- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Ý nghĩa của việc sử dụng truyện kể lịch sử để dạy học nội dung đạo đức trong môn Giáo dục công dân
Xem mẫu
- Ý NGHĨA CỦA VIỆC SỬ DỤNG TRUYỆN KỂ LỊCH SỬ ĐỂ
DẠY HỌC NỘI DUNG ĐẠO ĐỨC TRONG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
TRẦN HOÀNG TIẾT
Tóm tắt: Nhƣ chúng ta đã biết kể chuyện vốn là một nhu cầu đã xuất hiện từ
thời xa xƣa cùng với lịch sử phát triển và tồn tại của con ngƣời. Nhu cầu kể
chuyện không chỉ đƣợc sử dụng trong đời sống thƣờng ngày mà nó đƣợc
giáo dục hóa trở thành một công cụ, một phƣơng pháp dạy học đắc lực ở các
cấp học đặc biệt hiệu quả trong dạy học phần “công dân với đạo đức” trong
môn giáo dục công dân lớp 10. Nếu vận dụng phƣơng pháp kể chuyện một
cách linh hoạt sẽ rất hiệu quả. Nguyên nhân là, giữa đặc thù của phân môn
“công dân với đạo đức” với hệ thống những câu chuyện lịch sử có mối quan
hệ vô cùng khăng khít. Những câu chuyện lịch sử của thế giới và Việt Nam
là nguồn tƣ liệu sinh động có ý nghĩa to lớn trong việc minh họa cho những
tri thức đạo đức có trong chƣơng trình. Ngoài ra, thực tiễn dạy học cho thấy
một câu chuyện lịch sử đều chứa đựng một bài học đạo đức lý thú bổ ích.
Cho nên, khai thác tƣ liệu kể chuyện lịch sử vào dạy phần “công dân với đạo
đức” (Sách giáo khoa iáo dục Công dân 10) là một trong những giải pháp
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phân môn này ở trƣờng trung học
phổ thông hiện nay.
Từ khóa: truyện kể lịch sử, nhu cầu, tƣ liệu dạy học, đạo đức, giáo dục công
dân, trung học phổ thông
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xu thế chung của thế giới, xã hội ngày càng phát triển dất nƣớc đổi mới giáo dục
phải không ngừng cung cấp cho ngƣời học một nền tri thức hiện đại và bồi dƣỡng ở họ
ý thức đạo đức nhằm hƣớng đến đào tạo con ngƣời Việt Nam “phát triển toàn diện, có
đạo đức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với ý tƣởng độc lập và chủ
nghĩa xã hội, hình thành và bồi dƣỡng phẩm chất, nhân cách, năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc dạy học môn giáo dục công dân nói chung và phần “công dân với đạo đức Giáo
dục Công dân lớp 10” nói riêng rất khó khăn nhất hiện nay là ngƣời học và dƣ luận xã
hội quan niệm iáo dục Công dân (GDCD) là môn học khô khan, không quan trọng,
không phải thi tốt nghiệp, là môn phụ nên việc dạy học tiến hành hời hợt theo lối “thầy
đọc trò chép” làm cho nhiều giáo viên dạy môn này không mặn mà với môn học mà
mình phụ trách, nhiều trƣờng còn sử dụng giáo viên khác để dạy kèm môn học này.
Quan niệm này dẫn đến hình thành ở học sinh và xã hội những quan niệm sai lầm khi
không coi trọng môn học về cả nội dung và hình thức. chính vì vậy, việc không ngừng
thay đổi quan niệm dạy học ở trƣờng trung học phổ thông (THPT) nhằm “phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dƣỡng
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2015-2016
Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Đại học Huế, tháng 12/2015, tr: 357-362
- 358 T ẦN O N T T
phƣơng pháp tự học, bồi dƣỡng năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến
tình cảm đem lại niềm vui hứng thú cho học sinh” [2, tr. 38] thực sự là điều hết sức
quan trọng. Vận dụng phƣơng pháp phù hợp để thay đổi thực trạng, thực hiện đúng
chức năng, vai trò của bộ môn GDCD là một hƣớng đi quan trọng, trong đó có việc khai
thác và sử dụng nguồn tƣ liệu chuyện kể lịch sử.
