Xem mẫu
- Lê Dương Thùy Hương
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Đồng Nai
Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu về nhu cầu và thực trạng chuyển đổi số trong hệ
thống giáo dục nghề nghiệp. Trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,
chuyển đổi số đã trở thành nhu cầu cấp thiết của các cơ sở giáo dục nghiệp. Đồng
thời, bài viết cũng đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi số trong các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: Giáo dục nghề nghiệp; chuyển đổi số; đào tạo trực tuyến.
1. Mở đầu
Trước những tác động tiêu cực của dịch Covid-19, chuyển đổi số đã cho
thấy những lợi thế lớn, trở thành xu thế tất yếu trong giáo dục nghề nghiệp.
Chuyển đổi số đang trở nên cấp thiết để các trường nghề thích ứng với mọi hoàn
cảnh, đồng thời là đòn bẩy thúc đẩy đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến, bắt kịp xu
thế của giáo dục toàn cầu. Nắm bắt được xu thế đó, ngành giáo dục nghề nghiệp
đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lý, đạt được
nhiều kết quả quan trọng. Trước yêu cầu chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ,
giáo dục nghề nghiệp xác định sứ mệnh tiên phong trong thực hiện nhiệm vụ này,
góp phần rút ngắn quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp,
nhất là đối với vùng sâu, vùng xa và đóng góp tích cực vào quá trình chuyển đổi
số quốc gia. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện chuyển đổi số trong các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp cũng gặp phải những khó khăn, thách thức về nguồn lực con
người, về hạ tầng công nghệ thông tin,… Chính vì vậy, nghiên cứu thực trạng
chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đề xuất được một số giải
pháp nhằm đẩy mạnh chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở Việt
Nam hiện nay là việc làm cần thiết.
2. Nội dung
2.1. Nhu cầu chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là một xu thế lớn hội tụ nhiều công
nghệ số hóa đột phá như internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, xử lý dữ liệu lớn, điện
toán đám mây và các công nghệ khác để thực hiện siêu kết nối, tích hợp các hệ
thống số hóa – vật lý – sinh học, giữa thế giới thực và không gian số để tạo ra lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mới.
118
- Việc chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp được xem là giải
pháp cốt lõi để tăng khả năng thích ứng trong thế giới việc làm đang thay đổi
nhanh chóng trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong bối cảnh
hội nhập toàn cầu, ngành Giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục nghề nghiệp
của Việt Nam nói riêng cũng không nằm ngoài xu thế chung của thế giới và phải
khẩn trương thực hiện chuyển đổi số nếu không muốn bỏ lỡ cơ hội mà cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 mang lại.
Trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, chuyển đổi số giúp đổi mới hoạt động
dạy và học tại các cơ sởgiáo dục nghề nghiệp theo hướng giảm thuyết giảng,
truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực của người học, tăng khả năng tự
học, gắn học lý thuyết với thực hành. Đặc biệt, sự bùng nổ của nền tảng công
nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn… đã và đang hình thành nên hạ tầng giáo dục
số nói chung và giáo dục nghề nghiệp số nói riêng. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch
bệnh Covid-19, việc chuyển đổi từ phương thức giáo dục truyền thống sang giáo
dục số ngày càng trở nên bức thiết.
Dự thảo Khung đề án chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp đưa ra khái
niệm, chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp là quá trình tích hợp và áp dụng
các công nghệ kỹ thuật số như dữ liệu lớn, điện toán đám mây, vạn vật kết nối,
trí tuệ nhân tạo… vào các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp,
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tận dụng các công nghệ số thay đổi tích cực cách
thức quản lý, làm việc của cá nhân, đơn vị trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp
cũng như cung cấp điều kiện giáo dục nghề nghiệp thuận tiện, nhanh chóng, hiệu
quả trên nền tảng số. Quá trình chuyển đổi số sẽ tác động có tính thay đổi cốt lõi
đến hoạt động giáo dục nghề nghiệp theo các góc độ:
Thứ nhất, tác động đến cách thức quản lý, chỉ đạo điều hành trong của các
cơ quan quản lý nhà nước, hướng đến cách thức quản lý và ra quyết định trên
nền tảng công nghệ số và dữ liệu lớn.
Thứ hai, tác động trực tiếp đến các đối tượng tham gia hoạt động giáo dục
nghề nghiệp: thay đổi cách quản lý hoạt động giáo dục nghề nghiệp, cách dạy
của giáo viên, cách học của học viên tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp từ môi
trường truyền thống lên môi trường số.
