Xem mẫu
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
XU HƯỚNG THƯƠNG MẠI HÓA THỊ TRƯỜNG MỸ THUẬT
VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẦU ĐỔI MỚI
NGHIÊM THỊ THANH NHÃ
Tóm tắt
Chính sách mở cửa đã đem theo những làn gió mới làm cho mỹ thuật có một không khí sáng tạo
khác biệt hoàn toàn so với những giai đoạn trước đây, thúc đẩy mỹ thuật trở thành loại hình nghệ
thuật phát triển năng động trong giai đoạn 1986 - 2006. Mỹ thuật đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng so với các giai đoạn trước nhưng bên cạnh đó vẫn còn những biểu hiện cực đoan, tiêu cực, lệch
chuẩn, thương mại đơn thuần dẫn đến chảy máu di sản mỹ thuật và chắc chắn sẽ để lại một khoảng
trống trong di sản mỹ thuật Việt Nam sau này. Bài viết đề cập đến thương mại hóa và hậu quả của nó
đối với mỹ thuật nước nhà. Trong phạm vi bài viết, khoảng thời gian 1986 - 2006 được xác định là giai
đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, từ hình thành (năm 1986), phát triển thịnh vượng (thập niên 90) rồi đi
đến trì trệ, suy thoái (sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1998).
Từ khóa: Mỹ thuật, mỹ thuật Việt Nam, thị trường mỹ thuật, thương mại hóa
Abstract
The open-door policies with the insprired fresh air has made a creative atmosphere for arts and it
is completely different from the previous periods; promoting fine arts to become the most dynamic art
field in the period of 1986-2006. Fine arts has achieved many important achievements compared to the
previous periods but there are still extreme, negative, deviations, simple trade that leads to losing fine
arts heritage and will certainly leaving a gap in Vietnamese fine art heritage later. The article focuses
on commercialization and its consequences for Vietnamese fine arts. In this article, the 1986-2006
period was defined as the first stage of the renovation period, from formation (1986), to prosperity (the
90s) and then to stagnation and degradation (Since the economic crisis, 1998).
Keywords: Fine arts, Vietnamese fine arts, fine arts market, commercialization
1. “Nghệ thuật không phải là thứ đầu tiên như thế, không có nghĩa là mỹ thuật Việt Nam
được liên tưởng khi nói đến cái tên Việt Nam. không có thành tựu về mặt nghệ thuật, mà
Thực vậy, trong sự tưởng tượng thông thường thực tế, ngay từ buổi đầu phát triển, mỹ thuật
của người Mỹ, hình ảnh nông thôn Việt Nam đã hình thành vẻ đẹp và phẩm chất nghệ thuật
thường gợi nhớ đến chiến tranh, chứ không riêng. Chỉ có điều, sau những năm chiến tranh,
phải là những bức tranh phong cảnh” (10). Xin
sự thiếu thốn về kinh tế chung của cả xã hội
mượn những lời bàn của một học giả người
đã kéo lùi nhu cầu về sở hữu và thưởng thức
Mỹ, TS. Nora Taylor khi nói về mỹ thuật Việt
nghệ thuật, không tạo được môi trường tiêu
Nam để mở đầu cho bài viết này. Cũng dễ hiểu
khi người nước ngoài đánh giá về mỹ thuật thụ, kích thích cần thiết và điều đó khiến cho
Việt Nam như vậy, trong tâm khảm của những đời sống của các nghệ sĩ gặp nhiều khó khăn,
người nước ngoài đến với Việt Nam vào những hoạt động sáng tạo cũng vì thế mà chịu ảnh
năm 90 của thế kỷ XX là chiến tranh. Nhưng hưởng không nhỏ.
