Xem mẫu
- CHƯƠNG 1
TÔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
̉
Nôi dung cua chương:
̣ ̉
1.1. Nền kinh tế số
1.1.1. Đặc điểm
1.1.2. Những hạn chế
1.2. Thương mại điện tử
1.2.1. Khái niệm
1.2.2. Lich sư phat triên cua TMĐT
̣ ́ ̉ ̉
1.2.3. Động lực thúc đẩy TMĐT phát triển
1.2.4. Các đặc trưng của TMĐT
1.2.5. Các loại hình giao dịch TMĐT
1.2.6. Các hình thức hoạt động chủ yếu của TMĐT
1.2.7. Những yêu tố góp phần vào thành công của một giao dịch TMĐT
́
1.2.8. Lợi ích và han chế của TMĐT
̣
1.2.9. Ưng dung cua TMĐT
̣ ̉
Giới thiệu
Thương mại điện tư sẽ là thương mại của thế kỷ tương lai. Tốc độ, chi phí
thấp và khả năng truy cập Internet làm cho thương mại điện tư trở thành cơ hội mới
cho tất cả các doanh nghiệp. Thương mại điện tư sẽ giảm đáng kể chi phí chung,
thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực bán lẻ, đảm bảo thanh toán dễ dàng hơn và làm
giảm rủi ro đầu tư nội tại – đây chính là mục tiêu của tất cả các doanh nghiệp. Đây
cũng là điều mà con người ở đầu thế kỷ này cần hiểu rõ. Chương 1 đưa ra cái nhìn
sơ lược về thương mại điện tư trong nền kinh tế số toàn cầu. Sau khi học xong, sinh
viên có thể:
- Phân tích đặc điểm, hạn chế của nền kinh tế số
- Định nghĩa và nêu các đặc trưng của thương mại điện tư
- Nêu những động lực phát triển thương mại điện tư
- Phân biệt các loại hình giao dịch thương mại điện tư
- Phân tích các hình thức hoạt động chủ yếu của thương mại điện tư
- Đánh giá vai trò và đòi hỏi của điều kiện thực hiện giao dịch thương mại điện
tư
- Phân tích lợi ích, hạn chế của thương mại điện tư đối với doanh nghiệp, khách
hàng và xã hội
- 0.1 NỀN KINH TẾ SỐ
1.1 Đặc điểm của nền kinh tế số
- Là nền kinh tế dựa trên tri thức
Tri thức không chỉ đơn thuần là một nguồn tài nguyên khác cùng với các nhân tố
sản xuất truyền thống như: lao động, vốn và đất mà là một nguồn tài nguyên có ý
nghĩa quan trọng nhất. Trong nền kinh tế tri thức, các tài sản chính của một tổ chức
là tài sản trí tuệ và tập trung vào người lao động có tri thức. Điều này sẽ là lý do cho
các công ty trên thế giới phải phát triển các phương thức mới để đo lường và quản lý
các tài sản trí tuệ của họ. Như vậy, có một bước chuyển đổi từ lao động cơ bắp
sang lao động trí óc. Tri thức trở thành một yếu tố quan trọng của sản phẩm. Lao
động tri thức trở thành nền tảng của giá trị, thu nhập và lợi nhuận. Tri thức được
tăng trong toàn bộ chuỗi giá trị. Các công nghệ tri thức, các hệ thống chuyên gia, trí
tuệ nhân tạo phát triển nhanh. Các hệ thống thông tin quản lý và các hệ thống tiền
thân của nó, xư lý dữ liệu tiến hoá thành các hệ thống tri thức.
- Tính chất số
Trong các nền kinh tế trước đây, thông tin ở dạng vật chất. Con người giao tiếp
với nhau bằng cách di chuyển sự hiện diện hữu hình của họ. Trong nền kinh tế số,
thông tin được mã hoá dưới dạng các bit. Khi thông tin được số hoá và được truyền
qua các mạng số, một thế giới các triển vọng mới đã mở ra trước mắt. Một lượng
lớn thông tin có thể được nén và truyền đi với tốc độ ánh sáng. Chất lượng thông tin
có thể tốt hơn, tạo ra nhiều dạng thông tin khác nhau, có thể dược lưu trữ và truy
cập ngay lập tức tại bất kỳ địa điểm nào trên thế giới. Các thiết bị số có thể được
thiết kế để bỏ vừa vào túi của bạn và có thể ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực
hoạt động và đời sống cá nhân.
Khi thông tin chuyển từ dạng vật chất sang dạng số, các vật chất thực thể có
thể trở thành ảo. Điều đó làm thay đổi sự chuyển hoá của nền kinh tế, các dạng thể
chế, các mối quan hệ và bản chất của hoạt động kinh tế (bảng tin ảo, công viên kinh
doanh ảo, tập đoàn ảo, siêu thị ảo…).
- Là nền kinh tế phân tử.
Công ty cũ bị phân rã ra và thay thế bằng các phân tư, các cụm cá nhân và thực
thể năng động, tạo ra nền tảng của hoạt động kinh tế. Tổ chức không nhất thiết
biến mất, nhưng nó được biến đổi. “Khối” trở thành “phân tư” trong tất cả các khía
cạnh của đời sống kinh tế xã hội. Như vậy, về kinh tế sẽ xuất hiện việc thay thế
phương tiện truyền thông đại chúng, sản xuất đại trà, chính phủ nguyên khối bằng
phương tiện phân tư, sản xuất phân tư, quản lý phân tư… Điều này dẫn đến việc
kết thúc trật tự ra lệnh - điều khiển, chuyển sang cơ cấu phân tư dựa trên tập thể.
Người lao động và các nhóm công tác được trao quyền hoặc tự do hành động và tạo
- ra giá trị các hệ thống và công nghệ hướng đối tượng. Phần mềm tách dữ liệu khỏi
lập trình (các dịch vụ) để tạo ra các module hoặc các mẫu logo có thể tái sư dụng và
lắp ráp rất nhanh.
- Nền kinh tế số là một nền kinh tế được nối mạng, tích hợp các phân tử
thành các cụm được nối mạng với các cụm khác để tạo ra của cải.
Các cơ cấu tổ chức mới được nối mạng không chỉ đơn giản là việc tạo ra các tổ
chức hướng – quá trình trong đó các quá trình kinh doanh được thiết kế lại để tiết
kiệm chi phí và tăng cường khả năng đáp ứng. Tổ chức mới, được liên minh về các
công nghệ hội tụ gọi là “Doanh nghiệp làm việc trên Internet” là một Web rộng lớn
các mối quan hệ gồm tất cả các cấp và các chức năng kinh doanh mà trong đó các
ranh giới bên trong và bên ngoài đều có thể thẩm thấu và thay đổi được.
Các mạng công nghệ mới giúp các công ty nhỏ vượt qua được các ưu thế chính
của các công ty lớn – kinh tế quy mô và có khả năng tiếp cận với các nguồn tài
nguyên. Đồng thời, các công ty nhỏ hơn này không bị đè nặng bởi các bất lợi chính
mà các công ty lớn phải chịu – quan liêu, trật tự ngột ngạt và không có khả năng thay
đổi. Giống như các công ty lớn tách nhỏ ra - trở thành các cụm của các phân tư nhỏ
hơn có thể phối hợp với nhau tốt – các công ty nhỏ có được các ưu thế về tính linh
hoạt, chủ quyền và mềm dẻo.