2.TRUYỆN KỂ LỊCH SỬ NHÌN TỪ KHÍA CẠN ĐỜI SỐN CON N ƢỜI
2.1. Đặc trưng của truyện kể lịch sử
Đây là những truyện có nội dung lịch sử nhƣng khác với truyền thuyết, những nội dung
lịch sử này gắn liền với những nhân vật lịch sử có thật trong thời kì đã có sử. [1, tr. 22]
2.1.1. Tính quá khứ
Lịch sử là quá trình phát triển của xã hội loài ngƣời từ lúc con ngƣời và xã hội loài
ngƣời hình thành đến nay. Tất cả những sự kiện và hiện tƣợng lịch sử đƣợc chúng ta
nhắc đến đều là những chuyện đã xảy ra nó mang tính quá khứ. Đây là điều khác biệt
giữa hiện tƣợng lịch sử với những hiện tƣợng tự nhiên. Bởi vậy, ngƣời ta không thể trực
tiếp quan sát đƣợc lịch sử quá khứ và chỉ nhận thức đƣợc chúng một cách gián tiếp
thông qua các tài liệu lƣu lại của quá khứ để phân tích, lý giải những vấn đề lịch chúng
ta đang nghiên cứu. [2, tr. 6]
2.1.2. Tính không lặp lại
Tri thức lịch sử nhìn chung không thể không lặp lại về thời gian và cả không gian. Mỗi
sự kiện hiện tƣợng lịch sử chỉ xảy ra trong một thời gian và không gian nhất định, trong
những thời gian và không gian khác nhau. Không quá một sự kiện, hiện tƣợng lịch sử
nào hoàn toàn giống nhau, dù có điểm giống nhau; lặp lại vẫn là sự kế thừa, phát triển –
“sự lặp lại trên cơ sở không lặp lại”. Đời sống của xã hội laoif ngƣời cũng nhƣ của mỗi
dân tộc trong quá trình phát triển lịch sử của mình, đã trải qua những sự thay đổi lớn
lao. [2, tr. 37]
2.1.3. Tính cụ thể
Lịch sử là khoa học nghiên cứu tiến trình phát triển lịch sử cụ thể của các nƣớc, các dân
tộc khác nhau và quy luật phát triển của các dân tộc đó. Lịch sử của mỗi nƣớc, mỗi dân
tộc đều có diện mạo riêng do những điều kiện riêng quy định. Mặc dù các quốc gia, dân
tộc sống trên những khu vực khác nhau, đều bị chi phối bởi những quy luật chung
nhƣng tiến trình phát triển mỗi quốc gia dân tộc đều có những nét đặc thù, riêng biệt
không hoàn toàn giống nhau. Ví nhƣ, phần lớn các quốc gia ở khu vực châu âu đều phải
trải qua tiến trình lịch sử từ xã hội nguyên thủy, qua xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội
phong kiến đến tƣ bản chủ nghĩa, song ở nhiều quốc gia thuộc các châu Á, châu Phi,
khu vực Mỹ-La-Tinh thì quá trình đó không diễn ra tuần tự nhƣ vậy… Thậm chí cùng
một hình thái kinh tế - xã hội nhƣng thể chế nhà nƣớc, hình thái ý thức xã hội cũng khác
nhau, mang sắc thái riêng. [2, tr. 37]
- N C V ỆC SỬ D N T U ỆN Ể ỊC SỬ… 359
2.2. Truyện kể lịch sử đối với cuộc sống thường ngày
Trong đời sống xã hội loài ngƣời dù ở bất cứ quốc gia nào là nƣớc phát triển hay là
nƣớc đang phát triển vấn đề nghe và có nhu cầu nghe truyện kể lịch sử luôn hiện hữu
trong xã hội. Đó có thể là truyện kể về những vĩ nhân kiệt xuất các anh hùng của dân
tộc đã có công lao to lớn đối với đất nƣớc. Đối với dân tộc Việt Nam đó là truyện kể
lịch sử về thời kì dựng nƣớc và giữ nƣớc. Ví dụ thời buổi đầu dựng nƣớc và giữ nƣớc
của các vua Hùng thời kỳ nhà nƣớc Văn ang – Âu Lạc, thời Bà Trƣng – Bà Triệu, Ngô
Quyền, Trần ƣng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,... hay thời kỳ kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ nhƣ ý Tự Trọng, võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi (dù đnag ở
những tuổi đôi mƣơi nhƣng vẫn luôn nêu cao tinh thần bất khuất, chí khí anh hùng vì
độc lập dân tộc), Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh (Chiến thắng vĩ đại không những ghi
vào lịch sử dân tộc Việt Nam nhƣ một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX là chiến
công lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu)... Những truyện kể lịch sử luôn gắn với lịch
sử hình thành và phát triển của mỗi quốc gia dân tộc dù thăng hay trầm nó sẽ luôn đƣợc
ghi vào nhật ký dòng chảy của lịch sử là những câu chuyện kể mãi cho thế hệ mai sau
về những lớp lớp ngƣời đi trƣớc.
