Xem mẫu

  1. YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG THƠ LƯU QUANG VŨ ThS. Huỳnh Thị Diệu Duyên Trường Đại học Phú Yên Tóm tắt Bài viết nghiên cứu những phương diện biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của yếu tố tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ. Thơ Lưu Quang Vũ, yếu tố tự sự được thể hiện trên nhiều phương diện: nhan đề bài thơ, hình thức câu thơ, ngôn ngữ thơ, giọng điệu thơ, sự gia tăng các yếu tố kể sự trong cấu trúc trữ tình bài thơ... Không chỉ tăng cường chất hiện thực cho thơ, yếu tố tự sự còn góp phần quan trọng tạo nên chiều sâu suy tư, tính chiêm nghiệm và chất triết lí của thơ Lưu Quang Vũ. Đồng thời, trình hiện một cái Tôi đầy trăn trở, suy tư về nhân sinh, thế sự; một cái Tôi dũng cảm, thành thật trên hành trình đi tìm cái Đẹp của con người, cuộc đời. Từ khóa: tự sự, Lưu Quang Vũ, thơ Lưu Quang Vũ. 1. Đặt vấn đề Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một trong những cây bút tài năng của văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XX. Trong sự nghiệp cầm bút ngắn ngủi của mình, tác giả họ Lưu khiến người ta kinh ngạc bởi khả năng lao động và sức sáng tạo dồi dào của bản thân: hơn năm mươi kịch bản kịch, hàng trăm bài thơ, hàng chục truyện ngắn và bài viết chân dung các diễn viên, nghệ sĩ. Trong những thể tài sáng tác đó, Lưu Quang Vũ đến với thơ sớm nhất. Cũng từ rất sớm, với tập thơ Bếp lửa – Hương cây (1968, in chung với Bằng Việt), nhà thơ đã ghi dấu tên mình vào đội ngũ những gương mặt trẻ nổi bật của thơ chống Mĩ, và sau này là, thơ thời hậu chiến. Thơ Lưu Quang Vũ, dù trước hay sau năm 1975, là loại thơ giàu chất tự sự. Tự sự trở thành một trong những đặc điểm tiêu biểu và là yếu tố quan trọng kết tinh giá trị thơ Lưu Quang Vũ. 2. Tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ – một số phương diện biểu hiện 2.1. Trong thơ Lưu Quang Vũ, tự sự xâm nhập một cách đa diện vào cấu trúc trữ tình của thể loại. Trên bề mặt văn bản, phương diện đầu tiên, dễ tri nhận nhất, chính là nhan đề bài thơ. Khảo sát thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều bài thơ mang nhan đề giàu tính tự sự. Chằng hạn như, Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn, Đêm hành quân, Chuyện nhỏ bên sông, Em sang bên kia sông, Buổi chiều đón con, Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa… Ở những nhan đề này, lượng thông tin được chứa đựng không phải là cảm xúc, tâm trạng, lí tưởng, chí hướng…của nhân vật trong tác phẩm hoặc của chính tác giả mà là kể/tả về một sự kiện, một cảnh tượng, một trạng huống nào đó. Có lẽ, chính bởi vậy mà, so với dạng nhan đề truyền thống của thơ trữ tình, nhan đề tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ vẫn có những nét riêng về hình thức và cấu tạo. Có khi, nhan đề vượt thoát khỏi khuôn hình súc tích, ngắn gọn để đạt đến sự “dài dòng”, tựa như lời nói thông thường (Đêm Đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn, Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà, Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa…); Cũng có khi, nhan đề được cấu tạo là một câu, hoặc hoàn chỉnh ngữ pháp (Em sang bên kia sông, Người con giai đến phòng em chiều thu…), hoặc khuyết thiếu ngữ pháp (Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa, Buổi chiều đón 1