Doanh nghiệp làm việc trên Internet sẽ là một mở rộng của công ty ảo vì có sự
tiếp cận đến các đối tác kinh doanh bên ngoài, liên tục cơ cấu lại các mối quan hệ
kinh doanh và tăng cường sư dụng nguồn lực bên ngoài.
Như vậy, nền kinh tế số là nền kinh tế nối mạng với các mối liên kết sâu,
phong phú bên trong và giữa các tổ chức và các thể chế. Việc tạo ra của cải, mua bán
và sự tồn tại của xã hội đều dựa trên một cơ sở hạ tầng thông tin công cộng tồn tại
ở khắp nơi. Doanh nghiệp mới là doanh nghiệp được nối mạng. Những cái trước kia
chỉ có thể đạt được thông qua các trật tự cứng rắn, bây giờ công nghệ mới cho phép
tích hợp các thành phần cấu tạo độc lập, có thể tháo lắp - một mạng tích hợp các
dịch vụ. Có một bước chuyển đổi từ máy tính chủ sang máy tính mạng. Các ốc đảo
công nghệ được thay thế bằng các mạng khách/chủ, làm thành một phần của hạ
tầng cơ sở thông tin công cộng và doanh nghiệp.
- Các chức năng môi giới giữa các nhà sản xuất và người tiêu dùng đang bị
loại bỏ thông qua các mạng số. Các doanh nghiệp, các chức năng và con người lớp
giữa (trung gian) cần tiến lên lớp trên để tạo ra giá trị mới, hoặc họ sẽ phải đối mặt
với vấn đề phi môi giới. Khi thông tin quan trọng trở thành trực tuyến, người sở hữu
và người mua được nối mạng, những người môi giới trung gian sẽ phải thay đổi
cách hoạt động. Họ cần phải hiểu không chỉ khách hàng - người mua mà để cung
cấp được giá trị cao, người môi giới còn cần phải hiểu các khách hàng của khách
hàng. Cách suy nghĩ mới này đòi hỏi người môi giới phải thường xuyên tiếp cận với
thông tin. Họ phải có các kỹ năng giỏi về các mối quan hệ với con người, kiến thức
- vững chắc về các thay đổi chính và các công cụ mạnh để giao dịch. Như vậy, nền
kinh tế số sẽ loại bỏ các khâu trung gian trong hoạt động kinh tế - những người làm
khuyếch đại các tín hiệu truyền thông trong một tổ chức tiền tri thức.
- Trong nền kinh tế số, một ngành kinh tế vượt trội đang được ba ngành
công nghiệp hội tụ tạo ra, và đến lượt mình, ngành này lại cung cấp hạ tầng cơ sở
cho tất cả các ngành để tạo ra của cải. Trong các nền kinh tế trước đây, ngành công
nghiệp máy móc tự động đóng vai trò chủ chốt. Ngành vượt trội trong nền kinh tế số
là phương tiện mới, đó là các sản phẩm của sự hội tụ giữa máy tính, truyền thông và
các ngành công nghiệp nội dung. Phần cứng máy tính và giải truyền thông đều đang
trở thành hàng hoá. Lợi nhuận trong khu vực mới đang chuyển sang ngành nội dung vì
đây chính là nơi tạo giá trị cho khách hàng chứ không phải trong các hộp hay trong
việc truyền tín hiệu.
Như vậy, nền kinh tế số sẽ xuất hiện sự hội tụ của các ngành kinh tế chính –
máy tính, truyền thông và nội dung, hội tụ của các cơ cấu tổ chức chịu trách nhiệm
về các công nghệ máytính, truyền thông và nội dung hội tụ của chúng.
- Nền kinh tế dựa trên đổi mới.
Một loại sản phẩm vừa được tạo ra thì mục tiêu của nhà sản xuất là tạo ra một
sản phẩm tốt hơn và làm cho sản phẩm đầu tiên trở nên lỗi thời. Nếu không làm cho
nó lỗi thời thì có người khác sẽ làm. Trong nền kinh tế số, đổi mới là quyết định tối
ưu của hoạt động kinh tế và thành công kinh doanh. Trí tưởng tượng của con người
đã trở thành nguồn tài nguyên chính của giá trị chứ không phải kiểu cách truyền
thống dẫn đến thành công như việc tiếp cận với nguyên liệu thô, năng suất, quy mô
và chi phí lao động. Đổi mới bao hàm các sản phẩm, các chiến lược tiếp thị, các
phương pháp tiếp cận quản lý, các thay đổi về tổ chức. Các nguyên tắc và phương
pháp tiếp cận cũ thất bại rất nhanh. Lợi thế lâu bền duy nhất là kiến thức tổ chức.
Cơ sở hạ tầng thông tin doanh nghiệp mới cung cấp một nền tảng cho việc đổi mới.
- Trong nền kinh tế số, khoảng cách giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất
rất mờ nhạt. Người tiêu dùng tham gia vào quá trình sản xuất thực sự khi tri thức,
thông tin và các ý tưởng của họ trở thành một phần của quá trình xác định sản phẩm.
Sự phối hợp của con người qua mạng trở thành một phần của nguồn thông tin đa
phương tiện hợp nhất.
- Trong nền kinh tế dựa trên các bit, tính tức thời trở thành quyết định và có
thể biến đổi hoạt động kinh tế và thành công trong kinh doanh. Nền kinh tế số là
nền kinh tế thời gian thực. Thương mại trở thành điện tư khi các giao dịch kinh
doanh và truyền thông diễn ra với tốc độ ánh sáng hơn là tốc độ của bưu điện. Doanh
nghiệp mới, là doanh nghiệp thời gian thực – liên tục và ngay lập tức điều chỉnh để
thay đổi các điều kiện kinh doanh. Chu kỳ sống của sản phẩm ngắn lại. Công nghệ
được áp dụng để thu thập thông tin trực tuyến và để cập nhật các ngân hàng thông
tin trong thời gian thực – đưa ra một bức tranh chính xác hoặc tạo khả năng quản lý
- một quy trình quản lý từng phút một.
- Nền kinh tế số là nền kinh tế toàn cầu hoá, tri thức không biết tới biên
giới. Khi tri thức trở thành nguồn tài nguyên chính, chỉ có duy nhất một nền kinh tế
thế giới, ngay cả khi một tổ chức hoạt động trong một quốc gia, một khu vực hay
một vùng. Doanh nghiệp mới có khả năng độc lập về thời gian và không gian: nó
định nghĩa lại lại thời gian và không gian cho các nhân viên và những người có cổ
phần. Công việc có thể được thực hiện từ nhiều địa điểm khác nhau. Các mạng của
các cụm kinh doanh phối hợp toàn cầu để đạt được các mục tiêu kinh doanh. Mạng
phối hợp toàn cầu trở thành đường xương sống của doanh nghiệp và hệ thống cung
cấp chính nhằm hỗ trợ các hoạt động kinh doanh. Nó cũng hỗ trợ việc truy cập tới
nguồn thông tin chung từ bất kỳ địa điểm nào.
1.2 Những hạn chế của nền kinh tế số
Chuyển sang nền kinh tế số, người ta dự báo sẽ có những mặt trái như sau:
- Thay đổi sẽ tạo ra sự phân bổ sai lệch. Nhân lực trong nông nghiệp chiếm
từ 90% dân số hồi cuối thế kỷ trước đã giảm xuống đến 3% dân số hiện tại. Làm
thế nào để chúng ta quản lý được ảnh hưởng của sự chuyển đổi tới các loại hình
công việc mới và nền tảng tri thức mới cho nền kinh tế?