74 Số 25 - Tháng 9 - 2018
- VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
Cũng cần khái quát sơ lược về bối cảnh xã 2. Sau những năm 1986, cơ cấu khách du
hội lúc đó. Trong cơ chế bao cấp, mỹ thuật, lịch thay đổi theo chiều hướng có lợi cho sự
mặc dù đạt được khá nhiều thành tựu, song phát triển kinh tế. Khách du lịch thuần túy
cũng có không ít hạn chế. Mỹ thuật cũng như tăng nhanh. Một Hà Nội ít cởi mở hơn so với
mọi ngành khác của xã hội đều hoạt động thành phố Hồ Chí Minh, dường như vẫn giữ
theo cơ chế kế hoạch hóa, thống nhất tập nguyên trạng với những ngôi nhà xây từ thời
trung từ trên xuống, có sự bao cấp của Nhà Pháp, đường phố chật hẹp, cầu Long Biên vẫn
nước. Kế hoạch hóa quan liêu đã gây ra rất còn bị hỏng do bom Mỹ, hấp dẫn du khách
nhiều khó khăn cho hoạt động văn hóa. Chưa nước ngoài đến để tìm hiểu về văn hóa, con
người bản địa và một thị trường mới mở đầy
kể, suốt quá trình mấy chục năm của hai cuộc
tiềm năng. Cứ thế, từ một triển lãm đầu tiên
kháng chiến và hơn mười năm sau giải phóng,
của nghệ thuật đương đại Việt Nam diễn ra
vì nhiều lý do, mỹ thuật Việt Nam đã bị tách rời
bên ngoài Việt Nam với tên gọi Unkord Soul,
khỏi dòng chảy chung của mỹ thuật thế giới
do Gallerry Plum Blosssom ở Hồng Kông tổ
khi không có sự giao lưu, học hỏi. Thực tế là
chức năm 1991, hình ảnh về nền mỹ thuật Việt
trong chiến tranh, việc giới thiệu các tác phẩm
Nam được hình thành và dần rõ nét thông qua
của mỹ thuật Việt Nam ra trường quốc tế còn các triển lãm tổ chức ở trong nước hoặc nước
nhiều hạn chế. ngoài được tổ chức với tần suất khá dày đặc.
Sau ngày thống nhất đất nước, việc phát Nhiều báo chí nước ngoài đã ca ngợi và quảng
triển và giới thiệu mỹ thuật ra nước ngoài chủ cáo cho mỹ thuật Việt Nam. Thị trường tranh
yếu trong khối các nước xã hội chủ nghĩa anh đã tạo điều kiện cho sự hoạt động sôi nổi của
em, do đó, hình ảnh mỹ thuật Việt Nam trong cộng đồng mỹ thuật, sự nở rộ của mỹ thuật
con mắt người nước ngoài hầu như không mấy trong 20 năm Đổi mới đã chứng minh điều
đậm nét. Từ sau năm 1975, số lượng khách đó. Không thể phủ nhận các chính sách mở
nước ngoài đến Việt Nam cũng đã khá cao so cửa đã đem theo những làn gió mới làm cho
với những năm chiến tranh. Người nước ngoài mỹ thuật Việt Nam có một không khí sáng tạo
có nhiều loại khác nhau như các đoàn của các khác biệt hoàn toàn so với những giai đoạn
Chính phủ, các sứ quán, các công ty, các tổ trước đây. Chỉ trong một thời gian ngắn, mỹ
chức quốc tế đến Việt Nam làm việc theo con thuật nhanh chóng khởi sắc. Cùng với yêu cầu
tự do sáng tác của văn hóa nghệ thuật, việc
đường chính thức; những đoàn chuyên gia về
mở cửa giao lưu kinh tế thế giới được thể hiện
giáo dục, kinh tế, văn hóa, y tế…; chuyên gia
qua những chính sách cụ thể của Chính phủ
của những cơ sở của người nước ngoài hoạt
Việt Nam đã tạo tiền đề cho sự hội nhập về
động tại Việt Nam như Xí nghiệp Giấy Bãi Bằng
văn hóa trở nên sâu rộng, đặc biệt trong mỹ
của Thụy Điển, Nhà máy Đóng tàu Bạch Đằng
thuật. Môi trường đổi mới cũng tạo điều kiện
ở Hải Phòng của Phần Lan, các cơ sở khai thác
cho nhiều họa sĩ tiếp cận với các quan niệm