  2. con…); Và nhiều khi, nhan đề là một cụm từ mang sức gợi về một câu chuyện, một thực tại khách quan (Giấc mơ của anh hề, Hải Phòng- mùa đông, Hồ sơ mùa hạ 1972, Những người đi năm ấy…) Lí luận văn học đã chỉ ra rằng, nhan đề - với tư cách là yếu tố cận văn bản - có ý nghĩa như một mã nghệ thuật, dẫn lối người đọc vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Nó không chỉ là kí hiệu thông thường mà là “kí hiệu trung tâm, châu tuần mọi lớp nghĩa được biểu đạt, nghĩa tiềm ẩn của thi phẩm”1. Đồng thời, nhan đề còn là nơi thể hiện dự đồ nghệ thuật của văn bản, cho đọc giả biết trước nội dung văn bản, cách đọc và tiếp nhận văn bản…Xuất phát từ những cơ sở lí luận này, có thể khẳng định, việc đặt nhan đề mang tính tự sự không hẳn là sự ngẫu nhiên của vô thức sáng tạo mà là sự lựa chọn có chủ đích của nhà thơ họ Lưu. Dường như, nhà thơ - thông qua việc đặt nhan đề - hướng đến sự phá vỡ những ranh giới của thể loại nhằm mở rộng biên độ của thi phẩm. Đối với nhà thơ, thơ không chỉ là sự tự biểu hiện mà còn trần thuật; không chỉ hướng vào nội tâm mà còn khắc họa những thực tại khách quan của cuộc đời. Mặt khác, nhan đề mang tính tự sự là một tín hiệu thẩm mĩ phản ánh đặc điểm nổi bật của thơ Lưu Quang Vũ: chất tự sự xen lẫn với chất trữ tình, đắm đuối. Ví như bài thơ Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn. Bài thơ gây ấn tượng bởi đầy ắp những chi tiết kể sự: Gió hú gầm gào qua gạch vỡ Người chết vùi thân dưới hố bom Kẻ sống vật vờ không chốn ở Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường Hay: Mọi chuyện thiêng liêng thành nhảm nhí Khắp nơi trí trá lọc lừa nhau (…) Tối đen thành phố đêm lưu lạc Máy bay giặc rít ở trên đầu khiến cho tác phẩm không chỉ là lời giãi bày, thổ lộ tâm trạng buồn, thương, nghẹn ngào khi tiễn biệt bạn mà hơn thế nữa, khắc họa một cách chân thực tình cảnh “nước Việt đói nghèo thân cơ cực/ Đất hẹp trụi trần vạn khổ đau”. Lòng thương bạn, cũng vì thế, hòa vào niềm thương nhà thương nước khắc khoải, đớn đau của nhà thơ. 2.2. Tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ còn được biểu hiện ở sự gia tăng tính sự kiện trong thơ. Các yếu tố kể sự, do đó, cũng xuất hiện thường trực trong các sáng tác thơ. Có thể nói, mỗi bài thơ của nhà thơ, dù bắt nguồn từ cảm hứng tình yêu hay quê hương, đất nước, vẫn luôn hàm chứa ít nhất một sự kiện trong đó. Song, nếu như trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp… có hẳn một câu chuyện có cốt truyện, nhân vật có ngôn ngữ, có tính cách tương đối đầy đặn thì ở thơ Lưu Quang Vũ, phần lớn sự kiện là những khoảnh khắc, những lát cắt của hiện thực. Không có xung đột, không có cốt truyện, không có nhân vật được xây dựng với những tính cách cụ thể, sinh động. Mạch tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ được hình thành nên bởi những câu chuyện nhỏ, những hình ảnh quen thuộc 1 Trường ĐHSP Hà Nội (2016), Kí hiệu học – từ lí thuyết đến ứng dụng trong nghiên cứu và dạy học Ngữ văn (Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia), Nxb Giáo dục, tr.326. 2
