Xem mẫu
- XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Thái Thế Hùng*
Nguyễn Văn Hạnh*
TÓM TẮT:
Giáo dục nghề nghiệp đã có một quá trình phát triển lâu dài đi cùng với lịch sử văn
minh của nhân loại. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, giáo dục nghề nghiệp có những xu hướng phát
triển khác nhau, trên cơ sở nối tiếp, kế thừa và đổi mới đáp ứng với những thay đổi của thế
giới việc làm. Dựa vào xu hướng phát triển giáo dục nghề nghiệp trên thế giới, bài viết nhận
định những bài học đối với sự phát triển giáo dục nghề nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hiện
nay và đó là cơ sở để Đảng và Nhà nước có thể hoạch định chính sách cho sự phát triển giáo
dục nghề nghiệp của nước ta trong thời gian tới.
Từ khóa: xu hướng, giáo dục nghề nghiệp, thế giới.
I. NỘI DUNG
1. Tổng quan về những thách thức và xu hướng phát triển giáo dục nghề
nghiệp trên thế giới
Trong mục này, bài viết sẽ bình luận về những nghiên cứu, báo cáo khoa học
nổi bật gần đây để phát hiện những thách thức và xu hướng phát triển giáo dục và
đào tạo nghề trên thế giới.
Trong cuốn sách với tựa đề “Tương lai của giáo dục và đào tạo nghề trong
một thế giới đang thay đổi” [5] của Matthias Pilz (2012) đã chỉ ra những thay đổi
mạnh mẽ trong thế giới nghề nghiệp, trong đó (1) việc sử dụng công nghệ ngày
càng tăng, (2) tầm quan trọng ngày càng tăng lên của hệ thống thông tin và truyền
thông, và (3) sự thay đổi nhân khẩu của quốc gia. Do vậy, giáo dục và đào tạo nghề
đang phải đối diện với những thách thức rất lớn trong việc giải quyết những thay
đổi này, thu hẹp khoảng cách từ giáo dục đến việc làm và đảm bảo rằng người học
có kỹ năng thích ứng với sự thay đổi nghề nghiệp và kiến thức về kinh tế gắn liền
với nhu cầu việc làm.
TAFE (Technical and Further Education) – một tổ chức giáo dục và đào tạo
nghề tại Úc được chính phủ tài trợ kinh phí đào tạo với điều khoản bảo lãnh việc
* Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
146
- làm sau tốt nghiệp vô tình đã làm giảm quy luật “cung - cầu” của thị trường lao
động. Cuối những năm 2011, việc chính phủ cắt giảm kinh phí tài trợ cho TAFE đã
gây ra khủng hoảng trầm trọng đối với tổ chức này, dẫn đến việc cắt giảm khóa học
và đóng cửa nhiều cơ sở đào tạo nghề [4]. Bài học lớn nhất được rút ra từ chính
sách đào tạo nghề, đó là chính phủ nên sẵn sàng tài trợ kinh phí đào tạo cho TAFE,
nhưng phải làm cho TAFE trở thành một tổ chức cung cấp dịch vụ đào tạo nghề
chất lượng cao có sức cạnh tranh trên thế giới chứ không phải sự bao cấp việc làm
do chính phủ tài trợ.
Montague (2014) cho rằng, thị trường lao động ngày càng cần những lao
động lành nghề có năng suất trong bối cảnh dân số về hưu đông hơn lực lượng
lao động. Đào tạo nghề càng phải được tăng cường để đảm bảo chất lượng đào
tạo nhằm cung cấp lực lượng lao động được đào tạo tốt và tích cực [3]. Các tiêu
chuẩn về năng suất lao động trong công nghiệp không ngừng gia tăng với sự hỗ
trợ của công nghệ, phương pháp và kỹ năng làm việc của con người. Do đó, giáo
dục và đào tạo nghề cũng đang đối diện với thách thức đáp ứng chất lượng đào tạo
để được công nhận theo tiêu chuẩn chất lượng công nghiệp của nhà tuyển dụng ở
khu vực và toàn cầu.