dầu mỏ, những xí nghiệp có liên doanh với thẩm mỹ và chính trị khá đa dạng của nước
nước ngoài…; nhà báo, quay phim, nghiên cứu ngoài. Những động thái đổi mới trong tư duy
khoa học…; nhân viên của các tổ chức quốc tế nghệ thuật và thực hành nghệ thuật của các
như FAO, WB, IMF,… Và trong một phần chi phí họa sĩ đã có tác động thúc đẩy quan trọng đối
sinh hoạt và làm việc ở Việt Nam của những với sự đổi mới mạnh mẽ của văn hóa, nghệ
người nước ngoài luôn có một khoản dành để thuật, tạo thành xung lực không thể thay thế
mua những vật phẩm lưu niệm, các tác phẩm cho quá trình biến đổi của xã hội. Cá nhân với
nghệ thuật như tranh tượng… tất nhiên là ở những nhu cầu về tự do sáng tạo, bình đẳng
thị trường “chợ đen”. trong nghệ thuật giành được vị trí nhất định
Số 25 - Tháng 9 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
75
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
trong đời sống văn hóa. Tuy nhiên, trong cái đà Nội vào những năm 93, 94 của thế kỷ XX) trong
“đổi mới”, “bung ra”,... nhiều vấn đề chúng ta còn một bài viết đăng trên Tạp chí Mỹ thuật, hầu
cần phải suy nghĩ (1), bởi giai đoạn đầu có thể hết các triển lãm đều bán được tranh, ít cũng
sự “mở” có nhiều yếu tố tích cực như việc tiếp trên dưới 1.000 đôla Mỹ, nhiều thì 10.000 đôla
nhận các trào lưu, khuynh hướng nghệ thuật Mỹ, trong khi đó thu nhập bình quân của một
hiện đại trên thế giới nhưng khi cánh cửa “mở” người một tháng vào thời điểm năm 1993 chỉ
ra, cũng đồng nghĩa là bên cạnh gió mát lành có 318.000đ/tháng (tỷ giá quy đổi 1 đôla Mỹ
cũng có những làn gió độc, những yếu tố tiêu bằng 4.000 Việt Nam đồng) (2).
cực len vào, nhiều nông cạn, thiếu sót, trong Một yếu tố khác khiến thị trường mỹ thuật
đó thương mại hóa đơn thuần mỹ thuật dẫn sau năm 1986 phát triển khởi sắc là nhờ bắt
đến việc sáng tạo chạy theo đồng tiền đã để kịp đúng chu kỳ phát triển thịnh vượng của
lại một hệ lụy mà ở thời điểm ban đầu rất khó thị trường mỹ thuật thế giới. Từ những năm
để nhận thức đúng ngay được. 80 của thế kỷ XX đến trước cuộc khủng hoảng
Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, những tài chính năm 1997, trên thế giới xuất hiện
năm đầu Đổi mới, nhiều họa sĩ bị rơi vào trạng xu hướng mua các tác phẩm nghệ thuật, và
thái bối rối, mất phương hướng. Khi chuyển các nhà đầu tư coi đây là một lĩnh vực đầu tư
sang kinh tế thị trường, các khoản bao cấp bị hấp dẫn. Nguồn cung, cầu và giá trị của các
giảm hẳn hoặc xóa bỏ hoàn toàn, cuộc sống tác phẩm nghệ thuật đều tăng (9). Nhờ vậy,
khó khăn, điều kiện xã hội thay đổi, thì việc số lượng tranh bán được trong giai đoạn đầu
bán được tranh là việc mà bất kỳ họa sĩ nào của thời kỳ Đổi mới (1986 - 1996) đặc biệt cao
cũng tha thiết mong muốn. Ngay sau khi thực với giá trị khá lớn và thị trường mỹ thuật được
hiện chính sách Đổi mới năm 1986, hầu hết đánh giá là phát triển sôi nổi. Đơn cử, theo
người Việt Nam rất phấn khởi tập trung vào công bố của họa sĩ Nguyễn Văn Chiến, tổng
việc làm ăn kinh tế “nhà nhà bung ra, người hợp từ số liệu bán hàng tại Nhà triển lãm của