- Xa lộ thông tin có khả năng xâm phạm quyền tự do cá nhân tới mức không
thể dự đoán nổi và không thể tránh khỏi. Khi việc trao đổi thông tin giữa mọi
người, giao dịch kinh doanh, làm việc, học tập và vui chơi ngày càng tăng trên mạng,
hàng loạt thông tin các loại sẽ được số hoá và mạng hoá. Như vậy làm sao có thể tin
chắc rằng quyền cá nhân có thể được bảo vệ trong nền kinh tế số?
- Một xa lộ thông tin bị quan niệm sai và do vậy chuyển đổi sang nền kinh
tế số có thể nuôi dưỡng một xã hội hai tầng lớp, tạo thành môt hố sâu ngăn
cách giữa người có và người không có thông tin. Khi công nghệ thông tin ngày càng
quan trọng hơn đối với thành công kinh tế và phúc lợi xã hội, khả năng “phân biệt
chủng tộc về thông tin” càng có thể trở thành hiện thực. Liệu có phải đang xuất hiện
“cuộc nổi dậy của những con người tinh tuý”, những người sẽ sư dụng hạ tầng
thông tin mới để ngày càng bọc kín mình hơn, chứng tỏ mình gần gũi hơn với bạn bè
và đồng nghiệp trong không gian khoa học giả tưởng, đánh mất khái niệm về trách
nhiệm với mọi người trong cộng đồng hay đất nước họ sống?
- Rất có thể sẽ còn nảy sinh những khoảng cách khác do khả năng tiếp cận
khác nhau với công nghệ mới và nền kinh tế số. Theo chiều hướng đó, liệu ai có thể
dự đoán rằng công nghệ mới sẽ thay đổi cấu trúc xã hội như thế nào?
- Nền kinh tế số chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống
của con người. Khi công nghệ xâm chiếm văn phòng, nhà ở, xe hơi, phòng khách sạn,
ghế máy bay, … của chúng ta, liệu có còn ranh giới rõ ràng giữa công việc và hoạt
động giải trí? Các nhà tâm lý học đã tranh luận rằng việc thực hiện đa nhiệm vụ
đang dẫn tới sự bất ổn tinh thần liên quan tới stress mới. Hay liệu công nghệ có thể
- thực hiện điều ngược lại – đem lại tự do cho chúng ta, khuyến khích chúng ta, làm
chúng ta thư giãn ngay cả trong công việc.
- Tác động của phương tiện mới tới gia đình sẽ là gì? Phương tiện mới hứa
hẹn củng cố gia đình bằng cách chuyển các hoạt động của các thành viên trong mỗi
gia đình đang bị phân tán bởi xã hội công nghiệp quay trở lại nhà. Các hoạt động đó
bao gồm làm việc, học tập, mua bán, giải trí, chăm sóc sức khoẻ, quan tâm tới người
già và thậm chí tham gia vào tiến trình dân chủ. Nhưng liệu có nảy sinh những nguy
hiểm khác không? Sự xa cách giữa các thành viên trong gia đình hay sự không đồng
đều về khả năng tiếp cận với phương tiện mới giữa các gia đình.
0.2 THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
2.1 Khái niệm
TMĐT là hình thức mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ thông qua mạng máy
tính toàn cầu.
TMĐT theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về TMĐT của Ủy ban
Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL): “Thuật ngữ Thương
mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi
quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang
tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về thương mại
cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc
đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư
vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác
hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh; chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường
sắt hoặc đường bộ.”
Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các
lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một trong hàng
ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT. Theo nghĩa hẹp, TMĐT chỉ gồm các hoạt động
thương mại được tiến hành trên mạng máy tính mở như Internet. Trên thực tế, chính
các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ
TMĐT.
TMĐT bao gồm các hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ qua phương tiện
điện tư, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tư, mua bán
cổ phiếu điện tư, vận đơn điện tư, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên
mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tuyến tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau
bán hàng. TMĐT được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng
tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ
cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm
sóc sức khỏe, giáo dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo). TMĐT đang trở
thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con người.
- 2.2 Lich sử phat triên cua Thương mai điên tử
̣ ́ ̉ ̉ ̣ ̣
- Năm 1962: Ý tưởng đâu tiên về mang kêt nôi cac may tinh với nhau (J.C.R. ̀ ̣ ́ ́ ́ ́ ́
Licklider)
- Năm 1965: Mang gưi cac dữ liêu đó được chia nhỏ thanh từng packet, đi theo
̣ ́ ̣ ̀
cac tuyên đường khac nhau và kêt hợp lai tai điêm đên (Donald Dovies); Lawrence
́ ́ ́ ́ ̣ ̣ ̉ ́
G.Roberts đó kêt nôi với môt may tinh ở Massachussetts với 1 may tinh khac ở
́ ́ ̣ ́ ́ ́ ́ ́
California qua đường dây điên thoai ̣ ̣
- Năm 1967: Ông nay đề xuât ý tưởng mang ARPANET – Advanced research ̀ ́ ̣
project Agency Network tai hôi nghị ở Michigan: công nghệ chuyên gưi tin – packet ̣ ̣ ̉
switching technology đem lai lợi ich to lớn khi nhiêu may tinh có thể chia sẻ thông tin ̣ ́ ̀ ́ ́
với nhau. Phat triên mang may tinh thư nghiêm cua Bộ Quôc Phong Mỹ theo ý tưởng
́ ̉ ̣ ́ ́ ̣ ̉ ́ ̀
ARPANET
- Năm 1969: Mang nay được đưa vao hoat đông và là tiên thân cua internet;
̣ ̀ ̀ ̣ ̣ ̀ ̉
Internet – liên mang được băt đâu xuât hiên khi nhiêu mang được kêt nôi với nhau
̣ ́ ̀ ́ ̣ ̀ ̣ ́ ́
- Năm 1972: thư điên tư băt đâu được sư dung ( Ray Tomlinson) ̣ ́ ̀ ̣
- Năm 1973: ARPANET lân đâu tiên được kêt nôi ra nước ngoai, tới 1 trường ̀ ̀ ́ ́ ̀
Đai hoc ở London
̣ ̣
- Năm 1984: Giao thức chuyên gởi tin TCP/IP (Transmision control protocol và ̉
internet protocol) trở thanh giao thức chuân cua internet; hệ thông cac tên miên DNS
̀ ̉ ̉ ́ ́ ̀
(Domain Name system) ra đời để phân biêt được cac may chủ chia thanh 6 loai chinh: ̣ ́ ́ ̀ ̣ ́
+ .edu: linh vực giao duc
̃ ́ ̣
+ .gov: thuôc cac cơ quan chinh phủ
̣ ́ ́
+. military: linh vực quân sự ̃
+.com: linh vực thương mai
̃ ̣
+. Org: cac tổ chức ́
+.net: cac mang, giai trí
́ ̣ ̉
- Năm 1990: ARPNE ngừng hoat đông, internet chuyên sang giai đoan mới ̣ ̣ ̉ ̣
- Năm 1991: Ngôn ngữ đanh dâu siêu văn ban HTML (hypertext Markup ́ ́ ̉
Language) ra đời cung với giao thức truyên siêu văn ban HTTP (hypertext transfer
̀ ̀ ̉
protocol). Internet thực sự trở thanh công cụ đăc lực với hang loat dich vụ mới ̀ ́ ̀ ̣ ̣
WWW ra đời, đem lai cho người dung khả năng tham chiêu từ môt văn ban đên
̣ ̀ ́ ̣ ̉ ́
nhiêu văn ban khac, chuyên cơ sở dữ liêu nay sang cơ sở dữ liêu khac với hinh thức
̀ ̉ ́ ̉ ̣ ̀ ̣ ́ ̀
hâp dân và nôi dung phong phú
́ ̃ ̣
Internet và web là công cụ quan trong nhât cua Thương mai điên tưu, giup cho ̣ ́ ̉ ̣ ̣ ́
thương mai điên tư phat triên và hoat đông hiêu quả
̣ ̣ ́ ̉ ̣ ̣ ̣
Mang internet được sư dung rông rai từ năm 1994
̣ ̣ ̣ ̃
Công ty Netsscape tung ra cac phân mêm ứng dung để khai thac thông tin trên ́ ̀ ̀ ̣ ́
̀
internet vao thang 05/1995 ́
Công ty Amazon.com ra đời vao thang 5/1997 ̀ ́
- Công ty IBM tung ra chiên dich quang cao cho cac mô hinh kinh doanh điên tư năm
́ ̣ ̉ ́ ́ ̀ ̣
1997
Dich vụ internet băt đâu được cung câp tai Viêt Nam chinh thức từ năm 1997
̣ ́ ̀ ́ ̣ ̣ ́
2.3 Động lực thúc đẩy TMĐT phát triển
- Động lực kinh tế: một trong những lợi ích của TMĐT là tính hiệu quả kinh
tế đạt được từ việc giảm chi phí truyền thống, hạ tầng công nghệ chi phí thấp, tốc
độ cao hơn và giao dịch điện tư kinh tế hơn với nhà cung cấp, chi phí chia sẻ thông
tin toàn cầu và quảng cáo thấp hơn, các lựa chọn dịch vụ của khách hàng rẻ hơn.