Smith (2014) cho rằng, trình độ của giáo viên có vai trò quyết định đến chất
lượng đào tạo người học nghề [7]. Trong khi thế giới nghề nghiệp luôn biến đổi,
giáo viên với chỉ bằng cấp chuyên môn chính qui là chưa đủ, họ nên được bồi
dưỡng thường xuyên để phát triển chuyên môn nghiệp vụ. Bài học được rút ra là
các cơ quan quản lí giáo dục nên có chính sách, đặc biệt là các nguồn kinh phí tài
trợ cho các khóa đào tạo/ bồi dưỡng giáo viên thường xuyên.
Trong báo cáo với tựa đề “Thế giới việc làm và triển vọng xã hội 2018: Xanh
hóa việc làm”, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) nhấn mạnh đến ảnh hưởng của các
chính sách chống biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường trái đất đến thị trường
lao động, khối lượng việc làm, và định hướng sự thay đổi của cơ cấu cấu nghề ở
hiện tại và tương lai gần [2]. Do đó, xu hướng của giáo dục và đào tạo nghề phải
cung cấp nguồn nhân lực cho một nền kinh tế xanh hơn (greener economy), có
khả năng thích ứng với những tiềm năng việc làm và thúc đẩy công việc tốt hơn
trong tương lai.
Năm 2018, trong một báo cáo nhận định về tương lai của giáo dục và đào
tạo nghề của Ủy ban Tư vấn Giáo dục Nghề nghiệp của EU (Advisory Committee
on Vocational Education) cho rằng [1], thế giới nghề nghiệp đang thay đổi nhanh
chóng, sự thay đổi về yêu cầu kỹ năng nghề cùng với sự phát triển kinh tế và công
nghệ đang đặt ra những thách thức đáng kể cũng như cơ hội cho những giải pháp
sáng tạo trong GDNN. Một tuyên bố về ba yếu tố cốt lõi cho tầm nhìn tương lai
giáo dục và đào tạo nghề đến năm 2030 đã được hình thành gồm:
147
- (1) Tăng cường đào tạo các kỹ năng và trình độ cho người học để vừa đảm
bảo việc làm, vừa có khả năng thích ứng với thế giới nghề nghiệp luôn thay đổi.
(2) Cung cấp cơ hội truy cập và đổi mới (điều chỉnh) các điều khoản, chính
sách đảm bảo chất lượng đào tạo trong Hệ thống Đào tạo nghề Châu Âu năm 2030.
(3) Tích hợp đồng bộ và đảm bảo chất lượng đào tạo nghề bằng các chính
sách cụ thể (từ chính phủ đến quản trị nhà trường) để hướng đến nâng cao chất
lượng và chia sẻ trách nhiệm xã hội trong đào tạo nghề.
Theo Schubert & Goedegebuure (2018) [6] nhấn mạnh rằng, cơ cấu lao động
đang thay đổi nhanh chóng và đào tạo nghề cần cung cấp một lực lượng lao động
với kỹ năng mới và linh hoạt để thích ứng với sự thay đổi nhiều hơn nữa của thế
giới nghề nghiệp. Bài học được rút ra là giáo dục và đào tạo nghề cần phải được
trao nhiều quyền tự chủ để cung cấp các dịch vụ giáo dục có tính năng động, sáng
tạo, thích ứng và hội nhập.
Theo Walker & Johnston (2019) [8], đầu tư công vào STEM (khoa học, công
nghệ, kỹ thuật và toán học) trong đào tạo nghề có thể thúc đẩy các quốc gia hướng
tới một nền kinh tế mạnh mẽ và bền vững. Do đó, các quốc gia nên tuyên bố về
tầm nhìn STEM trong các tuyên bố chính sách của mình, có mức độ tư duy phù
hợp và chiến lược dài hạn.
2. Những bài học cho sự phát triển giáo dục nghề nghiệp Việt Nam
Dựa vào xu hướng phát triển GDNN trên thế giới, bài viết nhận định những
bài học đối với sự phát triển GDNN Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là cơ sở để
hoạch định chính sách cho sự phát triển GDNN.