  3. thường ngày. Khi thì là chuyện ngụy trang bằng những cành bưởi cành chanh thơm nồng hương vị quê nhà: Giữa giờ chiến đấu Mẹ già em bé trong thôn Đã bẻ cả cây vườn Cả cành chanh cành bưởi Đem tới làm ngụy trang cho bộ đội (Lá bưởi lá chanh) Khi là chuyện mẹ tiễn cha lên đường ra trận: Trên bến sông này một chiều năm ấy Mẹ tiễn cha đi bộ đội Tiếng súng đồn Tây ngơ ngác hoàng hôn Con rô sục bùn, con vạc kêu sương Cha lội tắt qua dòng nước lạnh Một nắm cơm đùm, một manh áo rách Ngẩng lên trời một mảnh trăng non (Chuyện nhỏ bên sông) Khi lại là cảnh những đứa trẻ chạy trốn giữa giấc ngủ đêm: Đêm ấy bom rơi chúng choàng thức dậy Đứa theo mẹ dắt em, đứa ôm chặt tay bà Đứa ôm làn xách bọc chạy sau xe Lật đật vừa đi vừa ngủ gật (Khu nhà vắng trẻ con) … Trong những câu thơ trên, lối trữ tình, thi vị hóa cảm xúc, ngoại cảnh thường thấy của thơ trữ tình dường như “biến mất”. Thay vào đó là các yếu tố thông báo, những chi tiết kể sự tỉ mỉ, gián cách, tưởng như có thể kể lại theo lối văn xuôi. Trong thơ Lưu Quang Vũ, yếu tố sự kiện, nhìn chung, tồn tại với hai dạng thức cơ bản. Dạng thức thứ nhất, đó là những sự kiện tồn tại khách quan, mang ý nghĩa tự thân, nhà thơ chỉ ghi chép lại một cách khách quan, trung thực: Người lính đưa tin trên mình ngựa lao về Đêm gió bấc bốn bề đen thẳm Làng im ngủ dưới mịt mù sương lạnh Con ngựa chồm lên đứng sững Tung bờm dữ dội hí ran (Người báo hiệu) Hay: Sớm hoà bình đầu tiên Người lính già ngồi nhớ Những báo phát tin đi Các phóng viên ngoại quốc Chen chúc bao lơn khách sạn Tò mò chụp ảnh Trẻ con nước Nam bồng bế nhau cười Lũ tù binh ném bom Sung sướng về Tổ Quốc 3
  4. Tàu thả mìn đi vớt mìn… (Liên tưởng tháng hai) Dạng thức thứ hai là những sự kiện gắn liền với trải nghiệm của nhà thơ, ít nhiều mang tính chất cá nhân, riêng tư. Lời kể, vì vậy, mang dáng dấp lời tự thuật: Năm tôi mười bảy tuổi Mẹ bảo tôi: Mày lớn rồi phải tự sống đi thôi Nhà nghèo đông em mẹ không nuôi hết được Tôi đi nhờ tàu thủy từ Hòn Gai Ra Hải Phòng tìm việc (Những bạn khuân vác) Hay: Tôi trở về ngồi trong lòng bà Bà kể chuyện thời con gái Trốn nhà theo anh trai phường vải Gánh hát chèo tỉnh Đông (Đất nước đàn bầu) 2.3. Với việc đưa sự kiện vào thơ, thơ Lưu Quang Vũ cũng đồng thời ghi nhận sự xuất hiện của yếu tố trần thuật trong thơ. Điều đặc biệt là, điểm nhìn trần thuật từ phía nhân vật gần như vắng bóng trong thơ thi sĩ họ Lưu. Trong khi đó, người trần thuật ở ngôi thứ nhất xuất hiện một cách thường trực và là chủ thể điểm nhìn trần thuật chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ. Hình