhiều loại rủi ro hệ thống khác nhau. Khi so sánh tỷ suất lợi nhuận của quỹ phòng hộ với quỹ tương hỗ dựa trên mức độ thay đổi của từng loại quỹ đối với các yếu tố rủi ro đặc thù (thay đổi giá cổ phiếu, giá trái phiếu và giá trị của đồng tiền), Fung và Hsieh nhận thấy quỹ phòng hộ có tỷ lệ tương quan thấp hơn so với quỹ tương hỗ. Fung and Hsieh cũng áp dụng mô hình APT để xác định các yếu tố rủi ro đặc thù phổ biến của quỹ phòng hộ. Kết quả nghiên cứu cho thấy quỹ phòng hộ chịu rủi ro của nhiều loại rủi ro hệ thống không quy chuẩn ví dụ như chênh lệch tỷ suất lợi nhuận của cổ phiếu từ công ty lớn và công ty nhỏ. Theo đó các phát kiến của quỹ phòng hộ giúp đa dạng hóa danh mục đầu tư thông qua việc hạn chế rủi ro thị trường và đa dạng hóa nguồn rủi ro mà nhà đầu tư có thể chấp nhận. 4. Chi phí và rủi ro đặc thù của Phát kiến quỹ phòng hộ Mặc dù các phát kiến của quỹ phòng hộ giúp giảm bớt rủi ro thị trường và các yếu tố rủi ro hệ thống chuẩn, chúng ta không thể đưa ra kết luận rằng quỹ phòng hộ làm giảm rủi ro đầu tư tổng thể. Điều này là do các nhà đầu tư có thể phải gánh chịu các khoản lỗ nếu tổng hợp 20
nguon tai.lieu . vn