Thông qua những câu chuyện kể lịch sử con ngƣời ta sát lại gần nhau hơn thấu hiểu
nhau hơn, biết đƣợc giá trị cuộc sống một cách cặn kẽ, rõ nét với những sự vật sự việc
đã diễn ra. Ngƣời ta thuật lại kể lại cho nhau nghe để cùng bàn luận phân tích để hiểu
thêm thế giới quan, nhân sinh quan. Những câu chuyện kể lịch sử Việt Nam là một kho
tàng tri thức rộng lớn với hơn 400 năm lịch sử từ thời mới đầu dựng nƣớc và giữ nƣớc
tới bây giờ. Truyện kể lịch sử giáo dục sâu sắc cho học sinh về tình yêu quê hƣơng đất
nƣớc, lòng tự tôn dân tộc. Ngƣời Việt Nam ta thƣờng có câu “Miếng trầu là đầu câu
chuyện” cuộc sống con ngƣời Việt Nam ta tuy đơn giản thôi, một cuộc sống nông
nghiệp lam lũ miệt mài gắn bó với mảnh đất ruộng, con trâu... nhƣng lối sống tình làng
nghĩa xóm tối đèn có nhau vẫn luôn đƣợc gìn giữ, giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Một
đất nƣớc nhỏ bé nhƣng ý chí không bao giờ thấp hèn, một dân tộc thuần nông nhƣng đã
viết bao trang sử sách chói lọi khiến cho cả thế giới phải kính nể, “Đời Trần, quân
Nguyên đánh đâu đƣợc đấy, chiếm nƣớc Tàu và nữa châu Âu, thế mà ba lần bị ông Trần
ƣng Đạo đánh tan. Bình dân nhƣ ông ê ợi và ông Nguyễn Huệ đã đánh đuổi quân
Tàu làm cho nƣớc ta độc lập. Ngƣời già nhƣ ông ý Thƣờng Kiệt, quá 70 tuổi mà vẫn
đánh đông dẹp bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc cứu dân. Thiếu niên nhƣ Đổng Thiên
Vƣơng chƣa đến 10 tuổi mà đã ra tay cứu nƣớc, cứu nòi. Trần Quốc Toản mới 15, 16
tuổi đã giúp ông Trần ƣng Đạo đánh phá giặc Nguyên. Phụ nữ thì có bà Trƣng, bà
Triệu ra tay khôi phục giang san. Những vị anh hùng ấy vì nƣớc, vì dân mà làm nên sự
nghiệp kinh thiên động địa. Nhờ những vị anh hùng ấy mà nƣớc ta đƣợc tự do, độc lập,
lừng lẫy ở Á Đông. Vì muốn giành làm vua mà ia ong đem nƣớc ta bán cho Tây.
Thế là giang san gấm vóc tan tác tiêu điều; con Lạc cháu Hồng hóa làm trâu ngựa. Từ
đó đến nay, biết bao nhiêu ngƣời oanh liệt đứng lên khởi nghĩa đánh Tây nhƣ ông Phan
Đình Phùng, ông oàng oa Thám, vân vân [5, tr. 216].
- 360 T ẦN O N T T
Truyền thống văn hóa Á Đông con ngƣời nhỏ bé nhƣng ý chí bất khuất kiên cƣờng giàu
lòng yêu quê hƣơng đất nƣớc của dân tộc ta cứ thế đƣợc gìn giữ thông qua những câu
chuyện kể lịch sử từ đời này sang đời khác, cứ nhƣ thế đƣợc truyền miệng mãi đƣợc bảo
tồn và phát triển.