tượng người trần thuật ngôi thứ nhất có sự biến hóa đa dạng, sáng tạo: tôi, ta, chúng ta, anh, em. Dù định danh bằng những đại từ xưng hô khác nhau song đều là tiếng nói của nhà thơ. Lựa chọn điểm nhìn trần thuật của chính bản thân, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã thực hiện một cuộc dấn thân đầy bản lĩnh nghệ thuật, bản lĩnh văn hóa của một người nghệ sĩ luôn khao khát chạm đến tận cùng sự thật. Dù cho đương thời, sự thật ấy là vùng “cấm kị” và người nghệ sĩ, có khi, phải trả giá bằng chính sinh mệnh văn chương, sinh mệnh bản thân mình. Tôi, ta, chúng ta… là người trần thuật trung thực, quyết liệt phơi bày những cảnh tượng trần trụi, khốc liệt trên trang giấy: cuộc chiến tranh dằng dặc rừng đầy muỗi độc chiến hào lở loét khói bom những đôi giày thủng đầy bùn những tấm vải mưa ướt sũng những con vắt đói chui vào lưng lá thư nhà đọc mãi đến thuộc lòng đêm trắng sương lùa củi tắt (Những đứa trẻ buồn) Hay: Gió hú ầm ào qua gạch vỡ Người chết vùi thân dưới hố bom Kẻ sống vật vờ không chốn ở Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường 4
  5. (Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm, bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn) Đồng thời, tự gián cách bản thân với sự kiện một cách triệt để, khiến cho tự sự trong thơ mang tính chất của khách thể hóa. Biểu hiện cụ thể là, thế giới khách quan với các sự kiện, hiện tượng không được nhà thơ mô tả hoặc kể lại theo định hướng của tâm lí, cảm xúc mà được đồng hóa bởi những chi tiết thông báo gọn, sắc, tác động mạnh vào ấn tượng người đọc. Từ đó, gợi mở những khả năng biểu đạt vượt thoát khỏi trường biểu cảm cảm xúc thông thường, vốn có của thơ trữ tình. Mặt khác, trong thơ Lưu Quang Vũ, lối trần thuật thường được tiến hành một cách linh hoạt, đa dạng. Nhà thơ thường sử dụng những từ, cụm từ, câu…đóng vai trò dẫn dụ, gợi mở vào câu chuyện sắp được kể. Chẳng hạn như: - Chiều ấy các anh đi Nắng nhạt vàng hoe gốc rạ (Gửi tới các anh) - Như ngày thơ nhỏ Có cây bưởi cạnh cầu ao Mấy gốc chanh ven hàng rào Bưởi chín về mùa thu Chanh sai về mùa hạ Me chăm gốc nhiều nên ngon quả. (Lá bưởi lá chanh) Và cũng có khi trần thuật theo lối “đánh thẳng”: - thành phố nửa đêm chạy giặc trăng đỏ ngầu trong tiếng ve sôi những đoàn người hối hả dắt nhau đi tay xách vai còng gánh nặng cửa ô chật nghẽn tiếng còi giục người la (Hồ sơ mùa hạ, 1972) gây cảm xúc ngỡ ngàng, choáng ngợp cho người đọc. 2.4. Bên cạnh những yếu tố trên, ngôn ngữ, giọng điệu và hình thức thơ cũng là những phương diện biểu hiện chất tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ. Về hình thức thơ, có thể thấy, thơ Lưu Quang Vũ phần lớn là những bài thơ tự do, tự do không vần. Trên bề mặt văn bản, câu thơ co duỗi, xô lệch: - Nửa đêm, những con tàu Thả neo ngoài cảng Ngôi nhà cũ đã tan Vì một thói quen Tôi vẫn khoá cửa cất chìa khoá vào túi (Hải Phòng, mùa đông) - thành phố nửa đêm chạy giặc trăng đỏ ngầu trong tiếng ve sôi những đoàn người hối hả dắt nhau đi tay xách vai còng gánh nặng cửa ô chật nghẽn tiếng còi giục người la (Hồ sơ mùa hạ 1972) 5