người bung ra”. Giới nghệ sĩ, đặc biệt là các Hội Nghệ sĩ Tạo hình Việt Nam 16 Ngô Quyền,
họa sĩ cũng không nằm ngoài xu thế chung, trong 3 năm (từ 6/1991 - 1993), nơi này đã tổ
cố gắng phát triển và cải thiện đời sống, cố chức được 76 triển lãm. Trong đó kỷ lục bán
gắng đáp ứng yêu cầu của thị trường để tồn tranh phải kể đến triển lãm của họa sĩ Phạm
tại và hoạt động nghệ thuật. Với số lượng họa Luận là 10.000 USD; các triển lãm khác của Đỗ
sĩ khá hùng hậu, chỉ riêng trên địa bàn thành Đức đạt 9.000 USD, của Trần Khánh Chương,
phố Hà Nội đã có tới 200 họa sĩ của Hội Mỹ Mai Hiên - Anh Khánh, Lê Hàn - Lê Huyên,…
thuật Hà Nội và 600 hội viên của Hội Mỹ thuật xấp xỉ 4.000 USD. Tác phẩm bán được giá cao
Việt Nam (tính đến năm 1993) (5), chưa kể đến nhất là Thiếu nữ Dao (phấn màu) của Mai Long
các họa sĩ không phải hoặc chưa phải hội viên với giá 2.000 USD cho một khách hàng người
và sinh viên các trường mỹ thuật, họ không Philippines gốc Mỹ; Thiếu nữ của Trần Đông
những vẽ tranh để đáp ứng nhu cầu của các Lương 1.500 USD; Đàn bò (lụa) của Cơ Chu Pin
đối tượng khách mua khác nhau, mà còn tham 1.200 USD; Phố Hàng Đào (sơn dầu) của Phạm
gia các công việc khác có liên quan nhằm cải Luận 1.000 USD… Hầu hết các triển lãm đều
thiện đời sống của bản thân và gia đình mình. bán được tranh (2).
Lúc đó, tiền bán tranh có thể bằng hoặc gấp Các họa sĩ phải thích nghi với hoàn cảnh
hai, ba tháng lương (Thời điểm năm 1988, 1 mới. Không phải như trước Đổi mới, Nhà nước
đôla Mỹ bằng 4.000 đồng Việt Nam, trong khi hay hội nghề nghiệp, mà chính là những người
lương của cán bộ, công chức nhà nước trung nước ngoài có quyền yêu cầu các họa sĩ nên vẽ
bình khoảng 20 đôla Mỹ/tháng) (8). Theo lời gì thông qua việc họ mua gì. Thương trường
họa sĩ Đỗ Thị Ninh (người trông coi và quản lý bao giờ cũng có tính thương mại, người sản
triển lãm ở Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền, Hà xuất phải đáp ứng và phụ thuộc vào người
76 Số 25 - Tháng 9 - 2018
- VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
tiêu dùng, mà trong mỹ thuật, người tiêu dùng Cứ như thế, triển lãm và bán tranh thường
chủ yếu là khách nước ngoài. Những khách xuyên làm thay đổi điều kiện sống và kích
hàng chủ yếu của mỹ thuật Việt Nam giai đoạn thích sự lao động, sáng tạo nghệ thuật của các
này thường là: 1/ Các nhà ngoại giao và nhà hoạ sĩ, nhưng với tiềm lực kinh tế mạnh mẽ,
quản lý công ty đang sống ở Việt Nam. Địa gallery rất dễ dàng thay đổi hướng đi, làm cùn
vị xã hội và thu nhập của họ ở Việt Nam cao sức sáng tạo của các họa sĩ, từ đó làm tha hóa
hơn so với hầu hết người dân Việt Nam. Mức lao động nghệ thuật cá nhân và cuối cùng là cả
giá thấp hơn cũng là yếu tố khuyến khích cộng đồng nghệ thuật. Các họa sĩ càng có được
họ mua các tác phẩm nghệ thuật bản địa; 2/ cuộc sống khá giả từ bán tranh càng phải chạy
Những người châu Âu đến từ Hồng Kông và theo để duy trì cuộc sống đó. Hiện tượng này
Singapore; 3/ Khách du lịch, thường ưa thích đẩy Việt Nam, với sự bùng nổ của các gallery,
kiểu mỹ thuật có những dấu ấn ngoại lai và có đặc biệt vào những năm 1992 - 1993, trở thành