Sự hội nhập kinh tế hoặc là bên trong hoặc là bên ngoài. Sự hội nhập bên trong
liên quan tới mạng lưới kinh tế của các tổng công ty, tập đoàn, nhà cung cấp, khách
hàng và các nhà thầu độc lập vào trong một cộng đồng truyền đạt tới một môi
trường ảo (với Internet như là phương tiện). Việc tích hợp Internet, mặt khác là
mạng lưới của nhiều ban trong một công ty và của các hoạt động kinh doanh và chu
trình. Điều này cho phép thông tin kinh doanh quan trọng được lưu giữ dưới dạng số
có thể lấy được ngay lập tức và truyền tải điện tư. Việc hội nhập bên trong với
minh họa tốt nhất là mạng nội bộ công ty (Internet). Các công ty có mạng nội bộ
hiệu quả là Procter and Gamble, IBM, Nestle và Intel.
- Động lực thị trường: Các tổ hợp công ty được khuyến khích sư dụng TMĐT
trong tiếp thị và xúc tiến sản phẩm nhằm nắm bắt được thị trường quốc tế lớn và
nhỏ. Tương tự, Internet được sư dụng như là một phương tiện cho tăng cường các
dịch vụ và hỗ trợ khách hàng. Điều này dễ hơn nhiều cho các công ty nhằm cung cấp
cho người tiêu dùng với chi tiết hơn về sản phẩm và thông tin dịch vụ qua việc sư
dụng Internet.
- Động lực công nghệ: Sự phát triển của Công nghệ - Thông tin - Truyền
thông (ICT – Information and Communications Technology) là nhân tố chính trong sự
tăng trưởng của TMĐT. Ví dụ, tiến bộ công nghệ trong số hóa nội dung, kỹ thuật
nén và thúc đẩy công nghệ hệ thống mở đã mở đường cho hội tụ dịch vụ truyền
thông vào một mặt bằng duy nhất. Đổi lại, điều này đã làm cho truyền thông hiệu
quả hơn, nhanh hơn, dễ dàng hơn và kinh tế hơn vì nhu cầu thiết lập mạng riêng
biệt cho các dịch vụ điện thoại, truyền hình, truyền hình cáp và truy nhập Internet bị
loại trừ. Từ quan điểm của doanh nghiệp, công ty và người tiêu dùng, chỉ có một nhà
cung cấp thông tin có nghĩa là chi phí truyền thông thấp hơn.
Hơn thế nữa, nguyên tắc của tiếp cận phổ cập có thể đạt được dễ dàng hơn với
sự hội tụ. Hiện tại chi phí cao của việc lắp đặt các đường dây trên đất liền tại các
vùng nông thôn thưa thớt làm nản lòng các công ty viễn thông nhằm lắp đặt điện
thoại tại các khu vực này. Lắp đặt đường dây trên mặt đất ở các vùng nông thôn có
thể hấp dẫn thành phần tư nhân hơn nếu doanh thu từ việc này không giới hạn với
chi phí điện thoại đường dài và nội hạt. Sự phát triển này sẽ đảm bảo sự tiếp cận có
- thể chấp nhận được tới thông tin cho những người ở vùng nông thôn và sẽ giảm bớt
cho chính phủ những vấn đề và chi phí đắt đỏ cho những đường dây này.
2.4 Các đặc trưng của TMĐT
So với các hoạt động Thương mại truyền thống, TMĐT có một số điểm khác
biệt cơ bản sau:
- Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với nhau và
không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến
hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như
chuyển tiền, séc hoá đơn, vận đơn, gưi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như:
fax, telex… chỉ được sư dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sư
dụng các phương tiện điện tư trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải
thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch.
- Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của
khái niệm biên giới quốc gia, còn TMĐT được thực hiện trong một thị trường không
có biên giới (cạnh tranh thống nhất toàn cầu). TMĐT trực tiếp tác động tới môi
trường cạnh tranh toàn cầu.
TMĐT càng phát triển, thì máy tính cá nhân trở thành cưa sổ cho doanh nghiệp
hướng ra thị trường trên khắp thế giới. Với TMĐT, một doanh nghiệp dù mới thành
lập đã có thể kinh doanh ở bất kỳ đâu mà không hề phải bước ra khỏi nhà - một công
việc trước kia phải mất rất nhiều thời gian.
- Trong TMĐT, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như giao
dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà cung cấp dịch
vụ mạng, các cơ quan chứng thực… là những người tạo môi trường cho các giao
dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ
chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch TMĐT, đồng thời họ
cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch TMĐT.
- Đối với thương mại truyền thống, mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để
trao đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT, mạng lưới thông tin là thị trường.
2.5 Các loại hình giao dịch TMĐT
Trong TMĐT có ba chủ thể tham gia: Doanh nghiệp (B) giữ vai trò động lực phát
triển TMĐT, người tiêu dùng (C) giữ vai trò quyết định sự thành công của TMĐT và
chính phủ (G) giữ vai trò định hướng, điều tiết và quản lý. Từ các mối quan hệ giữa
các chủ thể trên ta có các loại giao dịch TMĐT: B2B, B2C, B2G, C2G, C2C… trong
đó B2B và B2C là hai loại hình giao dịch TMĐT quan trọng nhất.