  6. hoặc có khi vắt dòng, phá vỡ khuôn thức truyền thống một dòng thơ một câu thơ: - Thượng Hải giăng đèn đón tổng thống Ních-sơn nguyên soái Diệp Kiếm Anh uy nghiêm tóc bạc đưa khách quý thăm chiến khu cách mạng tổng thống Mỹ lệ nhòa khóc oan hồn em bé Ta-nhi-a (Hồ sơ mùa hạ 1972) - sân ga mù mịt khói bay chủ xưởng chủ đồn điền bước lên tàu ủ rũ những bà đầm tay ôm chó bông những viên đội xếp tồi tàn lếch thếch ba toong hòm xiểng (Năm 1954) Điều này không chỉ mở rộng khả năng phản ánh cho thơ mà quan trọng hơn, đưa lời thơ về gần hơn với lời nói thông thường cũng như gia tăng chất văn xuôi cho câu thơ trữ tình. Lúc bấy giờ, tự bản thân sự kiện sẽ quyết định độ dài ngắn của câu thơ. Nhịp điệu bên ngoài được tạo nên từ vần điệu cũng được giảm thiểu, nhường chỗ cho một loại nhịp điệu khác, tiến gần hơn đến bản chất thi ca, nhịp điệu bên trong – thứ âm nhạc của nội tâm, của chính bản thân sự kiện, hiện tượng: - cổng chào lá kết đèn treo cánh trắng bồ câu lấp loáng đêm pháo hoa vụt sáng lời ca bồng bột ngây thơ “dân Liên Xô vui hát đồng hoa” điệu múa sạp từng bừng sân khấu rộng (Năm 1954) - Thị xã dựng những khung nhà mới Trên dãy tường đổ nát mùa đông A B C tiếng trẻ học vỡ lòng Cỏ trên những nấm mồ xanh nõn Lá ướt cây bàng lao xao chim hót Những mảnh bom của hai cuộc chiến tranh Han gỉ trong bùn (Phủ Lý tháng hai) Hình thức thơ này không phải là sáng tạo của nhà thơ Lưu Quang Vũ. Song, nếu đặt những câu thơ kể sự trên bên cạnh những câu thơ của Hồng Nguyên: Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ Súng bắn chưa quen Quân sự mươi bài Lòng vẫn cười vui kháng chiến (Nhớ - Hồng Nguyên) Hay thơ Chế Lan Viên: 6
  7. Mậu Thân hai nghìn người xuống đồng bằng Chỉ một đêm, còn sống có ba mươi. (…) Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ ! (Ai ? Tôi ! - Chế Lan Viên) sẽ thấy tính chất khác hẳn của hình ảnh thơ Lưu Quang Vũ, mới mẻ hơn và đi xa hơn về phía trước. Nhà thơ Lưu Quang Vũ sử dụng một cách đa dạng các hình thức câu thơ trong sáng tác của mình. Câu kể xen lẫn với câu tả, câu hỏi, tạo nên giọng điệu thơ giàu chất tự sự: - Ông chủ quán đã già Mặt vàng vọt và tay xương run rẩy Cô con gái vẫn ngồi trong bóng tối Đã có chồng và tay đã xấu nhiều đi Chiếc máy hát rè rè Bài hát cũ nghẹn không thành tiếng được (Quán cà phê ngoại ô) - Ngoài kia đường dài lấp loáng đèn pha Đẫm bùn nhão xe băng ra mặt trận Người đi người đi như dòng sông vô tận Áo ướt đầm, lòng cháy nỗi yêu nhau Đồng đội ơi, đêm nay anh về đâu? (Thức với quê hương) Trên phương diện ngôn ngữ, ngôn ngữ trong thơ Lưu Quang Vũ có xu hướng đời thường hóa, mộc mạc và đơn giản, gần với ngôn ngữ đời sống thường ngày: - Khuya lắm rồi, vừa đổi xong phiên gác Mưa rào rào nằm ngoài không ngủ được (Thức với quê hương) - Những cô gái chắc đã tàn tạ cả Lũ trẻ nhỏ ngụp chìm trong đạn lửa Bao nấm mồ nằm lại những đồi hoang (Thị trấn biển) Chính kiểu ngôn ngữ này đã mở đường cho chất tự sự ùa vào trong thơ nhà thơ họ Lưu. Nó khước từ gần như triệt để sự mĩ lệ của ngôn ngữ thi ca để chuyển tải trọn vẹn tính chất “văn xuôi” của những sự kiện được kể lại trong thơ. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà câu thơ Lưu Quang Vũ mất đi sự mềm mại, trong sáng. Ngược lại, bên cạnh chức năng kể sự, chúng còn hé mở thế giới nội tâm nhiều trăn trở, suy tư của nhà thơ. Lựa chọn ngôn ngữ đời thường là một ứng xử nghệ thuật của Lưu Quang Vũ mà qua đó, cho phép tri nhận về một nhà thơ “chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh” mà là “những sự thật buồn cười mà khủng khiếp”. 3. Giá trị thẩm mĩ của yếu tố tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ 7
  8. 3.1. Trong bài thơ “Nói với mình và các bạn”, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã xác lập quan niệm thơ: Thơ phải dạy ta nhìn bằng con mắt thật Đập vào ngực ta không cho ta cúi mặt Không cho ta lảng tránh Đập cửa mọi nhà Đứng ở mọi ngã ba Không hát ta say mà lay ta thức Dù ngày mai đời có trăm lần đẹp Thơ vẫn gọi mọi người vươn đến tương lai. Xuất phát từ quan niệm này mà nhà thơ, trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình, luôn khao khát “nói hết sự thực/ về đất nước mình”. Yếu tố tự sự, do đó, đã giúp cho Lưu Quang Vũ và thơ Lưu Quang Vũ thâm nhập một cách sâu sắc vào đời sống hiện thực xã hội. Với lối tự sự khách thể hóa, ngòi bút thơ Lưu Quang Vũ sống đến kiệt cùng những chiều kích, những bức tranh chân thực của thực tại đang hiện hữu xung quanh - một thực tại như nó vốn có và đang có, không phải thực tại mà con người muốn có. Chính bởi vậy mà, thơ Lưu Quang Vũ luôn phơi bày hiện thực - thứ hiện thực tàn nhẫn, khắc nghiệt của một đất nước thời chiến: - những người chết trong đêm thân gãy nát óc chảy ròng trên gạch những người chết cháy đen miệng há mắt mở trừng tay chân vặn vẹo thịt xương lòng ruột mắc trên dây điện phố Khâm Thiên ầm ầm đổ sụp tiếng người la khủng khiếp đêm dài (Khâm Thiên) - những đoàn người lảo đảo kéo đi như cơn mê cơn sốt mắt đói mở trừng trán gầy đen lõm ăn hết củ rào lộc sung nõn chuối ăn cả thằn lằn chuột bọ cái đói dày vò cắn xé nhục nhã kinh hoàng điên dại (Sông Hồng - năm mẹ sinh em) Nói cách khác, nhà thơ không mĩ hóa hiện thực mà trung thực trước những mất mát, đau thương. Phẩm chất này khiến cho thơ Lưu Quang Vũ trở thành tiếng thơ “ngược dòng” với thi ca đương thời. Bản thân nhà thơ trở thành một gương mặt “cá biệt” trong đội ngũ những nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Nhà thơ dường như đã tách biệt hẳn khỏi dàn đồng ca của thời đại mà sống và viết với những nhận thức, những trải nghiệm, những quan sát của riêng bản thân mình. Như trên đã phân tích, tự sự là một trong những đặc điểm cơ bản của thơ Lưu Quang Vũ. Dõi theo quá trình sáng tác ngắn ngủi của nhà thơ, chúng tôi nhận thấy sự vận động trong tính thống nhất cơ bản đó. Nếu ở tập thơ Hương cây (1968) - những vần thơ đầu tay của một cây bút trẻ vừa nhập cuộc với tất cả 8