xu hướng phương Đông (7). Lượng khách này một nước sản xuất nghệ thuật (11). Từ đó kéo
chỉ mua những sản phẩm hàng hóa phù hợp theo các hệ quả tác động xấu đến diện mạo
với nhu cầu, thị hiếu và trình độ của họ. Dựa của mỹ thuật thời kỳ Đổi mới như hiện tượng
trên lợi ích kinh tế, thị trường mỹ thuật với vai biến truyền thống thành đồ trang sức và đồ lưu
trò quan trọng của các gallery của tư nhân, chi niệm cho khách du lịch nhằm đánh vào tính
phối sáng tác của các họa sĩ, biến họ trở thành hiếu kỳ, chuộng lạ; hay hiện tượng dân tộc thái
những lực lượng nhân công đặc biệt, sáng tác quá với đủ các kiểu đề tài như làng mạc, đồng
để làm hài lòng khách hàng. Nói cách khác, thị dao, ngây thơ, hoài cổ, tâm linh, tín ngưỡng,
trường trở thành định hướng sáng tác cho các nhục cảm… với những mô típ, ký hiệu, biểu
nghệ sĩ, bởi tranh tiêu thụ được trên thị trường tượng mang dáng vẻ đặc trưng dân tộc như
là động lực thúc đẩy mạnh mẽ các họa sĩ tiếp trâu bò, thôn nữ, yếm đào, nón quai thao, áo
tục sáng tác. Các họa sĩ chịu nhiều áp lực trong tứ thân, hoa sen, lá chuối, cờ phướn, quạt nan,
việc sáng tác làm hài lòng người mua, thông đèn dầu, nhà sư, lồng chim, tiền cổ… những
qua mối quan hệ với các gallery, nhằm mục mô típ được xem là mang âm hưởng phương
đích thay đổi đời sống vật chất của chính bản Đông đối với khách du lịch nước ngoài. Phụ nữ
thân họ và gia đình. Họa sĩ không chỉ biết đến đẹp, phong cảnh và những motip bản địa được
sáng tác mà còn phải quan tâm đến việc xây ngụy trang dưới lớp màu sắc phong phú theo
dựng và duy trì các mối quan hệ xã hội khác phong cách biểu hiện là kiểu tranh phổ biến
trên thị trường mỹ thuật để có thể xúc tiến được bán ở các gallery Hà Nội (12). Kết quả là
việc bán tranh được thuận lợi. Nhiều họa sĩ lấy người họa sĩ đã tạo ra một sản phẩm dường
thước đo thành công trong nghề nghiệp từ như có vẻ “an toàn” đối các nhà phê bình nước
việc đáp ứng được thị hiếu của công chúng có ngoài nhưng hậu quả là bào mòn năng lực
tiền, của khách du lịch. Vẽ không chỉ đơn thuần sáng tạo, làm méo mó truyền thống và bộ
là sáng tạo nghệ thuật vì tranh đã trở thành mặt của mỹ thuật. Đặc biệt, những năm 1997
hàng hóa, bán được hay không tùy thuộc vào - 1998, cuộc khủng hoảng tài chính trên thế
quan hệ xã hội giữa những người bán tranh và giới khiến cho các gallery hoạt động chững lại,
người tiêu dùng (3). Có họa sĩ đã phải thẳng hoạt động kinh doanh mỹ thuật ở Hà Nội lắng
thắng thừa nhận: Đúng là có họa sĩ giỏi 10 năm xuống. Thị trường mỹ thuật với các dạng đầu tư
nay bán tranh rất đều, kiếm rất nhiều tiền nhưng của các nhà sưu tập dành cho những tác phẩm
họ đã chết trong sáng tạo. Họ vẽ trong một biên có giá trị cao giảm xuống rất nhiều mà chủ yếu
độ an toàn để bán được tranh. Ở đây có thực tế chỉ dành cho khách du lịch với giá trị thấp như
là chính Thượng đế - khách hàng giết chết họ, các dạng tranh postcard, tranh souvernir… Cho
khi chỉ quen mua một loại tranh, thành ra họa sĩ nên vào giai đoạn cuối của thời kỳ Đổi mới, từ
phải liên tục “sản xuất” tranh theo hướng đó để mối quan hệ nhà bảo trợ nước ngoài - khách
cung cấp (4). hàng trong nước đã khiến cho các họa sĩ lâu nay