Bảng 1-1: Các loại hình giao dịch TMĐT
Doanh nghiệp Khách hàng Chính phủ
Chủ thể
(Business - B) (Customer - C) (Government – G)
Doanh nghiệp B2B B2C B2G
- Thông qua Internet, Bán hàng qua Thuế thu nhập và
(Business - B)
Internet, Extranet, EDI mạng thuế doanh thu
Khách hàng C2B C2C C2G
(Customer - C) Bỏ thầu Đấu giá trên eBay Thuế thu nhập
G2B G2C G2G
Chính phủ Mua sắm công cộng Quỹ hỗ trợ trẻ em, Giao dịch giữa các
(Government – G) trực tuyến, các quy sinh viên học cơ quan, chính phủ
trình thương mại, … sinh…
0.2.5.1 Business – to – Business (B2B): mô hình TMĐT giữa các doanh nghiệp với
doanh nghiệp
TMĐT B2B là việc thực hiện các giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau trên
mạng. Ta thường gọi là giao dịch B2B. Các bên tham gia giao dịch B2B gồm: người
trung gian trực tuyến (ảo hoặc click – and – mortar), người mua và người bán. Các
loại giao dịch B2B gồm: mua ngay theo yêu cầu khi giá cả thích hợp và mua theo hợp
đồng dài hạn, dựa trên đàm phán cá nhân giữa người mua và người bán.
• Thị trường B2B có hai thành phần chủ yếu
- Hạ tầng ảo (e – frastructure) là cấu trúc của B2B, bao gồm:
• Hậu cần – vận tải, nhà kho và phân phối;
• Cung cấp các dịch vụ ứng dụng – tiến hành, máy chủ và quản lý phần mềm
trọn gói từ một trung tâm hỗ trợ;
• Thuê ngoài các chức năng trong chu trình TMĐT như thuê chỗ máy chủ Web,
bảo mật và giải pháp chăm sóc khách hàng;
• Các phần mềm giải pháp đấu giá cho việc điều hành và duy trì hình thức
đấu giá trên Internet;
• Phần mềm quản lý nội dung cho việc hỗ trợ quản lý và truyền tải nội dung
trang Web;
• Cho phép thương mại dựa trên Web.
- Thị trường ảo (e – markets): là những Website nơi mà người mua người bán
trao đổi qua lại với nhau và thực hiện giao dịch.
Ví dụ: IBM, Hewlett Packard (HP), Cisco, Dell…
• Các lợi ích của TMĐT B2B trong các thị trường đang phát triển
- Cắt giảm chi phí: có ba loại chi phí được giảm xuống đáng kể qua việc thực
hiện TMĐT B2B
• Chi phí tìm kiếm. Trong thị trường B2B, người bán và người mua tập hợp
lại cùng với nhau trong một cộng đồng thương mại đơn nhất.
• Chi phí giao dịch
• Thúc đẩy việc quản lý kho hàng và hậu cần.
- Loại bỏ trung gian: Người cung cấp có khả năng trao đổi trực tiếp với người
- mua, loại bỏ trung gian và nhà phân phối.
- Minh bạch trong giá cả: Internet cho phép việc xuất bản thông tin về một
hoạt động mua bán hoặc giao dịch, làm cho thông tin sẵn sàng được tiếp cận và sẵn
có với tất cả thành viên của thị trường mạng.
- Hơn thế nữa, thị trường mạng B2B mở rộng biên giới cho việc thương thuyết
giá cả cho dù ở đâu, nhiều người bán và người mua tham dự báo việc định hình giá và
đấu thầu hai chiều. Trong môi trường như vậy, những yêu cầu cho cả người mua và
người bán được tập hợp lại để đạt được những giá cạnh tranh, thấp hơn những giá
do từng cá nhân đưa ra.
- Hiệu ứng mạng và phạm vi của các nền kinh tế. Sự tăng trưởng nhanh chóng
của thị trường mạng B2B tạo ra nền kinh tế cung cấp dựa trên giá thành truyền
thống.
• Các loại giao dịch B2B cơ bản:
(a) Một bên bán nhiều bên mua là mô hình dựa trên công nghệ Web trong đó một
công ty bán cho nhiều công ty mua. Có 3 phương pháp bán trực tiếp trong mô hình
này: bán từ catalog điện tư, bán qua quá trình đấu giá, bán theo hợp đồng cung ứng
dài hạn đã thoả thuận trước. Công ty bán có thể là nhà sản xuất loại click – and –
mortar hoặc nhà trung gian thông thường là nhà phân phối hay đại lý.
(b) Một bên mua - nhiều bên bán
(c) Sàn giao dịch - nhiều bên bán - nhiều bên mua
(d) TMĐT phối hợp – các đối tác phối hợp với nhau ngay trong quá trình thiết kế
chế tạo sản phẩm
Người mua Người bán
Công ty A Công ty A
Công ty B Công ty B
Công ty C Công ty C
Người bán Người mua
Công ty D Công ty D
(a) Một bên bán (b) Một bên mua
– - Nhiều bên bán
Dịch vụ
Người bán Người mua
Một giao dịch
(c) Nhiều bên mua - Nhiều bên bán
- Thành
phần khác
Chính phủ
Người mua
Quản
Cộng đồng lý
Người bán
Trường đại
Ngành công
học
(d) TMĐT phối hợp ệp liên
nghi
Hình 1-1: Các loại giao dịch B2B cơ bản
0.2.5.2 Business – to – customer (B2C): Mô hình TMĐT giữa doanh nghiệp và người
tiêu dùng.
Đây là mô hình bán lẻ trực tiếp đến người tiêu dùng. Trong TMĐT, bán lẻ điện
tư có thể từ nhà sản xuất, hoặc từ một cưa hàng thông qua kênh phân phối. Hàng hoá
bán lẻ trên mạng thường là hàng hoá, máy tính, đồ điện tư, dụng cụ thể thao, đồ
dùng văn phòng, sách và âm nhạc, đồ chơi, sức khoẻ và mỹ phẩm, giải trí..v..v…
Mô hình kinh doanh bán lẻ có thể phân loại theo quy mô các loại hàng hoá bán
(tổng hợp, chuyên ngành), theo phạm vi địa lý (toàn cầu, khu vực), theo kênh bán (bán
trực tiếp, bán qua kênh phân bố).
Một số hình thức các cưa hàng bán lẻ trên mạng: brick – and – mortar là loại cưa
hàng bán lẻ kiểu truyền thống, không sư dụng Internet, click – and – mortar là loại
cưa hàng bán lẻ truyền thống nhưng có kênh bán hàng qua mạng và cưa hàng ảo là
cưa hàng bán lẻ hoàn toàn trên mạng mà không sư dụng kênh bán truyền thống.
2.6 Các hình thức hoạt động chủ yếu của TMĐT
0.2.6.1 Thư điện tư
Các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước, cá nhân, tổ chức, … sư dụng thư điện
tư để gưi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư điện tư
(electronic mail, viết tắt là e – mail). Thông tin trong thư điện tư không phải tuân theo
một cấu trúc định trước nào.
0.2.6.2 Thanh toán điện tư
Thanh toán điện tư là việc thanh toán tiền thông qua phương tiện điện tư, ví dụ,
trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ
mua hàng, thẻ tín dụng v..v thực chất đều là dạng thanh toán điện tư. Ngày nay, với
- sự phát triển của TMĐT, thanh toán điện tư đã mở rộng sang các lĩnh vực mới đó là:
- Trao đổi dữ liệu điện tư tài chính (Financial Electronic Data Interchange, gọi
tắt là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tư giữa các công ty giao dịch
với nhau bằng điện tư.