  9. những khát khao, hoài bão, lí tưởng tươi sáng, chất tự sự quyện hòa trong mạch cảm xúc nồng nàn, rạo rực, say mê: Sớm tháng tám bay trên trời thủ đô Cờ trên cánh thêm đỏ bừng sắc thắm Nhìn xung quanh: mây bỗng nõn trắng Ôi có phải rồng lên trên Thăng Long? (Những chuyến bay) Những câu chuyện được kể trong Thôn Chu Hưng, Qua sông Thương, Đêm hành quân, Chuyện nhỏ bên sông…gắn liền với cuộc sống chiến đấu, với lí tưởng của “lứa tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ thì xa xôi biết mấy cũng lên đường” thì từ sau tập thơ Hương cây trở đi, những mất mát của đời riêng cộng hưởng với hiện thực mất mát, đau thương chung của dân tộc trong chiến tranh, tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ càng trở nên đậm đặc hơn và đạt đến một chiều kích mới. Tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ, giờ đây, dung dị và chân thực hơn rất nhiều: Những áo quần rách rưới Những hàng cây đắm mình vào bóng tối Chiều mờ sương leo lắt đèn dầu Lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ Lèo tèo mì luộc canh rau (Việt Nam ơi) Nhưng cũng đồng thời, đầy trăn trở, hoài nghi, băn khoăn: Có những lúc tâm hồn tôi rách nát Tôi biết làm gì tôi biết đi đâu (Có những lúc) Mặt khác, tự sự trong giai đoạn đầu sáng tác thơ của Lưu Quang Vũ gắn liền với đặc trưng sử thi và quá trình sử thi hóa nền văn học cách mạng. Đây là một hiện tượng mang tính đặc thù, phổ biến của thi ca Việt Nam nửa sau thế kỉ XX. Thể tài lịch sử - dân tộc là nguồn cơn thúc đẩy thơ trữ tình dung nạp mạnh mẽ yếu tố tự sự vào thơ nhằm thể hiện bức tranh đời sống và nêu lên những vấn đề có ý nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ở thơ Lưu Quang Vũ, ngoài chịu sự ảnh hưởng của cái chung, sự dung nạp yếu tố tự sự vào thơ bắt nguồn ngay từ chính nhu cầu nội tại, quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Bằng chứng là, khi nhà thơ thôi viết những vần thơ “lửa cháy”, khi thơ ca của anh mang tính chất phi sử thi rất rõ nét thì yếu tố tự sự chẳng những không mất đi mà ngược lại, càng triển nở sâu sắc. Thơ Lưu Quang Vũ, do vậy, là loại thơ giàu chất hiện thực, là “hồ sơ lịch sử” của một thời đại hào hùng nhưng đau thương của dân tộc, của mỗi số phận con người trong thời đại ấy. 3.2. Không chỉ giúp nhà thơ thâm nhập sâu sắc vào các sự kiện đời sống xã hội bên ngoài, yếu tố tự sự còn tạo nên cuộc đối thoại chân thành của nhà thơ với chính mình và với những người xung quanh. Từ đó, giúp nhà thơ khám phá chiều sâu tâm hồn con người, khám phá chính bản thân mình. Thơ Lưu Quang Vũ, có rất nhiều những cuộc đối thoại nảy sinh. Song, đối thoại trong thơ anh thường chỉ diễn ra một chiều và là những đối thoại câm: -Bây giờ anh ở đâu Những người đi năm ấy Lìa đất quê Hà Nội 9