Số 25 - Tháng 9 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
77
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
chỉ phục vụ thị hiếu phương Tây bắt đầu nhận đang sở hữu bộ sưu tập phong phú tác phẩm
ra họ là những “nô lệ” trên thị trường buôn bán mỹ thuật Việt Nam là Bảo tàng Mỹ thuật quốc
mỹ thuật quốc tế. gia Singapore chuyên sưu tập tranh hiện đại
Như vậy, có thể thấy “thương mại hóa” mỹ và Bảo tàng nghệ thuật châu Á Fukuoka sưu
thuật được tiếp nhận theo nhiều cách khác tập cả tác phẩm mỹ thuật hiện đại và đương
nhau. Ai thích nghi được thì coi thương mại đại của Việt Nam. Ngoài ra, một số nhà sưu tập
hóa là tự nhiên và coi việc đáp ứng thị hiếu châu Á cũng lưu giữ hàng trăm tác phẩm mỹ
trên thị trường mỹ thuật là yếu tố đánh giá giá thuật Việt Nam có giá trị. Có thể nói rằng, mỹ
trị tác phẩm. Còn những ai không thích nghi thuật Việt Nam mất nhiều hơn được trong quá
được với thương mại hóa, dẫn đến chỉ trích nó trình mua bán, bởi những tác phẩm nằm trong
cũng xuất phát từ nhiều lý do: phản ứng với các bộ sưu tập nước ngoài nhanh chóng bị rơi
các tác phẩm tồi, sao chép; hoặc có thể không vào lãng quên và không được đóng góp vào
đáp ứng nổi thị trường. Tất nhiên không thể truyền thống mỹ thuật đất nước.
cho rằng kinh tế là cái quyết định mọi hoạt 3. Với thương mại hóa, nhiều tác phẩm mỹ
động sáng tạo, đặc biệt trong mỹ thuật, nhưng thuật có thể bị mất đi bản sắc văn hóa dân tộc
sức mạnh vô hình của nó ảnh hưởng mạnh mẽ nhưng thị trường và thương mại hóa không
đến lối sống, cách suy nghĩ, cách hành xử của phải không có những tác động tích cực đến
từng cá nhân con người nói chung cũng như mỹ thuật. Một trong những tác động tích cực
quan niệm nghệ thuật, tư duy sáng tạo của không thể phủ nhận đó là từ một thị trường
các họa sĩ nói riêng. Dù thế nào, thì hiện tượng hoạt động đơn điệu, hình thức, thị trường
thương mại hóa trong mỹ thuật là nguyên mỹ thuật Việt Nam đã phát triển sôi động và
nhân của rất nhiều hệ lụy khác mà ngay trong hoạt động chuyên nghiệp hơn. Bởi một lẽ, dù
thời kỳ đổi mới chưa lường trước được. Trong muốn hay không, trao đổi tác phẩm trên thị
đó, một hệ quả to lớn là gây ra một khoảng trường mỹ thuật vẫn là mục tiêu trước mắt
trống trong lịch sử mỹ thuật nước nhà: chảy để các họa sĩ, đặc biệt là các họa sĩ tự do tồn
máu tác phẩm mỹ thuật ra nước ngoài. Trong tại, tiếp tục phát triển nghề nghiệp. Không
20 năm đổi mới (1986 - 2006), các họa sĩ Việt thể chỉ cho rằng thị trường là cái quyết định
Nam đã tham gia các cuộc triển lãm 2 năm, 3 mọi hoạt động sáng tạo của các nghệ sĩ tạo
năm một lần, từ Rio đến Brisbane, và cũng trở hình, mà còn nhiều yếu tố khác chi phối như
thành chủ đề của những cuộc triển lãm đơn lối sống thực dụng, văn hóa tiêu dùng từ các
tổ chức ở các gallery khắp châu Á, đặc biệt là luồng văn hóa bên ngoài tràn vào, kết hợp lại,
Hong Kong và Singapore. Các tác phẩm mỹ đẩy mỹ thuật đi sâu vào tính chất thương mại
thuật của Việt Nam đã thu hút sự chú ý của hóa nặng nề. Như vậy, việc tôi rèn bản lĩnh
nhiều phòng tranh, nhà bán tranh và bảo nghệ thuật chân chính là vô cùng cần thiết.