- Tiền lẻ điện tư (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành
(ngân hàng hoặc một tổ chức tín dụng nào đó) sau đó được chuyển đổi tự do sang các
đồng tiền khác thông qua Internet, áp dụng trong cả phạm vi một nước cũng như giữa
các quốc gia; tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hoá, vì thế tiền mặt này
còn có tên gọi là “tiền mặt số hoá” (digital cash). Tiền lẻ điện tư đang trên đà phát
triển thanh, nó có ưu điểm nổi bật sau:
• Dùng để thanh toán những món hàng giá trị nhỏ vì phí giao dịch mua hàng và
chuyển tiền rất thấp;
• Có thể tiến hành giữa hai cá nhân hoặc hai công ty bất kỳ, các thanh toán là
vô danh;
• Tiền mặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được tiền giả.
- Ví điện tư (electronic purse). Là nơi để tiền mặt Internet, chủ yếu là thẻ thông
minh (smart card), còn gọi là thẻ giữ tiền (stored value card), tiền được trả cho bất kỳ
ai đọc được thẻ đó; kỹ thuật của túi tiền điện tư tương tự như kỹ thuật áp dụng cho
“tiền lẻ điện tư”. Thẻ thông minh, nhìn bề ngoài như thẻ tín dụng, nhưng ở mặt sau
của thẻ, có một chíp máy tính điện tư có một bộ nhớ để lưu trữ tiền số hoá, tiền ấy
chỉ được “chi trả” khi sư dụng hoặc thư yêu cầu (như xác nhận thanh toán hoá đơn)
được xác thực là “đúng.
- Giao dịch điện tư của ngân hàng. Hệ thống thanh toán điện tư của ngân hàng
là một hệ thống lớn gồm nhiều hệ thống nhỏ:
• Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng qua điện tư, tại các điểm bán lẻ,
giao dịch cá nhân tại các gia đình, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua
Internet, chuyển tiền điện tư, thẻ tín dụng, thông tin hỏi đáp, …
• Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán;
• Thanh toán nội bộ một hệ thống ngân hàng;
• Thanh toán liên ngân hàng.
0.2.6.3 Trao đổi dữ liệu điện tư
Trao đổi dữ liệu điện tư (Electronic Data Interchange – EDI) là việc trao đổi các
dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc”, từ máy tính điện tư này sang máy tính điện tư khác,
giữa các công ty hoặc đơn vị đã thoả thuận buôn bán với nhau.
Theo Uỷ ban liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), “Trao
đổi dữ liệu điện tư là việc chuyển giao thông tin từ máy tính điện tư này sang máy
tính điện tư khác bằng phương tiện điện tư, có sư dụng một tiêu chuẩn đã được
thoả thuận để cấu trúc thông tin”.
- EDI ngày càng được sư dụng rộng rãi trên toàn cầu, chủ yếu phục vụ cho việc
mua và phân phối hàng (gưi đơn hàng, các xác nhận, các tài liệu gưi hàng, hoá đơn
v.v…), người ta cũng dùng cho các mục đích khác, như thanh toán tiền khám bệnh,
trao đổi các kết quả xét nghiệm…
Trước khi có Internet đã có EDI, khi đó người ta dùng “mạng giá trị gia tăng”
(Value Added Network – VAN) để liên kết các đối tác EDI với nhau; cốt lõi của VAN
là một hệ thống thư điện tư cho phép các máy tính điện tư liên lạc được với nhau, và
hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm kiếm; khi nối vào VAN, một doanh
nghiệp có thể liên lạc với nhiều máy tính điện tư nằm ở nhiều thành phố trên khắp
thế giới.
Ngày nay, EDI chủ yếu được thực hiện thông qua mạng Internet. Để phục vụ
cho buôn bán giữa các doanh nghiệp thuận lợi hơn với chi phí truyền thông không quá
tốn kém, người ta đã xây dựng một kiểu mạng mới gọi là “mạng riêng ảo” (VPN –
Virtual Private Network), là mạng riêng dạng Internet của một doanh nghiệp nhưng
được thiết lập dựa trên chuẩn trang Web và truyền thông qua mạng Internet.
Công việc trao đổi EDI trong TMĐT thường gồm các nội dung sau:
- Giao dịch kết nối
- Đặt hàng
- Giao dịch gưi hàng
- Thanh toán
Vấn đề này đang được tiếp tục nghiên cứu và xư lý, đặc biệt là buôn bán giữa
các nước có quan điểm chính sách, và luật pháp thương mại khác nhau, đòi hỏi phải
có một hệ thống pháp lý chung trên nền tảng thống nhất quan điểm về tự do hoá
thương mại và tự do hoá việc sư dụng mạng Internet, chỉ như vậy mới đảm bảo
được tính khả thi, tính an toàn và tính có hiệu quả của việc trao đổi dữ liệu điện tư.
0.2.6.4 Truyền dữ liệu
Dữ liệu là nội dung của hàng hóa số, giá trị của nó không phải trong vật mang tin
mà nằm trong bản thân nội dung của nó. Hàng hoá số có thể được giao qua mạng.
Trước đây, dung liệu được trao đổi dưới dạng hiện vật bằng cách đưa vào đĩa, băng,
in thành sách báo, thành văn bản, đóng gói bao bì chuyển đến tay người sư dụng,
hoặc đến điểm phân phối (như cưa hàng, quầy báo v.v…) để người sư dụng mua và
nhận trực tiếp. Ngày nay, dung liệu được số hoá và truyền gưi theo mạng, gọi là
“giao gưi số hoá” (digital delivery).
Các tờ báo, các tư liệu công ty, các catalog sản phẩm lần lượt được đưa lên
Web, người ta gọi là “xuất bản điện tư” (electronic publishing hoặc Web publishing),
khoảng 2700 tờ báo đã được đưa lên Web gọi là “sách điện tư”…
0.2.6.5 Mua bán hàng hoá hữu hình
Đến nay, danh sách các hàng hoá bán lẻ qua mạng đã mở rộng, và xuất hiện một
loại hoạt động gọi là “mua hàng điện tư”, hay “mua hàng trên mạng”; ở một số
- nước, Internet bắt đầu trở thành công cụ để cạnh tranh bán lẻ hàng hoá hữu hình.
Tận dụng tính năng đa phương tiện của môi trường Web, người bán xây dựng trên
mạng các “cưa hàng ảo”, gọi là ảo bởi vì, cưa hàng có thật nhưng ta chỉ xem toàn bộ
quang cảnh cưa hàng và các hàng hoá chứa trong đó trên từng trang màn hình một.
0.2.7 Những nhân tố góp phần vào thành công của giao dịch TMĐT
TMĐT không chỉ liên quan đến việc công ty thiết lập một trang Web với mục
đích bán hàng cho người mua qua Internet. Để TMĐT trở thành một phương án cạnh
tranh với giao dịch thương mại truyền thống và cho một công ty tối đa hóa lợi ích của
TMĐT, một số vấn đề công nghệ cũng như cho phép phải được xem xét. Một chu
trình giao dịch TMĐT đặc trưng liên quan đến những đối tượng chính và với những
yêu cầu tương ứng như sau:
́ ́
Đôi tac giao
̣
dich
Chính phủ
Internet
Người bán Người mua
Hình 1-2: Giao dịch TMĐT
0.2.7.1 Người bán: cần phải có những yếu tố sau:
- Một trang Web với khả năng TMĐT (ví dụ như giao dịch an toàn);
- Một mạng nội bộ công ty để các đơn đặt hàng được xư lý theo phương pháp
hiệu quả;
- Nhân viên với kỹ năng về công nghệ thông tin để quản lý luồng thông tin và
duy trì hệ thống TMĐT.