2.3. Truyện kể lịch sử đối với giáo dục đạo đức con người
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn ngƣời Việt Nam ta phải biết sử ta, con
ngƣời phải có nguồn, gốc rễ mới vƣơn vai lớn lên từ gốc rễ ban đầu đứng thẳng hiên
ngang cùng với các dân tộc khác. Dân tộc Việt Nam sinh ra nhiều vị anh hùng hào kiệt,
tài giỏi đánh bắc dẹp nam đi vào sử sách nhƣ: các anh hùng dân tộc vĩ đại, danh tƣớng
kiệt xuất ý Thƣờng Kiệt (1019 – 1105), Trần ƣng Đạo (1228 – 1300), Nguyễn Huệ
(1753 – 1792), Võ Nguyên Giáp (1911 – 2013)... là minh chứng cho chuỗi dòng lịch sử
của dân tộc Việt Nam luôn tiếp nối truyền thống vẻ vang, ngọn lửa hồng không bao giờ
tắt tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác... Từ những tấm gƣơng sáng về các vị anh
hùng dân tộc trong công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc sẽ khêu gợi ở học sinh đạo đức,
trách nhiệm, lòng khát khao phục vụ đất nƣớc, phục vụ quê hƣơng Tổ quốc, phục vụ
cho lý tƣởng chủ nghĩa xã hội, phục vụ nhân dân.
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tƣờng gốc tích nƣớc nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà.
Hồng Bàng là tổ nƣớc ta.
Nƣớc ta lúc ấy gọi là Văn ang.
Thiếu niên ta rất vẻ vang,
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.
Tuổi tuy chƣa đến chín mƣời,
Ra tay cứu nƣớc dẹp loài vô lƣơng.
n Dƣơng Vƣơng thế ùng Vƣơng,
Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.
Nƣớc Tàu cậy thế đông ngƣời,
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam,
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam.
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngƣơi?
ai Bà Trƣng có đại tài,
Phất cờ khởi nghĩa giết ngƣời tà gian,
Ra tay khôi phục giang san,
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nƣớc ta”. (trích đoạn thơ ịch sử nƣớc ta) [5, tr. 216]
Từ đoạn trích bài thơ “ ịch sử nƣớc ta” ta thấy Hồ Chí Minh đã tổng kết lại phẩm chất
đạo đức con ngƣời Việt Nam là kiên trung, yêu nƣớc nó đã đƣợc hình thành từ rất lâu
thành bản chất của dân tộc Việt Nam, trở thành truyền thống đạo đức của thế hệ trƣớc
truyền lại cho thế hệ mai sau.
- N C V ỆC SỬ D N T U ỆN Ể ỊC SỬ… 361
2.4. Ý nghĩa của việc sử dụng chuyện kể lích sử để dạy học các nội dung đạo đức
trong môn giáo dục công dân
Những câu chuyện lịch sử của thế giới và Việt Nam là nguồn tƣ liệu sinh động có ý
nghĩa to lớn cho việc dạ học minh họa những tri thức đạo đức. Truyện kể lịch sử không
chỉ quan trọng đối với trẻ nhỏ mà truyện kể rất bổ ích cho tất cả mọi ngƣời bởi những
câu chuyện lịch sử đều chứa trong nó một dung lƣợng thông tin kiến thức ý nghĩa...
truyện kể lịch sử giúp chúng ta nhìn nhận bản thân và xã hội với tính chất truyện kể lịch
sử mang tính sử, không có hƣ cấu nên truyện kể lịch sử luôn nằm trong lòng xã hội, tồn
tại theo lịch sử phát triển của con ngƣời.
Kể chuyện là một dạng của phƣơng pháp dạy học thuyết trình có ý nghĩa to lớn trong
quá trình dạy học đạo đức cho học sinh THPT. Kể chuyện giúp tạo biểu tƣợng, hình
tƣợng trên vỏ não nhƣ một bức tranh sinh động về những sự kiện, hiện tƣợng, về những
nhân vật lịch sử nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, bởi kiến thức lịch sử thƣờng
khô khan, trừu tƣợng, học sinh dễ nhàm chán. Việc kể chuyện góp phần phát triển trí
tƣởng tƣợng cho học sinh, hình thành biểu tƣợng lịch sử cho học sinh. nghĩa việc sử
dụng chuyện kể lịch sử trong việc giáo dục công dân có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng
thông qua dạy các câu chuyện học sinh hiểu và cảm nhận đƣợc sự nhân văn các bài học
ở các nhân vật, ở các nội dung câu chuyện, tình huống...
nghĩa lớn nhất của việc sử dụng những câu chuyện kể lịch sử trong thiết kế bài dạy
học bởi lẽ các câu chuyện kể lịch sử là nguồn tƣ liệu dạy học rất phong phú đa dạng
sinh động và có tác dụng tác động mạnh mẽ sâu sắc đến nhận thức tình cảm của học
sinh. Là nguồn tƣ liệu dạy học dồi dào phong phú giúp cho việc biên soạn, thiết kế, chế
biến tài liệu dạy học của ngƣời giáo viên thêm dễ dàng sát với thực tiễn và đặc điểm
nhận thức tâm sinh lý của học sinh.