Thứ ba, bản thân quá trình vận động xã hội khi chuyển đổi số sẽ sản sinh ra
nhiều ngành nghề mới, nhiều lĩnh vực mới. Đây là thị trường mới tiềm năng
nhưng cũng đầy thách thức đối với hoạt động giáo dục nghề nghiệp
Như vậy, với sự phát triển nhảy vọt của khoa học kỹ thuật và công nghệ,
đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, nhân loại đang bước sang thời
kỳ quá độ của kinh tế tri thức thì chuyển đổi số là xu hướng tất yếu, để sử dụng
ngày càng nhiều công nghệ mới tiên tiến, hiện đại, việc dạy nghề cũng phát triển
119
- phù hợp với xu hướng hiện đại hóa, thị trường hóa, đa dạng hóa và quốc tế hóa.
Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực hiện việc chuyển đổi số và chuyển đổi số
thành công sẽ góp phần thay đổi phương thức đào tạo và đáp ứng việc đào tạo
nguồn nhân lực, có kỹ năng nghề nghiệp, thích ứng với thay đổi nhanh trong sản
xuất, thương mại và dịch vụ.
Ngành giáo dục nghề nghiệp rất quan tâm tới việc đào tạo những công dân
Việt Nam có kiến thức, kỹ năng chuyển đổi số để trở thành công dân toàn cầu.
Chính vì vậy, chuyển đổi số được ngành xác định là khâu đột phá, nhiệm vụ quan
trọng cần chú trọng triển khai thực hiện những năm tới đây. Làm tốt chuyển đổi
số không chỉ giúp nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp mà quan trọng hơn
là góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo cơ hội lớn để hội nhâp quốc tế.
2.2. Thực trạng chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp
Để giáo dục nghề nghiệp có thể chủ động tham gia cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0, thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản như: Quyết định
số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương
trình chuyển đổi số quốc gia; Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 28/5/2020 của Thủ
tướng Chính phủ về đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần
nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình
hình mới.
Triển khai các văn bản trên của Chính phủ, Bộ Lao động – Thương bình và
Xã hội đã ban hành Quyết định số 980/QĐ-LĐTBXH ngày 11/8/2020 về việc
ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị 24/CT-TTg ngày 28/5/2020 về đẩy mạnh
phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần nâng cao năng suất lao động và
tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới. Theo đó giao Tổng cục
Giáo dục nghề nghiệp chủ trì xây dựng Đề án chuyển đổi số và phát triển kỹ năng
ứng dụng công nghệ thông tin cho lực lượng lao động. Đồng thời, Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội đã thích ứng trong việc triển khai Đề án Ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý, hoạt động dạy và học nghề đến năm 2020 bằng các
dự án thành phần. Nội dung Đề án tập trung vào việc xây dựng hệ thống đào tạo
trực tuyến và triển khai đến các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; xây dựng hệ thống
thông tin, cơ sở dữ liệu trong hoạt động kiểm định, đảm bảo chất lượng giáo dục
nghề nghiệp và đánh giá kỹ năng nghề và đầu tư, nâng cấp hạ tầng, thiết bị công
nghệ thông tin cho hệ thống.
Trong năm 2020 vừa qua, trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh
Covid-19, cùng với cả nước, toàn ngành giáo dục nghề nghiệp đã tham gia tích
cực vào công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Cụ thể, ngành giáo dục nghề
nghiệp đã triển khai quyết liệt, mạnh mẽ, hiệu quả các giải pháp phòng, chống
dịch với mục tiêu “bảo đảm sức khỏe, an toàn của học sinh, sinh viên, giáo viên,
120
- giảng viên lên trên hết”; đồng thời thực hiện phương châm “tạm dừng đến trường,
không dừng học”. Dịch Covid-19 vừa qua mang đến áp lực cho hoạt động giáo
dục nghề nghiệp, nhưng cũng tạo ra động lực để chuyển đổi số trở nên mạnh mẽ
hơn; tạo cơ hội và động lực để giáo viên, học sinh thích ứng, áp dụng phương
thức dạy học trực tuyến. Kết quả dạy học online trong thời điểm dịch Covid-19
được đánh giá tốt.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng với Tổng cục Giáo dục nghề
nghiệp đã chỉ đạo các nhà trường dạy học trực tuyến; tăng cường bảo đảm an
ninh, an toàn cho các học sinh, sinh viên, giáo viên, giảng viên trong quá trình
dạy học qua internet. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã chủ động và thích ứng
nhanh với diễn biến, dịch bệnh, áp dụng sinh động và hiệu quả công nghệ thông
tin, công nghệ số vào giảng dạy. Qua việc giảng dạy trực tuyến, cho thấy năng
lực sử dụng công nghệ thông tin của đội ngũ giảng viên giáo dục nghề nghiệp đã
được nâng lên rõ rệt. Đến nay, việc dạy học online đã trở thành một hoạt động
thiết yếu, duy trì sự tương tác giữa thầy và trò. Những giải pháp cụ thể mà ngành
giáo dục nghề nghiệp đã triển khai trong công tác phòng, chống Covid-19 vừa
qua đã cho thấy, toàn ngành đã thực hiện khá tốt việc ứng dụng công nghệ số
trong quản lý, giảng dạy và học tập.