(1) Phải liên tục đổi mới chương trình đào tạo nghề và cập nhật các kỹ năng
nghề mới để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Làn sóng “Cách mạng công nghiệp 4.0” đã và đang làm thay đổi kỹ năng lao
động. Do vậy, việc đào tạo một số kỹ năng nghề trong truyền thống có thể không
còn phù hợp và cần được đổi mới kịp thời. Nhiều nghề cũ mất đi và nhiều nghề
mới ra đời là xu hướng tất yếu, buộc các chương trình cũng phải thay đổi theo. Các
cơ sở GDNN phải luôn không ngừng đổi mới chương trình đào tạo, liên tục cập
nhật kỹ năng nghề mới để thu hẹp khoảng cách từ nhà trường đến các tiêu chuẩn
chất lượng công nghiệp mới của nhà tuyển dụng. Việc xây dựng một hệ thống
GDNN mở (open), áp dụng các phương thức đào tạo linh hoạt là giải pháp để
người học theo kịp và thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động luôn thay đổi.
(2) Việc tài trợ kinh phí cho các cơ sở GDNN cần hướng đến tính cạnh tranh
trên thị trường lao động thay vì chính sách bao cấp việc làm.
148
- Nhà nước nên sẵn sàng tài trợ/hỗ trợ kinh phí cho các cơ sở đào tạo nghề,
nhưng cần giúp họ trở thành một tổ chức GDNN cung cấp nguồn nhân lực có sức
cạnh tranh cao trên thị trường lao động. Việc kèm theo các điều khoản cam kết
bảo lãnh việc làm sau tốt nghiệp sẽ làm mất đi quy luật “cung - cầu” của thị trường
lao động trong bối cảnh người lao động có thể tự do di chuyển việc làm trong khu
vực và toàn cầu. Bằng chứng cho thấy, mô hình cơ sở GDNN trực thuộc các tập
đoàn công nghiệp nhằm cung cấp nguồn nhân lực nội bộ đang mất dần giá trị,
giảm sức cạnh tranh trên thị trường lao động.
(3) Tích hợp mục tiêu, nội dung giáo dục phát triển bền vững vào trong
chương trình đào tạo nghề
Hiện nay, lĩnh vực tái chế, giảm phát thải và hạn chế tác động xấu đến môi
trường đang là xu hướng phát triển của các doanh nghiệp trên thế giới. Điều này
làm xuất hiện thêm nhiều môn học/ mô đun hoặc nghề mới trong chương trình
đào tạo của các cơ sở GDNN. Chẳng hạn như các lĩnh vực về năng lượng mặt trời,
năng lượng gió, năng lượng tái tạo, xử lý nước thải được cập nhật bổ sung vào
trong chương trình đào tạo nghề. Từ đó, người học nghề sẽ có khả năng thích ứng
với những tiềm năng việc làm và thúc đẩy công việc tốt hơn trong tương lai.
(4) Thiết lập sự hợp tác mạnh mẽ giữa các cơ sở GDNN và doanh nghiệp.
Các cơ sở GDNN có thể phát triển thương hiệu riêng của họ và cung cấp
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng tiêu chuẩn tuyển dụng. Các công ty có thể
hợp tác với các cơ sở GDNN trong việc lập kế hoạch, phát triển khóa học, giảng
dạy và đánh giá các chương trình. Chính phủ và chính quyền địa phương nên cung
cấp các ưu đãi cho các công ty/doanh nghiệp này để khuyến khích sự hợp tác giữa
các cơ sở GDNN và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, bản thân các công ty cảm thấy
họ có vai trò, trách nhiệm trong đào tạo nguồn nhân lực có năng lực và trình độ.
Nhiều công ty có thể trực tiếp ủy thác các cơ sở GDNN phát triển các chương trình
đào tạo cụ thể và đặt hàng số lượng sinh viên tốt nghiệp nhất định đáp ứng các tiêu
chuẩn nghề nghiệp.