Truyện kể lịch sử còn tạo ra cho học sinh niềm tin vào cái chân – thiện – mỹ, tin vào
chủ trƣơng đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc. hơi dậy lòng tự hào dân tộc tiếp nối
truyền thống vẻ vang hào hùng của các vị anh hùng dân tộc trong thời đại trƣớc. hơi
gợi ở học sinh đạo đức, trách nhiệm, lòng khát khao phục vụ đất nƣớc, phục vụ quê
hƣơng Tổ quốc, phục vụ cho lý tƣởng chủ nghĩa xã hội, phục vụ nhân dân.
Truyện kể lịch sử giúp quá trình học tập trở nên nhẹ nhàng hơn ít bị gò bó, ép buộc bài
học trở nên sinh động, học sinh tiếp thu bài học dễ dàng và dễ khắc sâu hơn. Thông qua
những câu chuyện các tình tiết tình huống mâu thuẫn xung đột trong các nhân vật mà
học sinh sẽ rút ra bài học thực riêng cho bản thân.
Sử dụng phƣơng pháp kể chuyện làm cho điều mình muốn truyền đạt thêm lôi cuốn,
sống động và phong phú vừa là phƣơng pháp truyền thống dễ dùng ít tốn kém hiệu năng
truyền đạt kiến thức tƣ tƣởng cao. Chúng ta ai cũng biết về tác dụng của kể chuyện để
giáo dục và truyền đạt tƣ tƣởng. Bằng phƣơng pháp này ngƣời giáo viên có thể truyền
lửa nhiệt huyết, lòng khát khao, tự tôn cá nhân để khơi gợi ở ngƣời nghe thích thú và
hành động đúng theo đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc.
- 362 T ẦN O N T T
4. K T LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu tìm hiểu, sƣu tầm, phân tích, so sánh đối chiếu có thể thấy
phƣơng pháp sử dụng truyện kể lịch sử để dạy học các môn đạo đức ở trƣờng THPT là
phƣơng pháp dạy học hiệu quả nhất không tốn kém dễ thực hiên dễ đi sâu và lòng
ngƣời. Một phƣơng pháp mang tính hình tƣợng sâu sắc, tri thức bài học nhẹ nhàng phát
triển tƣ duy khơi gợi tính tò mò học hỏi cho học sinh. à phƣơng pháp khoa học và gần
gũi với học sinh nhất. Phƣơng pháp nào dù hay đến mấy thì nó vẫn cần các phƣơng
pháp công cụ khác cùng hỗ trợ dù ít hay nhiều để thành phƣơng pháp nổi trội có ý nghĩa
dạy học hiệu quả nhất. Nói tóm lại để đạt hiệu quả trong công tác dạy học và sự nghiệp
trồng ngƣời thì giáo viên phải là ngƣời tiên phong trƣớc tiên phải đủ về mặt phẩm chất
và năng lực nghề nghiệp. Trong phƣơng pháp dạy học ngƣời giáo viên phải linh hoạt
không phải lúc nào cũng nhất nguyên một phƣơng pháp. Khi sử dụng phƣơng pháp
chuyện kể lịch sử giáo viên có thể kết hợp với nhiều phƣơng pháp khác để tăng khả
năng lĩnh hội tri thức và giúp khả năng ghi nhớ bài học đƣợc in sâu ở học sinh chẳng
hạn nhƣ kết hợp với phƣơng pháp đóng vai, phƣơng pháp thảo luận nhóm... Đối với học
sinh cần chuẩn bị một tâm thế học tập tốt thoải mái về tƣ tƣởng không mang nặng tâm
lý thụ động, chờ đợi, học vẹt nhồi nhét tri thức thật nhiều nhƣng rồi khi vận dụng vào
thực tiễn cuộc sống thì trống rỗng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Chu Huy (1998). Dạy kể chuyện ở ường tiều học, NXB Giáo dục.
[2] Đặng Văn ồ (cb), Nguyễn Thành Nhân, Nguyễn Đức Cƣơng. Hình thành tri thức
l ch sử cho học sinh trung học phổ thông, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[3] Nguyễn Thái Hòa (2000). Những vấ đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục.
[4] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[5] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
T ẦN O N T T
SV lớp DCT 3, khoa Giáo dục chính trị, trƣờng Đại học Sƣ phạm, Đại học Huế
ĐT: 0167 529 0027, Email: Tranhoangtiet1235@gmail.com
nguon tai.lieu . vn