  10. Mười chín mùa tha hương ? Những người đi trong đêm Đèn mở ga Hàng Cỏ Như bầy chim rời tổ Trong nỗi buồn di cư. (Những người đi năm ấy) - Đứa trẻ nhà ai bỗng khóc thét lên Ôm chầm lấy anh dưới cầu thang tối Đừng sợ, bé em ơi, đừng sợ hãi Chúng ta cần phải sống Làm chứng nhân tấn kịch thảm thê này (Ghi vội một đêm 1972) Không chỉ đối thoại hướng ra bên ngoài, nhà thơ Lưu Quang Vũ còn hơn một lần đối thoại với chính mình trong thơ: - ta đã qua bao phố làng đổ sụp cổ nghẹn lòng thù hận nhìn bao em bé mồ côi mà sao chiều nay giết xong quân giặc chẳng thấy lòng thảnh thơi nhẹ nhõm chỉ nỗi buồn trĩu nặng dâng lên như đá trên mồ (Những đứa trẻ buồn) - Ta là ai? Ta đến làm gì? (Bài hát trong một cuốn phim cũ) Những cuộc đối thoại này, bao giờ, cũng xảy ra trên một cái nền tự sự. Chúng vừa làm vỡ ra những thực tại mới vừa thức gợi những suy nghĩ, những dự cảm. Điều đáng quý là, sau tất cả những mất mát đau thương, những lần chứng kiến sự thật trần trụi của cuộc sống, Lưu Quang Vũ lại càng gắn bó tiếng thơ của mình hơn với nhân dân, gắn bó cuộc đời mình hơn với dân tộc. Trong thơ anh vang lên những vần thơ đắm đuối với tổ quốc: - Tôi làm sao sống được nếu xa Người Như giọt nước bậu vào ngọn cỏ Như châu chấu ôm ghì bông lúa Người đẩy tôi ra tôi lại bám lấy Người Không vì thế mà Người khinh tôi chứ Việt Nam ơi. (Việt Nam ơi) - Ước chi được hoá thành ngọn gió Để được ôm trọn vẹn nước non này. (Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi) Và đạt đến chiều sâu triết lí: - Dù con người là cô đơn Cái ác là dầy đặc Mỗi bài thơ của chúng ta 10
  11. Phải như một ô cửa Mở tới tình yêu Ở đó lòng ta Ra với mọi người Ở đó mọi người Đi tới bên nhau. (Liên tưởng tháng hai) - kẻ làm chứng trung thành trước phiên toà lịch sử giữa tột cùng đau khổ đâu dám ngồi trau chuốt mỗi câu thơ nhân danh cuộc sống, nói về cái chết nhân danh niềm vui, nói về nước mắt nhân danh tình yêu, tôi mãi mãi căm thù. (Khâm Thiên) Có thể khẳng định, yếu tố tự sự đã nâng bước cho sự trưởng thành của hồn thơ Lưu Quang Vũ. 4. Kết luận Tự sự là một trong những đặc điểm cơ bản cũng đồng thời là đặc điểm nổi bật của phong cách thơ Lưu Quang Vũ. Trong thơ Lưu Quang Vũ, tự sự đã vượt qua ranh giới thể loại để cùng với trữ tình, tạo nên những câu thơ chân thực, ám ảnh nhưng đầy suy tư, trăn trở. Các yếu tố tự sự, trong một chừng mực nào đó đã làm thay đổi kết cấu bên ngoài của thơ Lưu Quang Vũ song giá trị sâu sắc nhất mà nó mang lại chính là trình hiện một cái Tôi đầy trăn trở, suy tư về nhân sinh, thế sự; một cái Tôi dũng cảm, thành thật trên hành trình đi tìm cái Đẹp của con người, cuộc đời. Thời gian càng lùi xa, thơ Lưu Quang Vũ càng ánh lên những vẻ đẹp nhân văn sâu sắc là vì vậy. Tài liệu tham khảo: 1. Nguyễn Thị Hồng Hoa (2003), Thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ, Trường ĐHSP TP HCM, HCM. 2. Trường ĐHSP Hà Nội (2016), Kí hiệu học – từ lí thuyết đến ứng dụng trong nghiên cứu và dạy học Ngữ văn (Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia), Nxb Giáo dục. 3. Lưu Quang Vũ (2017), Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Nxb Nhã Nam, Hà Nội. 11
nguon tai.lieu . vn