(5) Xây dựng chính sách STEM trong đào tạo nghề để phát triển một nền
kinh tế mạnh mẽ và bền vững
Hiện nay trên thế giới, STEM thực sự đã và đang được xem là một trong
những giải pháp để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (thời đại của bùng nổ công nghệ, đặc biệt là
CNTT&TT). STEM có thể giúp định hình các ngành nghề đào tạo mới. Những
người làm việc trong lĩnh vực STEM có khả năng ứng dụng các kỹ năng toán học,
khoa học và công nghệ (đặc biệt là CNTT&TT) để hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động
149
- thiết kế kỹ thuật. Nhu cầu tuyển dụng các công việc liên quan đến STEM ngày càng
tăng trên thế giới. Vì vậy, rất nhiều các quốc gia đã đưa ra tuyên bố về tầm nhìn
và chính sách STEM, có mức độ đầu tư phù hợp và chiến lược dài hạn. Tại Hoa
Kỳ [9], chính sách STEM nhấn mạnh việc người lao động Mỹ phải có tay nghề cao
để dễ kiếm được việc làm trong các ngành STEM, giúp cạnh tranh với quốc tế và
tăng lợi ích cho nước Mỹ. STEM là yếu tố cốt lõi để đáp ứng thị trường lao động
của nước Mỹ. Giáo dục STEM là phương tiện kết nối các hệ thống giáo dục với các
nhà tuyển dụng nhằm để đạt đến mục tiêu cuối cùng là các học sinh, sinh viên tìm
và giữ được việc làm tốt ngay sau khi rời ghế nhà trường hơn là bản thân những
hoạt động diễn ra trong lớp học, phòng thí nghiệm và trong cuộc sống hàng ngày.
Tại Việt Nam, STEM được nhắc đến nhiều trong lĩnh vực giáo dục phổ thông và
đại học, trong khi tầm nhìn và chính sách STEM hầu như thiếu vắng trong lĩnh
vực GDNN. Mặc dù các sinh viên học hết chương trình đào tạo trình độ cao đẳng
thì được cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng và công nhận danh hiệu cử nhân thực hành
hoặc kỹ sư thực hành (Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014, Điều 38, mục 1, khoản c).
II. KẾT LUẬN
Bài viết này đã tổng quan ngắn về những thách thức và xu hướng phát triển
GDNN trên thế giới, từ đó định hướng những bài học cho sự phát triển GDNN
Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu này có thể góp phần vào định hướng tầm nhìn,
chính sách phát triển GDNN nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế./.
150
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. EU. (2018). Opinion on the future of vocational education and traning post 2020.
Employment Social Affairs and Inclusion. 3 December 2018.
2. International Labour Organization – ILO. (2018). World Employment and Social Outlook
2018: Greening with jobs. (Report). 978-92-2-131646-6. https://www.ilo.org/global/
publications/books/WCMS_628654/lang--en/index.htm.
3. Montague, A. (2014). Not all vocational training providers are stacking up. Retrieved 15
April 2019. https://theconversation.com/not-all-vocational-training-providers-are-stacking-
up-32136.
4. Noonan, P. (2014). Learning from Victoria’s TAFE mistakes. Retrieved 15 April 2019.
https://theconversation.com/learning-from-victorias-tafe-mistakes-34646.
5. Pilz, M. (Ed.). (2012). The future of vocational education and training in a changing world
(book). VS Verlag für Sozialwissenschaften. http://hdl.voced.edu.au/10707/211357.
6. Schubert, R. & Goedegebuure, L. (2018). The vocational education sector needs a plan and
action, not more talk. Retrieved 15 April 2019. http://theconversation.com/the-vocational-
education-sector-needs-a-plan-and-action-not-more-talk-102770.
7. Smith, E. (2014). Teachers and trainers are vital to the quality of the VET sector, and
to the success of its learners. Retrieved 15 April 2019. https://theconversation.com/
teachers-and-trainers-are-vital-to-the-quality-of-the-vet-sector-and-to-the-success-of-its-
learners-101384.
8. Walker, K., Johnston, E. (2019). STEM is worth investing in, but Australia’s major parties
offer scant details on policy and funding. Retrieved 15 April 2019. https://theconversation.
com/stem-is-worth-investing-in-but-australias-major-parties-offer-scant-details-on-policy-
and-funding-113739.
9. https://ec.europa.eu/social/BlobServlet?docId=20479&langId=en.
10. http://khoahocphattrien.vn/chinh-sach/chinh-quyen-trump-thay-doi-cach-tiep-can-
giao-duc-stem/2018120702424278p1c785.htm
151
nguon tai.lieu . vn