tàng ở Đông Nam Á nhờ tư duy tạo hình, kỹ Kinh tế thị trường với những mặt tiêu cực vốn
thuật, những ý đồ sáng tạo không quá cách có của nó như coi đồng tiền là tất cả, ích kỷ,
biệt so với thế giới, mang đậm ngôn ngữ quốc cạnh tranh một cách tàn nhẫn, cái gì cũng có
tế (6). Cho nên rất nhiều tác phẩm rời bỏ đất thể trở thành đối tượng của kinh doanh buôn
nước, được bán cho các bảo tàng, nhà sưu bán, không ngoại trừ các tác phẩm mỹ thuật.
tập nước ngoài, do không được các bảo tàng Với tính chất thương mại hóa của kinh tế thị
trong nước sưu tập giữ lại, trong đó có Bảo trường, sự phát triển nóng của thị trường mỹ
tàng Mỹ thuật Việt Nam. Cũng có thể do ngân thuật khi bước sang thời kỳ mở cửa sẽ gây ảnh
sách để mua tác phẩm hạn hẹp nên Bảo tàng hưởng sâu sắc hơn, gây tổn thương cho nền
Mỹ thuật Việt Nam chưa sưu tập được nhiều mỹ thuật lâu dài hơn những yếu tố khác, trong
tác phẩm, đặc biệt là các tác phẩm mỹ thuật đó có vấn đề chảy máu tác phẩm mỹ thuật. Mỹ
thời kỳ đầu Đổi mới. Hiện nay có 2 bảo tàng thuật Việt Nam sẽ khó có thể lấp đầy khoảng
78 Số 25 - Tháng 9 - 2018
- VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
trống di sản mỹ thuật đó. Phải giảm bớt các Tài liệu tham khảo
tác hại của kinh tế thị trường đối với mỹ thuật
Tiếng Việt
nếu muốn có một nền mỹ thuật phát triển, bởi
với những mặt tiêu cực vốn có của nó, kinh tế 1. Vương Như Chiêm (1996), Một vài suy nghĩ
thị trường sẽ tàn phá, hủy hoại mỹ thuật. Tuy qua Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 1995, Tạp chí Mỹ
nhiên, vẫn phải chấp nhận tính hai mặt của thị thuật Thời nay, số10, tr.13-14.
trường. Khi đã có kinh tế thị trường, đã có thị 2. Nguyễn Văn Chiến (1994), Thử tìm vài “kỷ
trường mỹ thuật, phải vận dụng ngay cơ chế lục” bán tranh ở 16 Ngô Quyền, Tạp chí Mỹ thuật
vận hành của kinh tế thị trường để phát triển Thời nay, số 4, tr.36.