Có thể thấy, ngành giáo dục nghề nghiệp đang nỗ lực xây dựng cơ chế tự
chủ cho các cơ sở đào tạo. Bên cạnh đó là xây dựng hệ thống quản lý, hệ thống
đánh giá ngoài, kiểm định chất lượng, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các
doanh nghiệp để nắm bắt nhu cầu đào tạo, tuyển dụng lao động. phát triển trình
độ của các các nhà giáo, xây dựng khung tham chiếu. Các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp đang tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo trực tuyến. Dịch
bệnh Covid-19 là một bối cảnh thúc đẩy quá trình công nghệ thông tin được
nhanh hơn.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiện tại, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn bị
động trong thực hiện chuyển đổi số. Hầu hết các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chưa
trang bị cơ sở hạ tầng mạng internet và nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý học tập phục vụ dạy học trực tuyến. Khả năng số hóa và thích ứng
với dạy học trực tuyến của hệ thống giáo dục nghề nghiệp còn thấp… Đây là
những rào cản gây khó khăn trong quá trình chuyển đổi số trong giáo dục nghề
nghiệp cần sớm khắc phục trong thời gian tới.
2.3. Giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp hiện nay
Dự thảo khung đề án chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp đặt
ra tầm nhìn đến năm 2030 toàn bộ hệ thống giáo dục nghề nghiệp như một quốc
gia thu nhỏ, toàn bộ hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, giáo viên, học viên sẽ chuyển lên môi trường số. Đến năm 2030,
121
- hoạt động giáo dục nghề nghiệp Việt Nam đạt trình độ các nước Asean – 4. Mục
tiêu đến năm 2030, 100% dịch vụ công liên quan đến hoạt động giáo dục nghề
nghiệp là dịch vụ trực tuyến mức độ 4, được tích hợp lên Cổng Dịch vụ công
quốc gia, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả
thiết bị di động. Khoảng 600 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (chiếm 30%) phải thực
hiện chuyển đổi số hoàn toàn. Đặc biệt, 100% các trường nghề triển khai nền
tảng dạy nghề trực tuyến [1]. Chính vì vậy, trong thời gian tới, thực hiện chuyển
đổi số trong giáo dục nghề nghiệp cần quán triệt một số các giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm,
thông suốt về tư tưởng và quyết tâm hợp lực thực hiện chuyển đổi số trong toàn
ngành giáo dục nghề nghiệp, đến đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý. nhận thức,
đặt người lao động là trung tâm, thể chế, công nghệ là động lực, nền tảng số là
đột phá, cùng với sự vào cuộc đồng bộ, trách nhiệm của các bên liên quan.
Hai là, tập trung triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát triển
giáo dục nghề nghiệp. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Hệ thống cơ sở dữ liệu
ngành giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm 100% các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cập
nhật dữ liệu đầy đủ, chính xác, kết nối liên thông với nền tảng số quốc gia; khai
thác sử dụng có hiệu quả cơ sở dữ liệu ngành; các phần mềm quản lý, dạy và học
trong nhà trường.
Ba là, phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, tăng cường chuyển đổi số và
đào tạo trực tuyến. Ngành Giáo dục nghề nghiệp phải có chiến lược đào tạo các
chuyên gia giỏi về chuyển đổi số gồm các tiêu chuẩn về công nghệ thông tin giáo
dục nghề nghiệp, các công nghệ số về dữ liệu lớn, di động, trí tuệ nhân tạo... làm
nòng cốt trong chuyển đổi số.