0.2.7.2 Đối tác giao dịch bao gồm:
- Các ngân hàng đưa ra những dịch vụ chứng từ thanh toán giao dịch (ví dụ như
xư lý thanh toán thẻ tín dụng và chuyển tiền điện tư);
- Các công ty vận tải quốc gia và quốc tế có khả năng vận chuyển hàng hóa
trong và ngoài nước. Với giao dịch doanh nghiệp với người tiêu dùng, hệ thống này
phải đưa ra những hình thức cho việc vận chuyển giảm chi phí với những gói nhỏ
hàng;
- - Cơ quan chứng thực được coi là bên thứ ba để đảm bảo tính xác thực và an
toàn của giao dịch.
0.2.7.3 Người mua bao gồm
- Khách hàng (trong giao dịch doanh nghiệp với khách hàng) là người:
• Hình thành nên những số đông với sự tiếp cận vào Internet và với thu nhập
sẵn có cho phép dùng thẻ tín dụng;
• Có ý định mua hàng qua Internet hơn là mua hàng trực tiếp.
- Các công ty/doanh nghiệp (trong giao dịch doanh nghiệp với doanh nghiệp)
cùng với nhau hình thành nên một số lượng công ty (đặc biệt trong chuỗi cung ứng)
với sự tiếp cận Internet và khả năng đặt hàng qua Internet.
0.2.7.4 Chính phủ, nhằm thiết lập:
- Khung pháp lý quản lý các giao dịch TMĐT (bao gồm chứng từ điện tư, chữ
ký điện tư…);
- Các thể chế pháp luật thực hiện khung pháp lý (luật và quy định) và bảo vệ
người tiêu dùng và doanh nghiệp khỏi những vi phạm.
0.2.7.5 Internet. Việc sư dụng thành công của nó tùy thuộc vào những điều sau:
- Hạ tầng vững chắc và đáng tin cậy của Internet.
- Cơ cấu định giá không ngăn cản người tiêu dùng tiêu tốn thời gian vào đó và
mua hàng qua Internet (ví dụ như một cước phí mặt bằng hằng tháng cho cả truy
nhập Internet và điện thoại nội hạt).
Để cho TMĐT phát triển, những yêu cầu và nhân tố trên phải được đặt đúng
chỗ. Các nhân tố ít phát triển là trở ngại cho quá trình thâm nhập vào TMĐT một cách
tổng thể.
0.2.8 Lợi ích của TMĐT
0.2.8.1 Đối với tổ chức
- Mở rộng thị trường. Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều so với thương mại
truyền thống, các công ty có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận nhà cung
cấp, khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Việc mở rộng mạng lưới nhà cung
cấp, khách hàng cũng cho phép các tổ chức mua với giá thấp hơn và bán được nhiều
sản phẩm hơn;
- Giảm chi phí.
• Giảm chi phí sản xuất – chi phí tạo lập, duy trì, phần phối, lưu trữ và sư
dụng thông tin trên giấy (paper – based information);
Chi phí
sản xuất
Không
TMĐT
Có TMĐT
Quy mô
- Hình 1-3: Lợi ích của TMĐT với chi phí sản xuất
• Giảm chi phí giao dịch. Mặc dù khoản phí dịch vụ ngân hàng cho việc thanh
toán bằng séc giấy giữa các ngân hàng và người bán là không lớn, song, chi phí cho
quá trình thanh toán điện tư qua Internet có thể giảm đến 80% lại giúp tiết kiệm
được một khoản chi phí khổng lồ;
Chi phí giao
dịch
Không
TMĐT
Hình 1-4: Lợi ích của TMĐT với chi phí giao dịch
• Giảm chi phí quản lý hành chính;
Có TMĐT
Quy mô
Chi phí
quản lý
Không
TMĐT
Hình 1-5: Lợi ích của TMĐT với chi phí quản lý
Có TMĐT
- Cải thiện hệ thống phân phối. Sư dụng dây chuyền cung ứng thích hợp giúp
giảm thiểu gánh nặng lưu trữ hàng hoá và độ trễ trong phân phối hàng. Hệ thống cưa
hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các showroom trên mạng, ví
Quy mô
dụ ngành sản xuất ôtô, tiết kiệm được chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí lưu kho;
- Vượt giới hạn về thời gian. Việc tự động hoá các giao dịch thông qua Web và
Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không mất thêm
nhiều chi phí biến đổi;
- Sản xuất hàng theo yêu cầu - chiến lược “kéo”. Quy trình giao dịch trên
Internet có thể nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng thông qua tính chất cá nhân
- hoá trong mỗi giao dịch. Một ví dụ thành công điển hình là Dell Computer Corp;
- Mô hình kinh doanh mới. Các mô hình kinh doanh mới với những lợi thế giảm
thời gian quay vòng vốn cũng như đơn giản hoá các thủ về thanh toán và tạo ra nhiều
giá trị mới cho khách hàng;
- Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường. Với lợi thế về thông tin và khả năng
phối hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời gian tung
sản phẩm ra thị trường.
0.2.8.2 Đối với khách hàng
- Khách hàng có thể tìm kiếm thông tin về sản phẩm, dịch vụ cũng như tiến
hành các giao dịch 24/7;
- Khách hàng có nhiều lựa chọn nhờ khả năng chủ động về thông tin;
- Chính nhờ có nhiều lựa chọn nên TMĐT nâng cao khả năng khách hàng tiêu
dùng sản phẩm, dịch vụ với giá rẻ hơn.
- Vận chuyển, phân phối sản phẩm, dịch vụ với tốc độ, chất lượng ngày càng
được cải tiến, nhất là những sản phẩm số hoá;
- Khách hàng có thể tham gia trực tiếp vào những phiên đấu giá trên mạng để
mua, bán hay tìm kiếm, sưu tầm những món hàng quan tâm tại mọi nơi trên thế giới;
- Cộng đồng TMĐT. Xây dựng và củng cố mối quan hệ giữa các khách hàng để
trao đổi kinh nghiệm trong mua bán, giao dịch trên mạng; trong việc sư dụng những
loại sản phẩm được ưa chuộng;
- Tất cả các doanh nghiệp đều đang trên đường đua đến đích giành lấy sự thoả
mãn từ khách hàng, khi đó khách hàng sẽ có nhiều cơ hội mua được hàng hoá chất
lượng, giá rẻ kèm theo đó là những chính sách khuyến mãi ngày càng hấp dẫn.
0.2.8.3 Đối với xã hội
- Tạo điều kiện cho nhiều cá nhân làm việc ở nhà, mua sắm ngay trong phòng
khách…, như thế sẽ giảm áp lực giao thông trên đường phố và hạn chế ô nhiễm môi
trường từ các phương tiện giao thông;
- Hàng hoá được bán với giá rẻ hơn sẽ giúp cải thiện đời sống của những
người ở mức thu nhập trung bình; giúp người dân ở những nước “Thế giới thứ ba”
tiếp cận được với những hàng hoá, dịch vụ mà trước đây với họ chưa từng được có;
- Dịch vụ công cộng được cung cấp với chi phí thấp hơn, chất lượng dịch vụ
tăng, đem lại hiệu quả thiết thực đối với đời sống của đại đa số người dân.