mỹ thuật. Do đó, cần dự đoán và dự tính những
3. Trần Lưu Hậu (1994), Một số nét về hoạt
cách khắc phục tác động tiêu cực của nó đối
động mỹ thuật trong những năm gần đây, Tạp chí
với mỹ thuật. Tuy nhiên, có thể đánh giá đây là
Mỹ thuật Thời nay, số 1A, tr.8.
một trong những xu hướng phát triển thấy rõ
bước tiến của mỹ thuật thời kỳ Đổi mới. Và có 4. Họa sĩ Lương Xuân Đoàn (2007), Phải là
thể khẳng định rằng thời kỳ đầu Đổi mới (1986 cách mạng về ý thức thẩm mỹ, http://cinet.vn/
- 2006) là một trong những giai đoạn bước articledetail.aspx?articleid=12220&sitepageid=5
ngoặt trong lịch sử phát triển của mỹ thuật. 40#sthash.GR9epNWK.dpbs
4. Đổi mới - một thời kỳ phát triển được 5. Hội Nghệ sĩ Tạo hình Việt Nam (1993), 35
đánh giá là sôi động của mỹ thuật Việt Nam năm Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam, 1957 - 1992,
nhưng di sản chỉ còn lại ít nhiều tác phẩm được Hà Nội.
in trong sách vở. Ngay trong một triển lãm mỹ 6. N.H (2002), Họa sĩ Việt Nam đã bước đến con
thuật mới gần đây về mỹ thuật đổi mới, số đường lớn, Tạp chí Mỹ thuật, số 54, tr.30-31.
lượng tác phẩm sáng tác từ những năm 1986 7. Natalia Kraevskaia (2007), Nghệ thuật Việt
đến 2000 được trưng bày rất ít. Thậm chí, khi Nam: Cái nhìn của nhà buôn tranh nước ngoài,
cần xây dựng niên phổ về các họa sĩ nổi tiếng https://www.academia.edu
Việt Nam, những người biên soạn đều phải 8. Nhiều tác giả (1991), Việt Nam đổi mới kinh
phụ thuộc vào nguồn tài liệu của các nhà sưu tế nhìn từ nước ngoài, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
tập nước ngoài. Vấn đề đặt ra là cần xây dựng Tiếng Anh
chiến lược lưu giữ và sưu tập các tác phẩm 9. Alexandra Bots (2009), “Is the future of the
mỹ thuật của các họa sĩ đương đại ngay từ Art market at stake?”- The effects of the financial
bây giờ, để không tạo ra những khoảng trống crisis on the secondary art market in Amsterdam
mới trong lịch sử mỹ thuật nước nhà. Các tác (Master), Erasmus University Rotterdam.
phẩm mỹ thuật cần được xây dựng hồ sơ, lưu 10. Nora Taylor (1997), The artist and the state:
trữ, bảo vệ; từ đó, tập hợp một lượng lớn các the polictics of painting and national identity in
tác phẩm tiêu biểu, đại diện, theo hệ thống để Hanoi, Viet Nam, 1925 - 1995 (PhD.).
hình thành những bộ sưu tập. Những bộ sưu
11. Nora Taylor (1999), “Pho” Phai and Faux
tập này phải được định giá, phát triển và dễ
Phai: The market for the fakes and the appropriation
dàng tiếp cận, nhằm phát huy giá trị của nó of a Vietnamese national symbol, Ethnos, 64/2,
trong đời sống và trong giáo dục. Bằng cách pp.233-248.
xây dựng và phát triển những bộ sưu tập nghệ
12. Nora Taylor (2005), Why have there been
thuật, chúng ta có thể bảo tồn và tôn vinh giá
no great Vietnamese artists?, Michigan Quarterly
trị di sản mỹ thuật Việt Nam, chia sẻ nó với thế
Review, XLIV.
giới và gìn giữ cho thế hệ mai sau.
N.T.T.N Ngày nhận bài: 6 - 8 - 2018
(TS., Khoa Quản lý văn hóa nghệ thuật, Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 9 - 2018
Trường ĐHVHHN) Ngày chấp nhận đăng: 23 - 9 - 2018
Số 25 - Tháng 9 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
79
nguon tai.lieu . vn