Bốn là, xây dựng giáo dục nghề nghiệp mở trên cơ sở áp dụng mạnh tiến
bộ của công nghệ thông tin trong dạy và học; triển khai đào tạo trực tuyến, phát
triển các tài nguyên giáo dục mở tạo điều kiện thuận lợi để người lao động cập
nhật, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. Phát triển tài nguyên số và môi trường học
tập số, bổ sung vào kho học liệu số toàn ngành, ngân hàng câu hỏi trực tuyến
dùng chung trong toàn ngành, kho bài giảng e-learning kết nối với Hệ tri thức
Việt số hóa. Đẩy mạnh kỹ năng dạy học trực tuyến, kỹ năng chuyển đổi số và kỹ
năng tham gia các hoạt động dạy, học trực tuyến đối với giáo viên, giảng viên và
học sinh.
Năm là, đẩy mạnh đào tạo, cập nhật những kiến thức mới cho lực lượng lao
động để thích ứng với chuyển đổi số trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng
hiện nay. Bảo đảm người học có kỹ năng chuyên môn, kỹ năng số, kỹ năng mềm,
khởi nghiệp và ngoại ngữ,… thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động, phấn
đấu đến năm 2030 Việt Nam tiếp cận trình độ các nước ASEAN – 4, đến năm
2045 tiếp cận trình độ các nước G20.
122
- Sáu là, giáo dục nghề nghiệp phải xây dựng được hệ thống dữ liệu lớn toàn
ngành, tạo được các nền tảng công nghệ, xây dựng hành lang pháp lý phù hợp và
đặc biệt phải chuẩn bị nhân lực phục vụ cho quá trình chuyển đổi số. Đáp ứng
yêu cầu phát triển, hội nhập quốc tế, chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nghề
nghiệp phải "thần tốc" nhưng chắc chắn và bền vững. Xây dựng được những nền
tảng chắc chắn trên một hệ thống điều hành chung.
Bảy là, quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp phải
gắn liền với doanh nghiệp. Doanh nghiệp chính là đối tượng sử dụng lao động.
Bởi vì, trong quá trình chuyển đổi số, doanh nghiệp đưa ra yêu cầu từ công nghệ,
kỹ năng đến chất lượng nguồn nhân lực.
3. Kết luận
Trước yêu cầu ngày càng cao về chất lượng ngồn nhân lực trong bối cảnh
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số, kinh tế tri thức và xu thế dịch chuyển
nhân lực trên thị trường lao động quốc tế, giáo dục nghề nghiệp cũng không thể
nằm ngoài xu thế chung của thế giới và phải hành động rất khẩn trương nếu
không muốn bỏ lỡ cơ hội mà cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại. Giáo dục
nghề nghiệp là một lĩnh vực sẽ giúp Việt Nam có thể tăng trưởng GDP bền vững,
do đó rất cần những phương thức giảng dạy, đào tạo mới để có thể chuyển đổi
số. Chính vì vậy, để thực hiện xu hướng chuyển đổi số, ngành giáo dục nghề
nghiệp cần nâng cao nhận thức của toàn ngành về chuyển đổi số, triển khai có
hiệu quả chính sách phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp, phát triển đội ngũ
chuyên gia về chuyển đổi số, xây dựng hệ thống dữ hiệu toàn ngành và thực hiện
chuyển đổi số phải gắn liền với doanh nghiệp sử dụng lao động.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Trần Bá Duy (2020), 10 năm tới 600 cơ sở giáo dục nghề nghiệp chuyển đổi số hoàn
toàn, http://gdnn.gov.vn. Cập nhật ngày 24/12/2020.
[2]. Hồ Thị Ngọc Thủy (2021), Bàn về vấn đề chuyển đổi số trong hoạt động giáo dục nghề
nghiệp, Tạp chí Tài chính, số 1+2/2021.
[3]. Lê Đức Thọ (2018), “Cách mạng công nghiệp 4.0 với vấn đề phát triển giáo dục nghề
nghiệp ở nước ta hiện nay”. Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế ICSS 2018, Nxb. Tài chính,
tr.265-272.
[4]. Lê Đức Thọ (2019), “Cách mạng công nghiệp 4.0 và vấn đề đổi mới hoạt động đào tạo
trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở nước ta hiện nay”. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.384-390.
123
nguon tai.lieu . vn