0.2.9 Hạn chế của TMĐT
0.2.9.1 Hạn chế về kỹ thuật
- Chưa có tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn và độ tin cậy;
- Tốc độ đường truyền Internet vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người
dùng, nhất là trong TMĐT;
- Các công cụ xây dựng phần mềm vẫn trong giai đoạn đang phát triển;
- Khó khăn khi kết hợp các phần mềm TMĐT với các phần mềm ứng dụng và
- các cơ sở dữ liệu truyền thống;
- Cần có các máy chủ TMĐT đặc biệt (công suất, an toàn) đòi hỏi thêm chi phí
đầu tư;
- Chi phí truy cập Internet vẫn còn cao;
- Thực hiện các đơn đặt hàng trong TMĐT đòi hỏi hệ thống kho hàng tự động
lớn.
0.2.9.2 Hạn chế về thương mại
- An ninh và riêng tư là hai cản trở về tâm lý đối với người tham gia TMĐT;
- Thiếu lòng tin vào TMĐT và người bán hàng trong TMĐT do không được gặp
trực tiếp;
- Nhiều vấn đề về luật, chính sách, thuế chưa được làm rõ;
- Một số chính sách chưa thực sự hỗ trợ điều kiện để TMĐT phát triển;
- Các phương pháp đánh giá hiệu quả của TMĐT còn chưa đầy đủ, hoàn thiện;
- Chuyển đổi thói quen tiêu dùng từ thực đến ảo cần thời gian;
- Sự tin cậy đối với môi trường kinh doanh không giấy tờ, không tiếp xúc trực
tiếp, giao dịch điện tư cần thời gian;
- Số lượng người tham gia chưa đủ lớn để đạt lợi thế về quy mô;
- Số lượng gian lận ngày càng tăng do đặc thù của TMĐT;
- Thu hút vốn đầu tư mạo hiểm khó khăn hơn sau sự sụp đổ hàng loạt của các
công ty dot com.
Tóm tắt nội dung
Nền kinh tế số là nền kinh tế dựa trên tri thức, đối tượng của nền kinh tế là các
phân tư được nối mạng dựa trên sự đổi mới không ngừng, trong đó khoảng cách giữa
người tiêu dùng và nhà sản xuất mờ nhạt, đồng thời chức năng môi giới bị hạn chế
dần và biến mất; và đối mặt với những vấn đề xã hội bắt đầu nảy sinh.
Phạm vi của TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế,
việc mua bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của
TMĐT. Theo nghĩa hẹp, TMĐT chỉ gồm các hoạt động thương mại được tiến hành
trên mạng máy tính mở như Internet.
So với thương mại truyền thống, TMĐT có những đặc trưng khác biệt, đó là
việc các bên tiến hành giao dịch không cần tiếp xúc trực tiếp với nhau, các đối tác
giao dịch có thể đến từ bất kỳ nơi đâu trên thế giới, đồng thời có sự xuất hiện của
bên thứ ba như nhà cung cấp dịch vụ mạng, cơ quan chứng thực … là tác nhân tạo ra
môi trường cho các giao dịch TMĐT.
Trong TMĐT có ba chủ thể tham gia: Doanh nghiệp (B), người tiêu dùng (C) và
chính phủ (G); từ các mối quan hệ giữa các chủ thể trên ta có các loại giao dịch
TMĐT: B2B, B2C, B2G, C2G, C2C… trong đó B2B và B2C là hai loại hình giao dịch
TMĐT quan trọng nhất.
TMĐT hoạt động dưới các hình thức: thư điện tư, thanh toán điện tư, trao đổi
- dữ liệu điện tư, truyền dung liệu, và mua bán hàng hoá hữu hình.
Một chu trình giao dịch TMĐT đặc trưng liên quan đến những đối tượng chính:
Người bán với một trang Web với khả năng TMĐT; đối tác giao dịch bao gồm các
ngân hàng, các công ty vận tải quốc gia và quốc tế, cơ quan chứng thực; khách hàng;
các công ty/doanh nghiệp; Chính phủ và cuối cùng là hạ tầng vững chắc và đáng tin
cậy của Internet. Để cho TMĐT phát triển, những yêu cầu trên và nhân tố trên phải
được đặt đúng chỗ.
TMĐT giúp tổ chức mở rộng thị trường, giảm chi phí sản xuất, giao dịch và
quản lý hành chính, cải thiện hệ thống phân phối, thỏa mãn khách hàng bằng việc
tăng mức độ cá nhân hoá trong mỗi giao dịch, tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị
trường giúp giảm thời gian quay vòng vốn, chủ động trong thị trường thay đổi liên
tục.
Thông qua TMĐT, khách hàng có thể tìm kiếm thông tin về sản phẩm, dịch vụ,
tiến hành các giao dịch 24/7; khách hàng sẽ có nhiều cơ hội mua được hàng hoá chất
lượng, giá rẻ kèm theo đó là những chính sách khuyến mãi ngày càng hấp dẫn; khách
hàng có thể tham gia trực tiếp vào những phiên đấu giá trên mạng cũng như trở thành
thành viên của cộng đồng TMĐT rộng lớn có tác dụng hỗ trợ nhau trong tiêu dùng,
mua sắm rất nhiều.
Đối với xã hội, TMĐT giúp giảm áp lực giao thông trên đường phố và hạn chế ô
nhiễm môi trường từ các phương tiện giao thông; cải thiện đời sống của những
người ở mức thu nhập trung bình, người dân ở những nước “Thế giới thứ ba” đồng
thời, dịch vụ công cộng được cung cấp với hiệu quả cao đem lại hiệu quả thiết thực
đối với đời sống của đại đa số người dân.
Bên cạnh những lợi ích to lớn, một số hạn chế còn làm cản trở sự phát triển của
TMĐT có thể kể đến là nhóm những hạn chế về kỹ thuật như chưa chuẩn hoá,
thống nhất các quy định chung trên toàn thị trường, khả năng đáp ứng cũng như tính
tương thích giữa những nền tảng với các ứng dụng mới và nhóm hạn chế về thương
mại, chủ yếu là quá trình chuyển đổi thói quen tiêu dùng, sự thiếu lòng tin của khách
hàng, họ lo ngại về an ninh và tính riêng tư khi tham gia giao dịch TMĐT
Câu hỏi ôn tập
Q1.1. Nêu những đặc điểm của nền kinh tế số? Phân tích ảnh hưởng của những
đặc điểm này đến TMĐT?
Q1.2. Nêu những lợi ích của TMĐT? Lợi ích nào có ý nghĩa to lớn nhất? Giải thích.
Q1.3. Nêu những hạn chế của TMĐT? Hạn chế nào ảnh hưởng nhất đến sự phát
triển của TMĐT? Giải thích.
Q1.4. Mô hình B2B hay B2C được sư dụng rộng rãi hơn? Vì sao?
Q1.5. Nêu những nhân tố góp phần vào thành công của một giao dịch TMĐT đặc
trưng?
nguon tai.lieu . vn